Về sự biến đổi mô hình phong tục hôn nhân ở châu thổ sông Hồng qua mấy thập niên gần đây

4. Những mặt tích cực, tiến bộ, cũng như những thiếu sót và bất cập trong mỗi mô hình được phân tích ở trên, thiết nghĩ, vẫn có giá trị như những bài học kinh nghiệm đối với việc hình thành một mô hình mới về phong tục hôn nhân cho giai đoạn cách mạng hiện nay - giai đoạn mà toàn Đảng toàn dân ta đang tiếp tục phấn đấu cho sự nghiệp Đổi mới, với đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

pdf8 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về sự biến đổi mô hình phong tục hôn nhân ở châu thổ sông Hồng qua mấy thập niên gần đây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
28 Xã hội học số 2 (82), 2003 Về sự biến đổi mô hình phong tục hôn nhân ở châu thổ sông Hồng qua mấy thập niên gần đây Mai Văn Hai & ngô ngọc thắng Tìm hiểu về phong tục hôn nhân ở n−ớc ta, trong tác phẩm Văn hóa học, Đoàn Văn Chúc viết: “Nếu so với ngày nay, kể cả nghi thức phong tục, nghi thức hôn nhân ở n−ớc ta hằng xuyên nằm trên đ−ờng biến đổi phù hợp với tiến bộ xã hội” [1 ; 119]. Điều này có nghĩa là, giữa phong tục hôn nhân và biến đổi xã hội luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, qua phong tục hôn nhân có thể hình dung ra sự biến đổi xã hội và ng−ợc lại. Theo sự gợi mở của nhà nghiên cứu lão thành, trong bài viết này chúng tôi thử gợi lại một số mô hình phong tục hôn nhân ở vùng châu thổ sông Hồng trong khoảng thời gian từ tr−ớc cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1986 - năm mở đầu cho sự nghiệp Đổi mới - với hy vọng góp phần nhận thức về sự biến đổi xã hội ở n−ớc ta trong nửa thế kỷ vừa qua. Cần nói ngay là, do tính chất luôn vận động và biến đổi trong không gian và thời gian của việc hôn nhân nói chung, nên chúng tôi không có tham vọng thâu tóm mọi kiểu loại mô hình ở cả ba miền đất n−ớc, càng không dám lạm bàn đến các mô hình của nhiều dân tộc anh em, mà chỉ xin dừng lại ở ba mô hình đ−ợc thực thao một cách rộng rãi nhất của các c− dân ng−ời Việt vùng châu thổ sông Hồng mà thôi. Ba mô hình ấy là: 1. Mô hình tr−ớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, t−ơng ứng với một xã hội nông nghiệp, phong kiến nửa thuộc địa. 2. Mô hình từ 1945 đến 1959, ứng với thể chế dân chủ cộng hòa. Mô hình này diễn ra trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954), tiếp đó là thời kỳ khôi phục kinh tế và bắt đầu đặt cơ sở cho một xã hội mới ở miền Bắc: xã hội xã hội chủ nghĩa. 