Xác định độc lực và quá trình cảm nhiễm của vi khuẩn Streptococcus iniae vào cá chẽm (Lates calcarifer)
Kết quả kiểm tra quá trình xâm nhập của vi
khuẩn S.iniae từ môi trường nuôi vào cơ thể cá
chẽm bằng phương pháp mô hóa miễn dịch cho
thấy mang là vị trí mà vi khuẩn xâm nhập đầu tiên.
Sau 6 giờ thí nghiệm, vi khuẩn đã xuất hiện ở mang
sơ cấp sau đó xâm nhập vào xoang tĩnh mạch. Thận
và lách là 2 cơ quan vi khuẩn hướng đến trước khi
cảm nhiễm vào gan, mắt và não và sau đó là ruột.
Kết quả này phù hợp với nhận định của Nguyen
2000 về quá trình phân tán của vi khuẩn S.iniae
trong cơ thể cá. Vi khuẩn đi theo các mạch máu vào
thận, lách của cá sau đó lại theo máu và xâm nhập
vào các cơ quan khác. Tuy nhiên, trong kết quả
này, vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể cá qua mang
chứ không phải qua những tổn thương ở vây như
nghiên cứu của Nguyen 2000.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định độc lực và quá trình cảm nhiễm của vi khuẩn Streptococcus iniae vào cá chẽm (Lates calcarifer), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 3
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
XÁC ĐỊNH ĐỘC LỰC VÀ QUÁ TRÌNH CẢM NHIỄM CỦA VI KHUẨN
Streptococcus iniae VÀO CÁ CHẼM (Lates calcarifer)
INVESTIGATION FOR THE VIRULENCE AND THE ROUTE OF INFECTION OF
Streptococcus iniae IN BARRAMUNDI (Lates calcarifer)
Trần Vĩ Hích1, Nguyễn Hữu Dũng2
Ngày nhận bài: 24/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 27/11/2012; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013
TÓM TẮT
Việc ứng dụng kĩ thuật mô hóa miễn dịch đã làm sáng tỏ cách cảm nhiễm của vi khuẩn Streptococcus iniae vào cơ
thể cá chẽm khi ngâm cá vào môi trường có chứa 107 CFU/mL vi khuẩn (tương ứng với liều gây chết 50%). Kết quả thí
nghiệm cho thấy sau 6 giờ thí nghiệm, vi khuẩn S. iniae đã được phát hiện ở mang cá. Sau 12 giờ thí nghiệm, vi khuẩn đã
xâm nhập vào lách và thận. Sự xâm nhập của vi khuẩn vào mô ruột, mắt, não và gan chỉ xảy ra sau khi lách và thận cá đã
bị vi khuẩn cảm nhiễm với số lượng lớn. Kết quả này chứng tỏ vi khuẩn S. iniae tồn tại trong môi trường xâm nhập vào cơ
thể cá chẽm qua mang và gây cảm nhiễm hệ thống.
Từ khóa: Barramundi, S.iniae, con đường cảm nhiễm
ABTRACT
The application of immunohistochemistry technique has allowed to investigate the mode of infection of Streptococcus
niae in barramundi. A bacterial dose of 107CFU/mL corresponding to the LD50 delivered to barramundi through bath
exposure in 1 hour. The results showed that S. iniae was detected fi rst in gill of fi sh at 6 hours after challenge (HAC).
12 HAC the bacteria was detected at spleen and kidney of fi sh. The infection of S. iniae in the tissue of the intestine, eye,
brain and liver was only revealed after the spleen and kidney were infected seriously. It is suggested that S. iniae infections
in barramundi are systemic infections. The bacteria entered through the gill to cause the disease.
Key words: Barramundi, S. iniae, route of infection
1 ThS. Trần Vĩ Hích: Khoa Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Nguyễn Hữu Dũng: Trung tâm Nghiên cứu Giống và Dịch bệnh thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thành công của những mô hình thử nghiệm
nuôi cá chẽm ở các ao nuôi tôm hoang hóa đã
khẳng định cá chẽm là đối tượng nuôi mang lại
hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt, từ năm 2005, khi
cá chẽm phi lê đã tìm được thị trường xuất khẩu,
nghề nuôi cá chẽm đã phát triển nhanh chóng ở
các tỉnh Khánh Hòa, Cà Mau, Bến tre... và đưa
Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu cá chẽm.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nghề nuôi
cá chẽm, dịch bệnh cũng đã bắt đầu xuất hiện trên
đối tượng này và gây ra những thiệt hại nghiêm
trọng cho người nuôi, đặc biệt là dịch bệnh do
S.iniae gây ra. S.iniae được tìm thấy lần đầu tiên
ở cá heo nước ngọt (Inia geoffrensis) sau đó vi
khuẩn này được tìm thấy ở nhiều loài cá nuôi khác
như cá rô phi Oreochromis niloticus × O. aureus và
Tilapia nilotica x T. aureahybrids, cá đù đỏ Sciaenops
ocellatus, cá chẽm Lates calcarifer. Dấu hiệu của
cá mắc bệnh do S.iniae gây ra khác nhau giữa các
loài nhưng thường có một số biểu hiện như bơi
mất định hướng, màu sắc cơ thể chuyển sậm, xuất
huyết ở thân, gốc vây, lồi mắt.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định
con đường cảm nhiễm của vi khuẩn S. iniae từ môi
trường vào cá chẽm nuôi.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
4 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Chuẩn bị vi khuẩn Streptococcus iniae
Chủng vi khuẩn S.iniae VN091211R phân lập
từ cá chẽm Lates calcarifer nuôi trong hệ thống
mương nổi ở Khánh Hòa, được nuôi cấy tăng sinh
trong môi trường TSB bổ sung 2% NaCl đặt trong tủ
ấm lắc đảo (180rpm) ở nhiệt độ 280C trong 24 giờ.
Tế bào vi khuẩn sau khi thu hoạch được rửa 3 lần
bằng dụng dịch muối sinh lý đệm phosphate (PBS,
pH 7.4) rồi pha loãng trở lại bằng PBS để đạt mật
độ 109 CFU/ml. Mật độ vi khuẩn được xác định bằng
phương pháp đo mật độ quang bằng máy đo quang
phổ () và xác định lại bằng cách nuôi cấy trên đĩa
thạch TSA có bổ sung 2% NaCl.
2. Chuẩn bị cá chẽm thí nghiệm
Cá chẽm (chiều dài thân 3,8 ± 0,2cm) dùng trong
thí nghiệm này được sản xuất và ương nuôi thành cá
giống tại Trung tâm Nghiên cứu Giống và Dịch bệnh
thủy sản - Trường Đại học Nha Trang. Khỏe mạnh,
không có tiền sử bệnh tật và đã thích nghi với bể nuôi
thí nghiệm từ giai đoạn cá hương cho đến khi bắt đầu
sử dụng cho hoạt động nghiên cứu.
3. Bố trí thí nghiệm xác định độc lực của vi khuẩn
Thí nghiệm được bố trí với 7 nghiệm thức, mỗi
nghiệm thức gồm 40 cá chẽm đã được chuẩn bị ở
mục 2 nuôi trong bể composite 1000L chứa 500L
nước biển có độ mặn 30ppt. Tất cả cá thí nghiệm
được ngâm vào các xô chứa 2L nước biển có chứa
vi khuẩn S. iniae với mật độ tăng dần từ 103 CFU/mL
cho nghiệm thức 1 đến 108 CFU/mL cho nghiệm thức
6 trong 1 giờ trước khi đưa lại bể nuôi 500L. Ở nghiệm
thức đối chứng, cá cũng được đưa vào xô chứa 2L
nước biển trong 1 giờ trước khi đưa vào bể nuôi. Liều
gây chết 50% được xác định vào thời điểm sau 7 ngày
kể từ khi cá thí nghiệm dừng chết dựa vào phân tích
probit của phần mềm SPSS STATISTICS ver.19.
4. Bố trí thí nghiệm nghiên cứu quá trình xâm
nhập của vi khuẩn vào cá chẽm
Cho 1980ml nước biển (30 ppt) và cho thêm
20ml dịch huyền phù vi khuẩn đã được chuẩn bị ở
trên vào xô nhựa 5L, sục khí và đưa 30 cá chẽm
đã chuẩn bị như ở trên vào xô, giữ trong 60 phút.
