Vi khuẩn gram âm mang gen New Delhi-Metallo-Betalactamase (NDM - 1) kháng carbapenem phân lập trong môi trường bệnh viện

Việc phát hiện ra các chủng vi khuẩn mang gen NDM - 1 trong môi trường bệnh viện Việt Đức của nghiên cứu này là một vấn đề quan trọng, nó cho thấy nguy cơ lây nhiễm các vi khuẩn này không chỉ trong phạm vi bệnh viện mà có khả năng phát tán ra ngoài cộng đồng, điều này đã được chứng minh bằng nghiên cứu của Isozumi và cộng sự về sự có mặt của vi khuẩn mang gen NDM - 1 trong môi trường ngoại cảnh tại Hà Nội

pdf7 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vi khuẩn gram âm mang gen New Delhi-Metallo-Betalactamase (NDM - 1) kháng carbapenem phân lập trong môi trường bệnh viện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 85 (5) - 2013 1 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2013 Địa chỉ liên hệ: Trần Huy Hoàng - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, số 1 Yersin, Hà Nội Email: Ngày nhận: 05/8/2013 Ngày được chấp thuận: 30/10/2013 VI KHUẨN GRAM ÂM MANG GEN NEW DELHI-METALLO-BETA- LACTAMASE (NDM - 1) KHÁNG CARBAPENEM PHÂN LẬP TRONG MÔI TRƯỜNG BỆNH VIỆN Trần Huy Hoàng1, Heiman Wertheim2, Trần Như Dương1, Nguyễn Bình Minh1, Trần Vân Phương1, Trịnh Hồng Sơn3, Đặng Đức Anh1 1 Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội 2 Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford, Hà Nội, Việt Nam 3 Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Hà Nội Hiện nay, vi khuẩn gram âm mang gen NDM - 1 kháng carbapenem là vấn đề quan trọng tác động đến sức khỏe toàn cầu. Ở Việt Nam, vi khuẩn mang gen NDM - 1 không chỉ phát hiện được trên các bệnh nhân bị nhiễm khuẩn bệnh viện mà còn được phát hiện trong môi trường. Trong nghiên cứu này, 200 mẫu xét nghiệm (tay nhân viên điều dưỡng, xe đẩy y tế, sàn nhà, ga trải giường bệnh và nắp toa lét) tại các khoa Phẫu thuật tiết niệu, Phẫu thuật gan mật và Phẫu thuật tiêu hóa được thu thập để phát hiện vi khuẩn mang gen NDM - 1 bằng kỹ thuật PCR. Các chủng NDM - 1 dương tính sẽ được định danh bằng thanh API - 20E và đánh giá mức độ nhạy cảm kháng sinh. Nghiên cứu phát hiện được 5/200 (2,5%) mẫu dương tính với gen NDM - 1, trong đó 3 mẫu được phát hiện trên ga trải giường bệnh, 1 mẫu ở thùng rác thải y tế và 1 mẫu phát hiện trên nắp toa lét nhà vệ sinh tại hai khoa phẫu thuật tiết niệu và Gan mật. Tất cả các chủng dương tính với NDM - 1 đều kháng lại kháng sinh được thử nghiêm ở mức độ cao, nhưng vẫn còn nhạy cảm với colistin. Từ khóa: Vi khuẩn gram âm, gen NDM-1, kháng carbappenem, môi trường bệnh viện I. ĐẶT VẤN ĐỀ Vi khuẩn Gram âm mang gen New Delhi Metallo - Beta - Lactamase 1 (NDM - 1) sinh men kháng lại carbapenem (thuộc nhóm lựa chọn cuối cùng) hiện đang là một trong những vấn đề mang tính toàn cầu. NDM - 1 lần đầu tiên được ghi nhận trên chủng K. pneumoniae phân lập được trên bệnh nhân người Thụy Điển có tiền sử du lịch tại Ấn Độ [1]. Hiện nay đã có rất nhiều báo cáo công bố nhiều loại vi