3. Mô hình của thời kỳ mà trên sách báo vẫn quen gọi là “thời kỳ bao cấp”. Ngoài các nhiệm vụ chính trị - xã hội chung, trong việc hôn hân ở thời kỳ này cần ghi nhận hai sự kiện quan trọng là Luật hôn nhân và gia đình của n−ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, công bố ngày 13/01/1960 là Luật hôn nhân và gia đình của n−ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công bố ngày 29/12/1986. Trong việc xem xét ba mô hình phong tục hôn nhân trên đây, chúng tôi cũng không có ý định bao quát toàn bộ vấn đề, mà xin hạn chế ở mấy ph−ơng diện chúng tôi cho là có mối quan hệ chặt chẽ nhất định đối với sự biến đổi của đời sống kinh tế - Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Mai Văn Hai & Ngô Ngọc Thắng 29 xã hội nói chung, đó là: các nghi thức trong hôn nhân; tính chất của các mối quan hệ xã hội và mức độ chi phí về kinh tế - vật chất của hôn nhân. D−ới đây xin trình bày từng mô hình một. I. Mô hình tr−ớc Cách mạng tháng Tám 1945 Tr−ớc cách mạng tháng Tám năm 1945, các c− dân ng−ời Việt ở châu thổ sông Hồng chủ yếu sống trong trật tự của một xã hội nông nghiệp, thuộc địa nửa phong kiến, với nghề nghiệp chính là trồng lúa n−ớc. Công th−ơng nghiệp, giao thông vận tải và đô thị đều ch−a phát triển. Ng−ời dân thì quen sống trong các ngôi làng có có lũy tre khép kín, ít giao l−u với thế giới bên ngoài. Trong bối cảnh đó, việc hôn nhân nhìn chung vẫn tuân theo phong tục cổ truyền, trong đó bao gồm sáu hệ thống nghi thức chính (còn gọi là lục lễ): 1. Lễ nạp thái; 2. Lễ vấn danh; 3. Lễ nạp cát; 4. Lễ nạp tệ; 5. Lễ thỉnh kỳ; 6. Lễ thân nghênh. Trong mỗi hệ thống nghi thức này lại bao gồm nhiều nghi tiết nhỏ hơn. Chẳng hạn, trong lễ sau cùng là Lễ thân nghênh gồm có: lễ nhà thờ họ vợ; lễ lạy sống ông bà, bố mẹ vợ; lễ r−ớc dâu (tức lễ vu quy); lễ nhà thờ và gia tiên bên chồng; lễ lạy sống ông bà, bố mẹ chồng; lễ tơ hồng (để tạ ơn Nguyệt Lão xe duyên); rồi tiệc c−ới, mừng c−ới; lễ hợp cẩn (cho đôi tân lang ăn cùng một mâm, uống cùng một chén r−ợu); lễ động phòng; lễ nhị hỷ v.v.. Về nguyên tắc, sáu hệ thống nghi thức này là bắt buộc cho mọi cuộc hôn nhân. “Lục lễ bất tri, trinh nữ bất hành” - nghĩa là nếu không hiểu và không thực hành đủ sáu lễ đầy đủ thì ng−ời gái trinh sẽ không về nhà chồng. Tuy nhiên, trong thực tế, mô hình “lục lễ” này không phải đ−ợc áp dụng triệt để cho tất cả mọi tầng lớp, mọi nhóm xã hội khác nhau. Theo cụ Đào Duy Anh, trong sáu lễ ấy thì tùy theo hoàn cảnh cụ thể ng−ời ta có thể giảm bớt mặt này hay mặt khác cho thích hợp và đỡ tốn kém. Bởi vậy, có thể gọi chung cho mô hình này là mô hình lục lễ rút gọn (mô hình I). Ng−ời x−a quan niệm “hôn nhân là việc chung của gia tộc, chứ không phải việc riêng của con cái” [2 ; 77]. Chính vì vậy, tiến trình của phong tục hôn nhân liên quan đến rất nhiều ng−ời, từ trong gia đình, tộc họ đến làng n−ớc, tạo thành nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau, mà quan hệ nào cũng mang tính áp đặt, thiếu dân chủ. Có thể hình dung về tiến trình này nh− sau. Khi một gia đình nào đó muốn tìm ng−ời “nâng khăn sửa túi” cho con thì việc đầu tiên là phải bàn bạc giữa cha mẹ và con cái, trong đó quyền quyết định bao giờ cũng thuộc về cha mẹ. ông Nguyễn Văn Huyên, trong công trình Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, đã viết: “Cha mẹ quyết định, con cái chỉ có nghe theo. Tình yêu giữa cô dâu và chú rể không quan trọng. Nếu ng−ời con không bằng lòng ng−ời chồng hay ng−ời vợ mà bố mẹ tìm cho, thì chỉ có một cách hành động, đó là bỏ nhà đi. Lúc đó ng−ời con bị xem là đứa con bội bạc, và cha mẹ có thể truất quyền thừa kế của anh ta” [3; 567]. Sau quyết định của cha mẹ là việc tìm ng−ời làm mối. ông mối hoặc bà mối phải là ng−ời đã có tuổi, phải hiểu biết cả hai bên gia cảnh, và nhất là phải ăn nói giỏi. Nếu ng−ời làm mối là họ hàng hoặc thân bằng cố hữu của bên trai hoặc bên gái Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Về sự biến đổi mô hình phong tục hôn nhân ở châu thổ sông Hồng ... 30 thì việc mối mai càng thêm thuận lợi. Bên cạnh ng−ời làm mối còn có cả đôi bên gia đình và tộc họ. Chẳng hạn, hôm làm lễ nạp thái, bố mẹ bên nhà trai phải mang trầu cau đến nhà gái th−a chuyện. Đến hôm nạp tệ, ngoài chú rể, đoàn nhà trai phải có tr−ởng tộc (hoặc đại diện tr−ởng tộc), cùng những ng−ời thân thiết mang lễ vật đến nhà gái. Về phía nhà gái, ng−ời ta cũng mời tr−ởng tộc, tộc họ và bạn bè để đón nhà trai, bàn bạc và giao −ớc. Nh−ng ch−a hết. Việc hôn nhân x−a còn phải chú ý đến một mối quan hệ nữa, đó là quan hệ giữa đôi bên gia đình cô dâu, chú rể với cộng đồng nơi họ sinh sống. X−a kia, trong làng xã, khi trai gái lấy nhau thì giấy giá thú ch−a đ−ợc coi trọng (mãi đến năm 1921 trở đi, chính quyền thuộc địa Pháp mới đ−a vấn đề này vào đời sống), mà quan trọng hơn là Lễ nộp cheo. Cheo làng và cỗ mời làng đ−ợc coi nh− là sự bảo đảm về mặt xã hội cho đôi trai gái lấy nhau. Những nghi thức r−ờm rà, và các quan hệ xã hội phức tạp nh− thế, cố nhiên, đã kéo theo sự chi phí rất tốn kém về mặt kinh tế - vật chất. Chẳng hạn, về nghi vật hôn nhân, sách Thiên nam d− hạ tập thời Hồng Đức (thế kỷ XV) chép: Lễ vật chạm ngõ: - Nhà giàu: 1 tấm lụa, 1 con lợn, 2 nậm r−ợu, 2 mâm cau, 2 mâm trầu không. - Nhà th−ờng (cũng nh− nhà nghèo tùy dùng): 1 con lợn, 2 nậm r−ợu, 1 mâm cau, một mâm trầu không. Lễ vật dẫn c−ới: - Nhà giàu: 2 tấm lụa mầu, 10 quan tiền, 1 đôi vòng bạc, 1 chiếc hộp bằng sơn mài, g−ơng l−ợc tùy dùng, 1 chiếc hộp bằng ngà, 1 chiếc hộp bằng gỗ thơm, 3 con lợn, 10 nậm r−ợu, 6 mâm cau, 6 mâm trầu không - Nhà th−ờng (cũng nh− nhà nghèo tùy dùng): 1 tấm lụa mầu, 5 quan hoặc 3 quan tiền, 1 đôi cây nến bằng bạc, 1 chiếc hộp bằng sơn mài, 2 con lợn, 8 nậm r−ợu, 4 mâm cau, 4 mâm trầu không [4; 294-250] Bên cạnh những nghi vật trên, trong nghi trình của mô hình phong tục hôn nhân tr−ớc 1945 còn có biết bao những tục lệ nặng nề khác nh− thách c−ới, trao của hồi môn, rồi tục xêu tết, cỗ bàn, tục lan nhai (chăng dây cản đ−ờng), mừng đỡ, v.v.. mà tục lệ nào cùng không