Sau đó, đưa cá trở lại nuôi trong nước biển (30 ppt),
nhiệt độ từ 28 ± 20C và cho ăn thức ăn dành cho
cá chẽm của công ty UP theo nhu cầu của cá. Tiến
hành thu mẫu ngẫu nhiên 3 cá vào các thời điểm 6h,
12h, 24h, 48h và 72h sau khi cho cá vào bể nuôi, cố
định các mẫu gan, thận, lách, não, mắt và ruột cá
trong dung dịch Buffered Formallin 10% trong 24h
để nghiên cứu mô học.
5. Kỹ thuật mô hóa miễn dịch
Các cơ quan cá chẽm thu thập được xử lý theo
phương pháp mô học truyền thống, gắn parafi n
và cắt thành những lát mỏng dày 3-6µm. Sau khi
loại bỏ parafi n và làm no nước, cho vào hỗn hợp
H2O2 và methanol trong 10 phút nhằm bất hoạt men
peroxidase nội bào. Khóa các vị trí gắn kết không đặc
hiệu bằng cách cho mẫu cần nhuộm vào dung dịch
skim milk 3% (w/v) trong 10 phút ở nhiệt độ phòng
(260C) trước khi cho 50 - 100µL kháng thể đơn dòng của
chuột kháng S.iniae (mouse anti-Streptococcus iniae,
MAbs, AQUATIC Diagnostics Ltd.) lên lát cắt và
ủ trong buồng ẩm 60 phút ở nhiệt độ phòng. Rửa
lát cắt 3 lần trong TBS (Tris buffered saline) trước
khi cho thêm kháng thể đa dòng của thỏ kháng
immunoglobulin của chuột có gắn peroxidase
(Polyclonal Rabbit Anti-Mouse Immunoglobulins/
HRP, Dako) đã pha loãng trong TSB (1:50) và ủ trong
30 phút. Sau đó hoạt hóa peroxidase horseradish
bằng dung dung dịch 3,3’-Diaminobenzidinetetrahy-
drochloride (DAB) trong 10 phút. Kết thúc phản ứng
hoạt hóa bằng cách rửa lát cắt dưới vòi nước và
nhuộm thêm haematocyline trong 4 phút. Sự có mặt
của vi khuẩn S. iniae ở lát cắt mô làm mô cá có màu
nâu trên nền màu hơi xanh. Cường độ nhiễm khuẩn
ở các tổ chức được đánh giá theo 3 mức. +, ++ và
+++ tương ứng với tỉ lệ vùng tổ chức nhiễm khuẩn
và vùng tổ chức đó (vùng có màu nâu/vùng màu
xanh) lần lượt là 10%. Các mẫu mô
cá khỏe được sử dụng làm mẫu đối chứng.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Xác định độc lực của chủng vi khuẩn
VN091211R. bằng phương pháp ngâm
Kết quả thu được từ thí nghiệm cho thấy đàn cá
thí nghiệm xảy ra hiện tượng chết từ ngày thứ 2 sau
khi cảm nhiễm. Số lượng cá chết tăng mạnh vào
ngày thứ 3 và giảm nhiều vào ngày thứ 4, đến ngày
thứ 6 thì dừng hẳn (hình 1).
Hình 1. Tỉ lệ cá chẽm chết tích lũy sau khi ngâm vào môi
trường có chứa vi khuẩn S.iniae với các nồng độ khác nhau
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 5
Hầu hết cá hấp hối đều thể hiện dấu hiệu bơi lội bất thường như mất thăng bằng, nổi đầu hoặc bơi lờ đờ.
Các dấu hiệu khác như màu sắc cơ thể chuyển đen sậm, xuất huyết ngoài da, sưng thận cũng được tìm thấy
ở cá sau thí nghiệm. Tuy nhiên có nhiều cá chết sau thí nghiệm mà không thể hiện dấu hiệu bệnh lý. Kết quả
phân lập vi khuẩn từ cá thí nghiệm cũng thu được vi khuẩn S.iniae thuần khiết ở não, gan và thận cá. Không có
bất kỳ hiện tượng chết nào xảy ra ở cá đối chứng. Nồng độ vi khuẩn gây chết 50% khi tắm cá trong 1 giờ được
xác định là 106,8 CFU/mL (hình 2).