khuẩn Gram âm mang gen NDM-1 như Kleb- siella, E. coli, Acinetobacter và Citrobacter ở nhiều quốc gia trên thế giới [2]. Các vi khuẩn mang gen NDM - 1 không chỉ được phát hiện trên các bệnh phẩm lâm sàng mà còn phát hiện được trong cả môi trường ngoại cảnh ở Ấn Độ nơi có dịch NDM - 1 lưu hành. Đây là một nguy cơ quan trọng tác động đến sức khỏe con người và làm tăng nguy cơ lan truyền của vi khuẩn mang gen NDM - 1 ở trong cộng đồng [3]. Sự xuất hiện của các vi khuẩn mang gen kháng thuốc này báo hiệu sự mở đầu của một giai đoạn mới về tình trạng vi khuẩn kháng lại kháng sinh trên Thế giới. Ở Việt Nam, bệnh truyền nhiễm vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong mô hình bệnh tật nên việc sử dụng kháng sinh một cách hiệu quả đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, sự gia tăng tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của nhân dân cũng như tổn thất về kinh tế. Imipenem là kháng sinh thuộc 2 TCNCYH 85 (5) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nhóm carbapenem, được đưa vào thị trường vào đầu những năm 2000, cũng đã giảm tác dụng với các vi khuẩn gram âm. Hai căn nguyên gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp là P. aeruginosa và A. baumannii được đánh giá mức độ kháng carbapenem ở 6 bệnh viện năm 2008. 20% các chủng P. aeruginosa và gần 50% các chủng A. baumannii kháng carbapenem [4]. Ngay từ tháng 8/2010 nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và đưa ra bằng chứng về sự có mặt của vi khuẩn mang gen NDM - 1 tại Việt Nam [5; 6]. Thêm vào đó sự có mặt của K. pneumoniae mang gen NDM - 1 phân lập được trong môi trường ngoại cảnh cũng được báo cáo tại Việt Nam [7]. Bệnh viện Việt Đức là bệnh viện ngoại khoa đầu ngành và là trung tâm phẫu thuật lớn nhất Việt Nam với qui mô 500 giường bệnh, mỗi năm tiến hành khoảng 28.000 ca phẫu thuật thuộc nhiều chuyên khoa sâu khác nhau. Do vậy, bệnh viện luôn luôn trong tình trạng quá tải, công suất sử dụng giường bệnh vượt quá 100%, gây nhiều khó khăn cho công tác phòng chống nhiễm khuẩn. Đây là nguy cơ quan trọng làm lây lan vi khuẩn mang gen NDM - 1 giữa các bệnh nhân cũng như ra ngoài môi trường bệnh viện và phát tán ra ngoài cộng đồng. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm phát hiện sự có mặt của vi khuẩn gram âm mang gen NDM-1 kháng car- bapenem phân lập tại môi trường bệnh viện năm 2011. Đây sẽ là một bằng chứng quan trọng, làm cơ sở cho các cơ quan chức năng đưa ra các giải pháp phù hợp để phòng chống sự lây lan của vi khuẩn này ở trong bệnh viện và cộng đồng. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Thiết kế: mô tả cắt ngang. 