đơn giản. Chẳng hạn, đối với việc thách c−ới, Đào Duy Anh viết: “Việc gả chồng cho con thì từ x−a đã thành việc bán con gái để lấy tiền, cho nên nhiều nhà gái thách c−ới rất cao, mà đòi cho đ−ợc đủ tiền đủ lễ c−ới mới chịu cho c−ới” [2; 133]. Còn với tục mừng đỡ, Nguyễn Văn Huyên ghi: “đối với chú rể, đồ mừng gồm những câu đối đ−ợc thêu trên trên đoạn, chè, pháo, giấy bút; còn đối với cô dâu thì có chè, cau, bánh kẹo, đồ dùng nữ công, đồ trang điểm” [3; 570]. Nhìn chung, ở mô hình phong tục hôn nhân tr−ớc 1945, từ các nghi thức đến quan hệ xã hội và mức độ chi phí về về mặt kinh tế vật chất tất cả đều rất nặng nề và tốn kém, tạo thành một thứ ch−ớng ngại rất khó v−ợt qua, mà hệ quả của nó là làm cho nhiều gia đình, nhất là những gia đình nghèo, lâm vào cảnh vô cùng khốn Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Mai Văn Hai & Ngô Ngọc Thắng 31 đốn. Chính vì vậy, từ x−a đến nay, không ít ng−ời phải lên tiếng chỉ trích đối với các hủ tục này. Từ cuối thế kỷ XVIII, Phạm Đình Hổ trong tác phẩm Vũ trung tùy bút, đã viết: “Đến lúc thành hôn, nhà trai th−ờng mời cả họ đi theo, ng−ời con gái về nhà chồng thì cả họ nhà gái cùng đi tiễn, bày ra hành nghi phục sức, ăn uống linh đình, chỉ cốt sỹ diện một lúc ở tr−ớc mắt. Có kẻ vừa c−ới xong thì ruộng n−ơng đã bán sạch” [5 ; 54]. Phan Kế Bính, trong Việt Nam phong tục, cũng ghi nhận là “lắm ng−ời mệt quá, không đem đủ tiền không nghe, làm cho sui gia oán ghét nhau cũng vì đó. Vả lại, chẹt ng−ời ta quá, ng−ời ta cũng phải miễn c−ỡng đi vay m−ợn mà lo xong việc, rồi thì cái nợ ấy, có khi con mình về nhà chồng lại phải nai l−ng cố sức mà làm trả nợ” [6 ; 61-62] II. Mô hình từ năm 1945 đến 1959 Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đ−a n−ớc ta b−ớc vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, dân tộc và dân chủ. Mặc dù sau 1945 đất n−ớc phải trải qua cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài 9 năm, song một chế độ mới đã đ−ợc thiết lập. Theo đó các giá trị, chuẩn mực của một lối sống mới cả về kinh tế, văn hóa và phong tục cũng đ−ợc hình thành. Khẩu hiệu xây dựng “đời sống mới” khích lệ mọi thành viên xã hội tự nguyện rũ bỏ những gì là lạc hậu, lỗi thời của nếp sống cổ truyền từ xa x−a. Trong không khí tràn đầy tính cách mạng ấy, các nghi thức hôn lễ đã có sự biến đổi quan trọng. D−ờng nh− mọi nghi thức r−ờm rà nhuốm mầu mê tín dị đoan nh− Lễ so tuổi, Lễ tơ hồng đều bị bãi bỏ. Mọi ng−ời, nhất là các nam thanh nữ tú, không mấy ai còn tin có ông Tơ, bà Nguyệt. Cũng không có các bậc cha mẹ, chú bác, cô dì nào còn nỡ ép duyên đôi lứa chỉ vì không “môn đăng hộ đối” hay “không hợp tuổi”. Cuộc sống mới làm cho mọi ng−ời tin t−ởng vào sức mạnh của bản thân và cộng đồng hơn là tin vào bói toán hay những niềm tin tôn giáo khác. T−ơng tự, lễ lạy sống ông bà, cha mẹ vào ngày c−ới