Hình 2. Tương quan giữa nồng độ vi khuẩn S.iniae tiêm vào xoang bụng
và tỉ lệ chết tích lũy của các nhóm cá chẽm thí nghiệm
2. Con đường cảm nhiễm của vi khuẩn Streptococcus iniae ở cá chẽm
Kết quả kiểm tra sự có mặt của vi khuẩn S.iniae ở các cơ quan của cá chẽm sau khi ngâm cá vào môi
trường có chứa vi khuẩn S.iniae với mật độ 107CFU/mL trong 1 giờ cho thấy mang cá là nơi xuất hiện vi khuẩn
lần đầu tiên (bảng 1). Sau 6 giờ thí nghiệm, có thể phát hiện sự tồn tại của vi khuẩn S.iniae ở tơ so cấp (hình
3A). Trong trường hợp nhiễm nặng, vi khuẩn S.iniae còn được phát hiện ở tơ mang thứ cấp và ở độ phóng đại
lớn có thể dễ dàng nhận thấy sự xâm nhập của vi khuẩn S.iniae vào xoang tĩnh mạch (hình 3B).
Bảng 1. Thời điểm phát hiện vi khuẩn S.iniae ở các cơ quan của cá chẽm
Giờ sau khi
ngâm (h) Mang Gan Thận Lách Não Mắt Ruột
6 + - - - - - -
12 +++ - ++ ++ - - -
24 +++ + +++ +++ + ++ -
48 +++ +++ +++ +++ ++ +++ ++
72 +++ +++ +++ +++ +++ +++ +++
Hình 3. Mang cá chẽm nhuộm mô hóa miễn dịch với vi khuẩn ở mang sơ cấp, mang thứ cấp và xoang tĩnh mạch mang
(SL: mang thứ cấp; PL: mang sơ cấp; VS: xoang tĩnh mạch; C: tế bào sụn)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Thận và lách là 2 cơ quan nội quan đầu tiên mà vi khuẩn S.iniae đến cảm nhiễm. Tại thời điểm 12h sau khi
cảm nhiễm, vi khuẩn S.iniae đã xuất hiện ở thận và lách với mật độ cao. Lúc đầu, vi khuẩn chỉ được phát hiện ở
mô kẽ quanh ống thận (hình 4A) tại thời điểm này cấu trúc ống thận chưa có sự thay đổi. Nhưng ở những mẫu
thận nhiễm vi khuẩn S.iniae với mật độ cao, vi khuẩn tấn công vào bên trong ống thận, phá hủy mô tạo máu,
gây hoại tử và để lại những thương tổn nặng nề cho tổ chức thận (hình 4B).
Hình 4. Thận cá chẽm nhiễm S.iniae nhuộm mô hóa miễn dịch
Sự hiện diện của S.iniae ở gan, não và mắt cũng được nhận biết bằng phương pháp mô hóa miễn dịch
(hình 5). Kết quả thí nghiệm cho biết thời điểm vi khuẩn S.iniae xâm nhập vào gan, não và mắt tương đương
nhau. Sau 24 giờ thí nghiệm vi khuẩn mới hiện diện ở các cơ quan này và mật độ vi khuẩn tiếp tục tăng cao ở
48 giờ tiếp theo. Mặt dù không thấy sự khác biệt về vị trí xâm nhập của vi khuẩn ở gan và não cá nhưng ở mắt,
vị trí ưa thích của vi khuẩn S.iniae có lẽ là tầng ngoài của võng mạc mắt. Quá trình cảm nhiễm vào ruột của vi
khuẩn S.iniae hình như tốn nhiều thời gian hơn. Phải sau 24 giờ mới phát hiện được sự có mặt của vi khuẩn
này ở ruột cá.
Hình 5. Một số cơ quan cá chẽm nhiễm vi khuẩn Streptococcus iniae sau khi nhuộm mô hóa miễn dịch
(A: gan; B,C: lách; D: não; E: võng mạc; F: ruột)
B
D
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7
3. Thảo luận
Dấu hiệu bệnh lý của cá mắc nhiễm vi khuẩn
S.iniae đã được báo cáo ở nhiều loài cá khác nhau.