2. Địa điểm nghiên cứu Chúng tôi lựa chọn 3 khoa bao gồm khoa Phẫu thuật Tiết niệu, Phẫu thuật Gan mật và Khoa Phẫu thuật Tiêu hóa của bệnh viện Việt Đức để tiến hành thu thập các mẫu xét nghiệm cho nghiên cứu. 3. Đối tượng và cỡ mẫu nghiên cứu Tổng số 200 mẫu được thu thập bằng tăm bông vô trùng tại 3 khoa của bệnh viện Việt Đức. Các loại mẫu được thu thập bao gồm từ tay nhân viên điều dưỡng (28), xe đẩy y tế (12), máy hút đờm (20), tủ cá nhân của nhân viên y tế và bệnh nhân (18), mặt bàn, bề mặt sàn buồng bệnh (29), ga trải giường bệnh (46), khu nhà vệ sinh, chậu rửa tay tại buồng bệnh (16), rác thải y tế (12) và các vị trí lấy mẫu khác là 19 mẫu (tay cầm điện thoại, bàn văn phòng...) 4. Tiến hành 4.1. Thu thập mẫu Dùng tăm bông vô trùng quét lên bề mặt của các vị trí cần lấy mẫu trong nghiên cứu, cho tăm bông vào các ống thu thập mẫu có chứa 5 ml canh thang LB chứa imipenem 2ml/ml và mang về phòng thí nghiệm. 4.2. Phân lập và định danh vi khuẩn Ủ các ống canh thang chứa tăm bông ở 370C trong 6 - 8 giờ (giai đoạn tăng sinh trong môi trường kháng sinh) ưu tiên các vi khuẩn kháng carbapenem phát triển. Cấy chuyển từ môi trường canh thang LB sang đĩa thạch Mac Conkey có nồng độ kháng sinh imipenem 2ml/ml. Ủ 370C trong 18 - 24 giờ. Chọn 5 - 7 khuẩn lạc mọc trên môi trường Mac Conkey có chứa 2 mg/ml imipenem sau khi ủ ấm qua đêm cấy trên đĩa thạch LB (Luria - Bertani) ở nhiệt độ 370C qua đêm. Sử dụng vi khuẩn thuần mọc trên thạch LB để tách triết DNA làm khuôn mẫu cho phản ứng PCR phát hiện gen TCNCYH 85 (5) - 2013 3 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2013 NDM - 1 (phần 3) và định danh vi khuẩn bằng thanh định danh API - 20E (Bio-Merieux, Pháp). 4.3. Kỹ thuật PCR phát hiện gen NDM-1 và các gen kháng kháng sinh khác Lấy 3 - 4 khuẩn lạc trên đĩa thạch LB hòa vào 200µl nước cất vô trùng, đun cách thủy trong vòng 3 phút và ly tâm lấy nước nổi để làm khuôn mẫu DNA. Các đoạn mồi đặc hiệu: NDM1 - F (5’ - atgcacccggtcgcgaagctgag - 3’) và NDM1 - R (5’-ttcgacccagccattggcggcga - 3’) được thiết kế dựa trên trình tự gen chuẩn trong ngân hàng gen (Mã số: FN396876.1) được sử dụng cho kỹ thuật PCR để phát hiện gen NDM - 1 của các chủng vi khuẩn phân lập được trong nghiên cứu [1; 5; 6]. Chứng dương là ADN khuôn mẫu tách chiết từ chủng E. coli mang gen NDM - 1 phân lập tại Nhật Bản do TS. Shibayama, viện Quốc gia các bệnh Truyền nhiễm Nhật Bản cung cấp [8]. Thành phần tham gia phản ứng PCR bao gồm: 25 µl Go Taq Master Mix (Promega); 1µl hỗn hợp mồi; 5µl khuôn mẫu DNA và 19µl nước cất. Chu trình nhiệt: 940C trong 5 phút; 30 chu kỳ bao gồm: 940C trong 36 giây, 600C trong 36 giây, 720C trong 1 phút; và 720C trong 5 phút. Sản phẩm PCR sẽ được điện di trên thạch 1,5% trong dung dịch đệm TAE 1X, nhuộm thạch và chụp ảnh gel dưới ánh sáng tia UV [5; 6]. 4.4. Kỹ thuật ức chế nồng độ kháng sinh tối thiểu (MIC) Năm loại kháng sinh bao gồm imipenem (IMP), meropenem (MEM), ceftazidime (CAZ), ciprofloxacin (CIP) và colistin (CS) (SIGMA) được sử dụng để xác định nồng độ kháng sinh tối thiểu có khả năng ức chế vi khuẩn của các chủng vi khuẩn mang gen NDM - 1 bằng phương pháp pha loãng kháng sinh trong thạch Mueller - Hinton và kết quả sẽ được tính toán dựa theo tiêu chuẩn của CLSI 2010 [9]. 