cũng không còn đ−ợc đặt ra. Các bậc ông bà, cha mẹ đều có ý thức sâu sắc rằng họ đang sống trong một đất n−ớc cộng hòa, nơi mà mọi ng−ời đều đ−ợc tôn trọng và có quyền bình đẳng, nên việc thực thao theo nghi thức “lạy sống” là khôi hài khó chấp nhận Vì vậy, từ sáu hệ thống nghi thức (mô hình I), sang giai đoạn này mô hình phong tục hôn nhân đã đ−ợc giản l−ợc, chỉ giữ lại có ba nghi thức chính là: 1. lễ chạm ngõ, 2. lễ ăn hỏi và 3. lễ c−ới. Quả thực, đây là sự thay đổi đột biến mang tính cách mạng đối với phong tục hôn nhân trên đất n−ớc ta. Ng−ời ta gọi mô hình này là mô hình tam lễ (mô hình II). Đến mô hình tam lễ, cùng với các nghi thức đ−ợc rút gọn, các quan hệ xã hội trong hôn nhân cũng ngày càng mang tính dân chủ nhiều hơn. Nếu nh− tr−ớc đây quan hệ giữa cha mẹ và con cái là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, thì sau năm 1945 quyền tự do yêu đ−ơng của thanh niên đã đ−ợc tôn trọng. Trong hôn nhân hai chữ “gả bán” đã nhanh chóng trở thành x−a cũ, cha mẹ và họ hàng chỉ đóng vai trò là ng−ời góp ý, còn quyền quyết định thuộc về đôi trẻ. ý thức công dân của n−ớc Việt Nam mới giúp các bậc phụ huynh hiểu rằng một khi con em họ đến tuổi lập gia thất, tức đã là công dân của đất n−ớc, thì tự chúng khắc biết lựa chọn “ý chung nhân” của Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Về sự biến đổi mô hình phong tục hôn nhân ở châu thổ sông Hồng ... 32 mình. Do đó, họ không cần và cũng không thể can thiệp quá nhiều nh− tr−ớc. Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm từng trải, họ vẫn quan tâm giúp đỡ và tìm cách phân tích những mặt hay hoặc dở cho đôi trẻ để tránh cho chúng đừng vì quá si mê mà lầm lẫn, dẫn đến những sai lầm không đáng có. Tính chất dân chủ của mô hình hôn nhân trong xã hội mới không chỉ thể hiện ở quyền quyết định mà còn đ−ợc thể hiện rất rõ ngay cả ở hôm tiến hành hôn lễ. Đại thể, vào lúc cử hành Lễ thành hôn của một đôi trẻ nào đó, chi đoàn thanh niên kết hợp với gia đình để cùng đứng ra tổ chức. Địa điểm th−ờng đ−ợc chọn ở một nơi công cộng. Các nhóm gia đình, họ mạc, láng giềng, bạn bè đều tự động đến đó tham dự và góp vui. Trong buổi lễ, các đại biểu của chính quyền, đoàn thể cùng ng−ời đại diện cho hai bên gia đình phát biểu công nhận hôn lễ, dặn dò cô dâu chú rể “vui duyên mới đừng quên nhiệm vụ”. Góp vui cho buổi lễ là các tiết mục văn nghệ: hò, hát, kể chuyện tiếu lâm, đôi khi có cả những tiểu phẩm tự biên tự diễn. Tinh thần dân chủ mà xã hội mới mang lại đã làm cho hôn lễ của giai đoạn này trở nên lành mạnh và vui vẻ lên rất nhiều. Với sự tiến bộ chung, các khía cạnh kinh tế - vật chất trong hôn nhân của giai đoạn này cũng gần nh− bị xóa bỏ. Các tục lệ cũ nh− thách c−ới, đòi của hồi môn, nộp cheo bị đả phá và chế giễu nh− những việc làm lạc hậu, lỗi thời. Đó đây, nếu đám nào còn giữ các tục lệ này