Những tổn thương về mô học do vi khuẩn S.iniae
gây ra khác nhau giữa các loài và điều kiện môi
trường khác nhau. Ở thí nghiệm này, cá ít thể hiện
dấu hiệu bệnh lý đặc trưng ra bên ngoài ngoại trừ
dấu hiệu bơi mất định hướng. Tuy nhiên điều này đã
từng xảy ra ở nhiều nghiên cứu khác. Evans (2000)
và các cộng sự cho rằng dấu hiệu bệnh lý của cá
nhiễm S.iniae khác nhau tùy thuộc vào cá mắc
nhiễm tự nhiên hay cá bị nhiễm trong thí nghiệm
và với các phương pháp cảm nhiễm khác nhau thì
cá cũng thể hiện dấu hiệu bệnh lý ra bên ngoài
khác nhau.
So sánh với kết quả thí nghiệm tương tự do
Bromage 1999 và Suanyuk 2010 đã tiến hành thì
dường như độc lực của chủng vi khuẩn S.iniae
phân lập từ cá chẽm bị bệnh ở Khánh Hòa thấp
hơn độc lực của chủng vi khuẩn S.iniae phân lập
từ cá chẽm nuôi ở Úc (LD50 = 3,2 x 104CFU) và ở
Thái Lan (LD50 = 1,08 x 104CFU) (Bromage 1999;
Suanyuk 2010). Tuy nhiên, rất khó để có một sự so
sánh một cách chính xác về độc lực của các chủng
vi khuẩn S.iniae ở nghiên cứu này và các nghiên
cứu trước vì ngoài phương thức lây nhiễm, diễn tiến
bệnh của cá chẽm còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác
như kích thước cá, tình trạng sức khỏe của cá hay
tác động của các yếu tố môi trường nuôi
Kết quả nghiên cứu của Bromage và các cộng
sự năm 1999 cho biết sau khi kết thúc thí nghiệm
cảm nhiễm, vi khuẩn S.iniae vẫn còn tồn tại ở não
của cá chẽm khỏe mạnh. Tuy nhiên trong nghiên
cứu này, không phân lập được vi khuẩn ở bất kì cơ
quan nào ở tất cả cá sống sót sau khi cảm nhiễm.
Việc nghiên cứu con đường cảm nhiễm của vi
khuẩn S.iniae vào cá đã từng được Nguyen thực
hiện trên cá bơn (Paralichthys olivaceus) vào năm
2000. Kết quả nghiên cứu của Nguyen cho thấy
S.iniae xâm nhập vào cơ thể của cá bơn thông qua
những vị trí thương tổn của da và vây. Mắt, mũi và
mang cá là nơi vi khuẩn cảm nhiễm sau khi đã vào
bên trong cơ thể. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Rasheed & Plumb (1984) trên cá Fundulus
grandis cũng như nghiên cứu của Foo và các cộng
sự (1985) ở cá Siganus canaliculatus. Tuy nhiên,
nghiên cứu của Bromage và Owens (2002) về khả
năng cảm nhiễm của vi khuẩn S.iniae thực hiện
trên cá chẽm (Lates calcarifer) theo phương pháp
ngâm kết hợp với việc gây tổn thương da cá bằng
cách lấy đi 1cm2 vảy cá chẽm đã chứng minh rằng
những thương tổn trên da của cá không có tác động
gì đến khả năng xâm nhập của vi khuẩn S.iniae vào
cơ thể cá.
Kết quả kiểm tra quá trình xâm nhập của vi
khuẩn S.iniae từ môi trường nuôi vào cơ thể cá
chẽm bằng phương pháp mô hóa miễn dịch cho
thấy mang là vị trí mà vi khuẩn xâm nhập đầu tiên.
Sau 6 giờ thí nghiệm, vi khuẩn đã xuất hiện ở mang
sơ cấp sau đó xâm nhập vào xoang tĩnh mạch. Thận
và lách là 2 cơ quan vi khuẩn hướng đến trước khi
cảm nhiễm vào gan, mắt và não và sau đó là ruột.