4.5. Phân tích và xử lý số liệu: Các gen chứng dương NDM - 1, được sử dụng để đánh giá kết quả PCR của mẫu thử nghiệm, số liệu được quản lý bằng phần mềm exel. Kết quả được trình bày dưới dạng hình và bảng biểu. III. KẾT QUẢ Trong tổng số 200 mẫu xét nghiệm thu thập tại các vị trí khác nhau tại bệnh viện Việt Đức chúng tôi phát hiện được 5 mẫu xét nghiệm có vi khuẩn gram âm mang gen NDM - 1 chiếm tỷ lệ 2,5%. Các chủng có kết quả PCR dương tính với gen NDM - 1 được tiến hành định danh bằng thanh định danh API - 20E kết quả cho thấy có 3 loại vi khuẩn mang gen NDM - 1 được phát hiện bao gồm 1 chủng A. baumannii, 2 chủng E. aerogenes và 2 chủng Acinetobacter spp (bảng 1). Có ba loại mẫu được phát hiện có vi khuẩn mang gen NDM - 1 bao gồm ga trải giường bệnh nhân (3), nắp thùng rác y tế (1) và nắp toa lét nhà vệ sinh (1). Các vị trí xét nghiệm khác như sàn giường bệnh, tủ cá nhân, xe đẩy y tế và tay nhân viên đều cho kết quả âm tính. Các mẫu dương tính đều được phát hiện ở hai khoa là phẫu thuật Tiết niệu và Gan mật là khoa đã được phát hiện có các bệnh nhân nhiễm khuẩn với các vi khuẩn mang gen NDM - 1 trước đó trong nghiên cứu của chúng tôi [5; 6]. Đặc biệt là tất cả các mẫu tại khoa phẫu thuật Tiêu hóa (không có bệnh nhân nhiễm vi khuẩn NDM - 1) đều cho kết quả âm tính. 4 TCNCYH 85 (5) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hình 1. Kết quả đại diện phát hiện gen NDM - 1 kháng carbapenem của các chủng vi khuẩn gram âm mang gen NDM - 1 phân lập tại môi trường bệnh viện Việt Đức năm 2011 Giếng 1 - 6: Tay nhân viên điều dưỡng; 7 - 11: Ga giường bệnh nhân; 12 - 16: Nắp bệ xí; 17 - 21: Tủ đầu giường bệnh nhân; M: Thang chuẩn AND 100bp N: chứng âm và P: chứng dương. Bảng 1. Một số đặc điểm của 5 mẫu bệnh phẩm phát hiện có vi khuẩn mang gen NDM - 1 kháng carbapenem Vi khuẩn Loại bệnh phẩm Vị trí lấy mẫu (Khoa phòng) Có bệnh nhân dương tính với NDM - 1 A. baumannii Ga giường bệnh Phẫu thuật gan mật Có E.aerogenes Nắp thùng rác y tế Phẫu thuật gan mật Có Acinetobacter spp Ga giường bệnh Phẫu thuật tiết niệu Có E.aerogenes Nắp toa lét Phẫu thuật tiết niệu Có Acinetobacter spp Ga giường bệnh Phẫu thuật tiết niệu Có Bảng 2. Kết quả kháng sinh đồ của các chủng vi khuẩn mang gen NDM - 1 Vi khuẩn Đặc tính kháng MIC (mg/L) Gen NDM - 1 IMP MEM CIP CAZ CS A. baumannii 256 (R) 128(R) 0.06(S) > 512 (R) 0,5 (S) + E.aerogenes 4 (R) 2 (I) 2 (I) > 512 (R) 0,5 (S) + Acinetobacter spp 128 (R) 64 (R) 2 (I) > 512 (R) 0,5 (S) + E.aerogenes 8 (R) 8 (R) 256 (R) > 512 (R) 0,5 (S) + Acinetobacter spp 128 (R) 64 (R) 2 (I) > 512 (R) 0,5 (S) + TCNCYH 85 (5) - 2013 5 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2013 Ghi chú: S: Nhạy cảm; I: đề kháng trung gian; R: kháng. Chúng tôi tiến hành thử nghiệm mức độ nhạy cảm của các vi khuẩn mang gen NDM - 1 phân lập được trong nghiên cứu với 5 loại kháng sinh bao gồm imipenem và mero- penem, đại diện cho nhóm carbapenem; ceftazidime cho nhóm kháng sinh cepha- losporin; ciprofloxacin cho nhóm fluoroqui- nolone là các thuốc đầu tay điều