thì cũng chỉ mang tính chất t−ợng tr−ng mà thôi. Ngay cả việc mừng đỡ - một tục lệ mà về cơ bản có thể coi là “thuần phong mỹ tục”, đến giai đoạn này cũng có sự thay đổi theo chiều h−ớng giảm bớt sự xa hoa để tăng c−ờng tính chất thiết thực. Nếu ở mô hình I, nghi vật mừng hôn lễ th−ờng là thóc, tiền, chè, pháo, câu đối, trầu cau, đồ nữ công, đồ trang sức thì sang giai đoạn này ng−ời ta thay bằng những vật dụng giản dị mà thiết thực giúp cho việc tạo lập một gia đình mới nh− xoong, nồi, chậu rửa mặt, phích n−ớc nóng, quần áo trẻ con, v.v Còn các nghi vật giá thú khác thì đúng nh− một nhà nghiên cứu đã viết là “hầu nh− đ−ợc xóa bỏ” [1 ; 198]. Một điều cần ghi nhận ở đây là nhận thức chung của xã hội lúc này rất đồng tình với mô hình phong tục hôn nhân mới - một mô hình vừa trang trọng, lành mạnh vừa vui vẻ và tiết kiệm. Hơn bao giờ hết, các công dân của xã hội mới hiểu rằng trong hôn nhân hạnh phúc của đôi lứa mới là điều quan trọng; còn việc phô tr−ơng hình thức, bày vẽ cỗ bàn vừa vất vả, tốn kém, lại không phù hợp với những gì mà chế độ mới đang mong muốn xây dựng. Quả là các biểu thị của mô hình phong tục hôn nhân d−ới chính thể mới đã chiếm phần −u thắng và trở thành chuẩn mực trong đời sống của mỗi ng−ời dân cũng nh− cả cộng đồng. Đây là một cột mốc quan trọng trong sự biến đổi của mô hình phong tục hôn nhân ở n−ớc ta nói chung, và ở vùng châu thổ sông Hồng nói riêng. III. Mô hình những năm 1960 - 1986 Sang những năm 60 của thế kỷ XX, đất n−ớc ta chuyển qua một giai đoạn mới: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa đấu tranh thống nhất n−ớc nhà. Từ tháng 8 năm 1964, khi bọn xâm l−ợc bắt đầu ném bom leo thang ra miền Bắc, cả n−ớc lại sống trong tình trạng có chiến tranh. Khẩu hiệu “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm l−ợc!” vang lên nh− tiếng kèn xung trận. T− t−ởng “Không có gì quý hơn độc lập tự Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Mai Văn Hai & Ngô Ngọc Thắng 33 do!” của Bác Hồ trở thành chân lý chung của thời đại. Những sự kiện chính trị to lớn đó đã làm thay đổi về cơ bản mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Riêng về mặt văn hóa và nếp sống, từ tháng Giêng 1960 Luật hôn nhân và gia đình của n−ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đ−ợc ban hành. Đây là một sự kiện cực kỳ trọng đại trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở n−ớc ta. Điều 8 của luật này ghi rõ: “Việc kết hôn do ủy ban nhân dân xã, ph−ờng, thị trấn nơi th−ờng trú của một trong hai ng−ời kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do nhà n−ớc qui định (). Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý” [8 ; 96]. Sự ra đời của Luật hôn nhân và gia đình không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho lĩnh vực hôn nhân và gia đình mà còn đánh dấu sự chuyển đổi từ nếp sống theo tập tục của xã hội nông nghiệp sang nếp sống theo pháp lý của xã hội công nghiệp và hiện đại. Tuy nhiên, trong thực tế, bên cạnh các nghi thức pháp lý, ng−ời dân vẫn không quên thực thao các nghi thức theo phong tục cổ truyền. Lý do sâu xa của cách ứng xử này là ở chỗ, ngoài t− cách là công dân của đất n−ớc, mỗi ng−ời còn là thành viên của một gia đình, tộc họ, làng xã hay một đơn vị cụ thể nào đó. Vì vậy, khi thực hiện nghi thức pháp lý là ng−ời ta thể hiện trách nhiệm của công dân đối với pháp luật của nhà n−ớc; còn khi thực hiện nghi thức phong tục là thể hiện bổn phận của một thành viên đối với nhóm xã hội mà ng−ời ta sở thuộc [1; 202-203]. Nh− đã nói, mô hình phong tục hôn nhân giai đoạn này là mô hình đ−ợc hình thành trong điều kiện chúng ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa phải tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Lúc bấy giờ đại đa số nam nữ thanh niên đều có mặt ở những nơi nóng bỏng nhất của cuộc chiến đấu, họ ít có điều kiện để thực thao các nghi thức hôn nhân theo phong tục cổ truyền. Thời kỳ 1964 - 1975, có nhiều anh bộ đội từ đơn vị về, với thời gian nghỉ phép hạn hẹp trong đôi ba ngày, song họ vẫn phải làm xong các công việc rất quan trọng của đời ng−ời là tìm ng−ời yêu và tổ chức hôn lễ, để sau đó lại vội vã lên đ−ờng ra trận. Cũng có nhiều đôi, do cùng ở trong một đội dân quân, nên đã tổ chức lễ thành hôn của mình bó gọn trong một buổi tối, để sớm hôm sau cả cô dâu chú rể đều có mặt trên hào trực chiến. Từ 1968 trở đi, ở nhiều địa ph−ơng, chính quyền còn có sáng kiến đứng ra tổ chức lễ thành hôn tập thể cho 4-5 thậm chí 6-7 đôi trong cùng một lúc. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó, từ ba lễ của mô hình II, đến thời điểm này, ng−ời ta đã rút gọn hơn nữa bằng cách chỉ giữ lại lễ c−ới, còn hai lễ ăn dạm và ăn hỏi đ−ợc dồn lại làm một. Chính vì vậy, mô hình này còn đ−ợc gọi là mô hình tam lễ rút gọn (mô hình III). Cũng do hoàn cảnh chiến tranh nên các mối quan hệ xã hội, kể cả các quan hệ xã hội trong hôn nhân, đã có sự thay đổi rất lớn. Trong những năm tháng gian lao và vĩ đại này, các khái niệm lớn nh− Tổ quốc, Đảng, Nhân dân nổi lên bao choán và chiếm vị trí trung tâm trong suy nghĩ, tình cảm và hành động của mỗi ng−ời, ng−ời ta sẵn sàng hi sinh mọi lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của cộng đồng và của dân tộc. Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi cá nhân dều khuất lấp sau tập thể và cộng đồng, mỗi vấn đề đ−ợc đặt ra thì không phải là cá nhân hay gia đình, mà tập thể mới là chủ thể có vai trò quyết định. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Về sự biến đổi mô hình phong tục hôn nhân ở châu thổ sông Hồng ... 