Kết quả này phù hợp với nhận định của Nguyen
2000 về quá trình phân tán của vi khuẩn S.iniae
trong cơ thể cá. Vi khuẩn đi theo các mạch máu vào
thận, lách của cá sau đó lại theo máu và xâm nhập
vào các cơ quan khác. Tuy nhiên, trong kết quả
này, vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể cá qua mang
chứ không phải qua những tổn thương ở vây như
nghiên cứu của Nguyen 2000.
IV. KẾT LUẬN
Vi khuẩn S.iniae VN091211R là tác nhân
gây bệnh nguy hiểm cho cá chẽm. Liều gây chết
50% khi ngâm cá trong 1 giờ được xác định là
106,8CFU/mL.
Vi khuẩn S.iniae VN091211R xâm nhập từ
nước vào cơ thể cá chẽm qua mang theo máu đến
thận, lách sau đó lại theo máu xâm nhập đến các
cơ quan khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agnew W. and Barnes A.C. (2007) Streptococcus iniae: an aquatic pathogen of global veterinary significance and a
challenging candidate for reliable vaccination. Veterinary Microbiology, 122:1-15.
2. AL-Harbi A.H. (1994) First isolation of Streptococcus sp. from hybrid tilapia (Oreochromis niloticus × O. aureus) in Saudi
Arabia. Aquaculture, 128:195-201.
3. Bromage E. and Owens L. (2002) Effect of the route of exposure with Streptococcus iniae to infection of barramundi Lates
calcarifer. Diseases of Aquatic Organisms, 52(3):199-205.
4. Bromage E.S., Thomas A. and Owens L. (1999) Streptococcus iniae, a bacterial infection in barramundi Lates Calcarifer.
Disease of aquatic organisms, 36:177-181.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
5. Colorni A., Diamant A., Eldar A., Kvitt H. and Zlotkin A. (2002) Streptococcus iniae infections in Red Sea cage-cultured
and wild fi shes. Diseases of Aquati c Organisms, 49:165-170.
6. Creeper J. and Buller N. (2006) An outbreak of Streptococcus iniae in barramundi (Lates calcarifer) in freshwater cage
culture. Australian Veterinary Journal, 84:408-411.
7. Eldar A., Perl S., Frelier P.F. and Bercovier H. (1999) Red drum Sciaenops ocellatus mortalities associated with Streptococcus
iniae infection. Disease of aquatic organism, 36:121-127.
8. Evans J.J., Shoemaker C.A. and Klesius P.H. (2000) Experimental Streptococcus iniae infection of hybrid striped bass
(Morone chrysops x Morone saxatilis) and tilapia (Oreochromis niloticus) by nares inoculation. Aquaculture, 189(3-4):
97-210.
9. Foo J.T.W., Ho B. and Lam T.J. (1985) Mass mortality in Siganus canaliculatus due to streptococcal infection. Aquaculture,
49:185-195.
10. Nguyen T.H., 2000, Study on the infection mechanism of Streptococcus iniae in Japanese fl ounder (Paralichthys olivaceus)
[Doctor of phisolophy in marine science]. Nagasaki University; 123 p.
11. Perera R.P., Johnson S.K., Collins M.D. and Lewis D.H. (1994) Streptococcus iniae associated with mortality of Tilapia
nilotica x T. aureahybrids. Journal of Aquatic Animal Health, 6:335-340.
12. Pier G. B. and Madin S. H. (1976) Streptococcus iniae sp. nov., a beta-hemolytic treptococcus isolated from an Amazon
freshwater dolphin, Inia geoffrensis. International Journal of Systematic Bacteriology, 26:545- 553.
13. Rasheed V. and Plumb J. (1984) Pathogenicity of a non-haemolytic group B Streptococcus sp. in gulf killifi sh (Fundulus
grandis Baird and Girard). Aquaculture, 37:97-105.
14. Suanyuk N., Sukkasame N., Tanmark N., Yoshida T, Itami T., Thune R.L., Tantikitti C. and Supamattaya K. (2010)
Streptococcus iniae infection in cultured Asian sea bass (Lates calcarifer) and red tilapia (Oreochromis sp.) in southern
Thailand. Songklanakarin Journal of Science and Technology, 32 (4):341-348.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xac_dinh_doc_luc_va_qua_trinh_cam_nhiem_cua_vi_khuan_strepto.pdf