trị tại bệnh viện hiện nay và colistin là kháng sinh được khuyến cáo trong trường hợp vi khuẩn mang gen NDM - 1 kháng lại với tất cả các loại kháng sinh. Kết quả cho thấy, cả năm chủng đều kháng lại với imipenem (từ 4 - 256mg/L); 4 chủng kháng với meropenem (8 - 128mg/L), 1 chủng E.aerogenes kháng meropenem ở mức độ trung gian (2mg/L). Một chủng E.aerogenes kháng ciprofloxacine ở nồng độ 256mg/L; ba chủng bao gồm E. aerogenes (1), Acinetobacter spp (2) kháng ciproflox- acine ở mức độ trung gian 2mg/L và chủng A. baumannii vẫn còn nhạy cảm với ciproflox- acin. Tất các các chủng vi khuẩn mang gen NDM - 1 đều kháng với ceftazidim (512mg/L) và vẫn còn nhạy cảm với colistin (bảng 2). IV. BÀN LUẬN Bệnh viện Việt Đức là bệnh viện đầu tiên ở Việt Nam công bố sự có mặt của vi khuẩn gram âm mang gen NDM - 1 kháng carbap- enem phân lập trên các bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện [5;6]. Như đã trình bày ở trên, đây là bệnh viện ngoại khoa đầu ngành, hàng năm thực hiện nhiều ca phẫu thuật và luôn trong tình trạng quá tải, do vậy giả thuyết nghiên cứu của chúng tôi là khi đã có các ca bệnh nhiễm khuẩn mang gen NDM - 1 thì khả năng có mặt của vi khuẩn mang gen NDM - 1 trong môi trường bệnh viện là rất cao. Nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn hai khoa phẫu thuật Tiết niệu và Gan Mật trước đó đã phát hiện có bệnh nhân dương tính với vi khuẩn mang gen NDM - 1 (khoa nguy cơ cao) và khoa phẫu thuật Tiêu hóa chưa phát hiện có bệnh nhân dương tính với vi khuẩn mang gen NDM - 1 (nguy cơ thấp hơn) để lấy mẫu xét nghiệm. Các vị trí lấy mẫu cũng được lựa chọn các vị trí là có khả năng có vi khuẩn mang gen NDM - 1 như ga trải giường bệnh, nắp toa lét, sàn nhà, tay điều dưỡng viện hay các dụng cụ y tế Kết quả đã được chứng minh ở nghiên cứu này với 2,5% số mẫu xét nghiệm dương tính với vi khuẩn mang gen NDM - 1. Đây là một kết quả cao đáng báo động. Các mẫu dương tính đều được phát hiện tại hai khoa đã có bệnh nhân dương tính với loại vi khuẩn này. Các mẫu xét nghiệm dương tính đều là các mẫu có nguy cơ cao như ga trải giường bệnh nhân, nắp toa lét nhà vệ sinh (các dịch như nước tiểu, vết mổ của bệnh nhân bị nhiễm với vi khuẩn mang gen NDM - 1 có thể dính vào) hay nắp thùng rác y tế có chứa các bông băng hay dịch từ các bệnh nhân dương tính. Một số mẫu xét nghiệm khác cũng có nguy cơ cao như tay nhân viên điều dưỡng (tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên hơn với bệnh nhân), sàn buồng bệnh (dịch nhiễm khuẩn chảy ra) đều cho kết quả âm tính. Điều này có thể giải thích như sau. Các nhân viên điều dưỡng sau khi chăm sóc bệnh nhân đều đeo găng tay, sàn buồng bệnh đều được lau 2 lần/ ngày với các dung dịch khử khuẩn và các vị trí xét nghiệm khác như bàn và tủ cá nhân không tiếp xúc thường xuyên so với các mẫu xét nghiệm dương tính nên chúng tôi không phát hiện được. Các chủng vi khuẩn mang gen NDM - 1 trong nghiên cứu đã kháng lại kháng sinh được thử nghiệm như 6 TCNCYH 85 (5) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC imipenem, meropenem và ceftazidime, tuy nhiên một chủng A. baumannii vẫn còn nhạy cảm hoàn toàn với ciprofloxacin. Cả năm chủng đều nhạy cảm với colistin. Điều này cho thấy cần phải thử nghiệm tính nhạy cảm kháng sinh để lựa chọn kháng sinh phù hợp để điều trị cũng như theo dõi sự thay đổi tính nhạy cảm với kháng sinh của các vi khuẩn mang gen NDM - 1 trong bệnh viện và cộng đồng. Ở trong môi trường bệnh viện có rất nhiều loại vi khuẩn khác nhau bao gồm cả các vi khuẩn kháng carbapenem, do vậy để nâng cao khả năng phát hiện, chúng tôi sử dụng các môi trường tăng sinh và chọn lọc có chứa impenem để ức chế và ưu tiên cho các vi khuẩn kháng carbapenem phát triển và lựa chọn nhiều khuẩn lạc khác nhau trong một mẫu xét nghiệm sẽ tăng khả năng phát hiện, đây là một phương pháp tốt cần được áp dụng để giám sát và phát hiện vi khuẩn mang gen NDM - 1 trong môi trường. Việc phát hiện ra các chủng vi khuẩn mang gen NDM - 1 trong môi trường bệnh viện Việt Đức của nghiên cứu này là một vấn đề quan trọng, nó cho thấy nguy cơ lây nhiễm các vi khuẩn này không chỉ trong phạm vi bệnh viện mà có khả năng phát tán ra ngoài cộng đồng, điều này đã được chứng minh bằng nghiên cứu của Isozumi và cộng sự về sự có mặt của vi khuẩn mang gen NDM - 1 trong môi trường ngoại cảnh tại Hà Nội [7]. Do vậy, cần phải nâng cao công tác phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện, và giám sát chặt chẽ vi khuẩn mang gen NDM - 1 trên các bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện trong môi trường và ở ngoài cộng đồng. V. KẾT LUẬN Đã phát hiện được sự có mặt của vi khuẩn gram âm mang gen NDM - 1 kháng carbap- enem trong môi trường bệnh viện Việt Đức - Hà Nội với tỷ lệ 2,5% (5/200 mẫu xét nghiệm), đây là bệnh viện đã xác định được có các bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện do các vi khuẩn mang gen NDM - 1. Lời cám ơn Nghiên cứu này sử dụng kinh phí của Well- come Trust, UK và the Global Antibiotic Resis- tance Partnership, USA, chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Như Dương. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Yong D, Toleman MA, Walsh TR (2009). Characterization of a new metallo- beta-lactamase gene, bla (NDM-1), and a novel erythromycin esterase gene carried on a unique genetic structure in Klebsiella pneumo- niae sequence type 14 from India, Antimicrob Agents Chemother, 53(12), 5046 - 5054. 2. Kumarasamy KK, Toleman MA, Walsh TR (2010). Emergence of a new antibiotic resistance mechanism in India, Pakistan, and the UK: a molecular, biological, and epi- demiological study, Lancet Infect Dis. 10(9), 597 - 602. 3. Walsh TR, Weeks J, Toleman MA (2011). Dissemination of NDM - 1 positive bacteria in the New Delhi environment and its implications for human health: an environ- mental point prevalence study. Lancet Infect Dis, 11, 355 - 362. 4. Global Antibiotic Resistance Partner- ship (GARP) Working Group Vietnam (2010). Situation Analysis on Antibiotic Use and Resistance in Vietnam. GARP report Vietnam. 5. Trần Huy Hoàng, Nguyễn Hoài Thu, Nguyễn Bình Minh và cộng sự (2012). Citro- bacter freundii mang gen New Delhi-Metallo- Beta-Lactamase (NDM - 1) kháng carbap- TCNCYH 85 (5) - 2013 7 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2013 enem phân lập tại bệnh viện năm 2010 - 2011, Tạp chí Y học Dự phòng, 6(133), 23 - 30. 6. Tran Huy Hoang, Heiman Wertheim, Nguyen Binh Minh et al (2013). Carbap- enem-Resistant Escherichia coli and Kleb- siella pneumoniae Strains Containing New Delhi Metallo-Beta-Lactamase Isolated from Two Patients in Vietnam. J. Clin. Microbiol. 51 (1), 373 - 374. 7. Isozumi R, Yoshimatsu K, Yamashiro T et al (2012). blaNDM-1 – positive Klebsiella pneumoniae from Environment, Vietnam. Emerging Infectious Diseases lett, 18 (8), 1383 - 1385. 8. Shingo Chihara, Katsuko Okuzumi, and Akira Hishinuma (2011). First Case of New Delhi Metallo-b-Lactamase 1 Producing Escherichia coli Infection in Japan. Clinical Infectious Diseases, 52,153 - 154. 9. Clinical and Laboratory Standards Institute (2010). Performance standards for antimicrobial susceptibility testing; Twentieth informational supplement. Clinical and Labora- tory Standards Institure, 30. Wayne, PA. Summary GRAM NEGATIVE BACTERIA CARRYING NEW DELHI - METALLO - BETA - LACTAMASE (NDM - 1) GENE ISOLATED IN THE HOSPITAL ENVIRONMENT Gram-negative bacteria resistance to carbapenems due to the expression of the New Delhi metallo-beta-lactamase 1 (NDM - 1) gene are one of the major global health problems. Previ- ously, NDM-1 positive bacteria have been reported in bacteria isolated from both clinical and environmental samples in Vietnam. To investigate whether NDM - 1 positive bacteria contamina- tion exits in the Viet Duc Hospital, we collected 200 samples from 8 major sites often directly in contact with patients such as the nurse hands, medical trolleys, floor surfaces, patient bed sheets, toilet covers, and medical equipment, plus other minor sites such office table tops and telephone in three surgical departments (urology, gastro-enterology and hepato-biliary surgery). Samples were transported to the microbiology laboratory and tested for carabapenem resistance and the presence of the NDM - 1 gene by PCR. NDM - 1 positive bacteria were further identified by biochemical testing (API-20E strip, Biomerieux) and susceptibility testing. The results shown: 5/200 (2.5%) samples positive with the NDM - 1 gene, three samples were patient bed sheet, one was from cover of medical bin-wash disposal, and one in toilet cover in Urology and Hepato- biliary Surgery departments. All of positive NDM - 1 were extensively drug resistant, but remained susceptible to colistin. Keywords: Gram-negative bacteria, NDM-1 gene, carbapenem resistant, hospital environment

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf10_54_1_pb_4561.pdf
Tài liệu liên quan