34 Vai trò quyết định của tập thể đối với lĩnh vực hôn nhân cũng đã đ−ợc nhiều ng−ời nói đến. Ng−ời ta thấy rằng nếu ở mô hình II, chính quyền và đoàn thể mới chỉ là ng−ời giúp đỡ cô dâu chú rể hôm tổ chức hôn lễ, thì ở giai đoạn này, vai trò của họ đ−ợc in dấu ấn vào suốt cả tiến trình của mỗi cuộc hôn nhân. Đối với nhóm thanh niên ngoài biên chế nhà n−ớc, dù sinh sống ở đô thị hay nông thôn, khi lựa chọn ng−ời bạn đời, mỗi ng−ời đều phải báo cáo với chi bộ hay chi đoàn, nơi mình đang sinh hoạt. Với nhóm thanh niên là bộ đội hay công nhân, viên chức, yêu cầu đó càng chặt chẽ hơn: khi quyết định đặt vấn đề với một ng−ời nào đó, họ đều phải báo cáo, có khi còn phải trình cả lý lịch của ng−ời vợ hoặc chồng t−ơng lai để đoàn thể và cơ quan cho ý kiến. Nếu đ−ợc chấp thuận, họ mới có giấy giới thiệu đến ủy ban nhân dân xã, ph−ờng hay thị trấn sở tại để xin cấp giấy Chứng nhận kết hôn. Đến khi tiến hành hôn lễ thì chính quyền, đoàn thể lại giúp họ lo hội tr−ờng, dựng rạp, trang trí, xếp bày bàn ghế, tiếp khách và góp vui văn nghệ. Vai trò của chính quyền và đoàn thể quan trọng đến mức, nếu cuộc hôn lễ nào vắng mặt các thành phần đó sẽ tạo cho ng−ời ta cảm giác là sự thành thân của đôi trai gái d−ờng nh− vẫn ch−a đ−ợc thừa nhận, và điều này làm cho không chỉ cô dâu chú rể, mà cả gia đình và họ tộc đều ch−a đ−ợc yên lòng. Về các khía cạnh kinh tế - vật chất, cũng nh− mô hình II sang mô hình III các tục thách c−ới, đòi của hồi môn hay lệ nộp cheo cho làng đều không còn. Tục mừng đỡ chỉ dừng lại ở quà kỷ niệm hay các vật dụng thiết yếu cho một gia đình mới. Tiệc mặn, nếu có cũng chỉ khuôn lại dăm bảy mâm để liên hoan trong phạm vi gia đình mở rộng hay đãi đằng khách khứa từ xa đến. Tiệc ngọt với các nghi vật giản dị nh− chè thuốc, trầu cau, bánh kẹo trở thành nghi thức chính trong hôn lễ của nhiều nhóm xã hội khác nhau. ở nhiều nơi ng−ời ta còn có sáng kiến tổ chức tiệc trà và tiếp khách theo giờ tại nhà riêng thay vì tổ chức Lễ thành hôn nơi công cộng. Nhằm hỗ trợ cho sự hình thành một nếp sống mới, nhà n−ớc còn ban hành các chính sách về hôn nhân và gia đình với nội dung rất cụ thể: nếu có giấy Chứng nhận kết hôn, đôi tân lang sẽ đ−ợc cấp phiếu mua chăn màn, gi−ờng chiếu, chè thuốc với giá cung cấp. ở cấp cộng đồng cũng có sự hỗ trợ rất thiết thực. Có nhiều tr−ờng hợp, nhất là đối với bộ đội hay cán bộ, công nhân viên chức, nếu hoàn cảnh quá khó khăn thì đơn vị hoặc cơ quan sẵn sàng giúp đỡ một phần, thậm chí đảm nhận hết mọi chi phí cho hôn lễ. Nh− vậy, có thể nói mô hình III là sự phát triển tiếp tục theo xu h−ớng của mô hình II là trang trọng, lành mạnh, vui vẻ và tiết kiệm trong điều kiện mới. Quả thực, đây là mô hình phong tục hôn nhân giản dị nhất và cũng cảm động nhất mà chúng ta đ−ợc biết từ tr−ớc đến nay. IV. Mấy nhận xét kết luận 1. Qua sự diễn giải và phân tích ở trên, ta thấy trong vòng nửa thế kỷ - khoảng thời gian ngay tr−ớc Cách mạng tháng Tám 1945 đến thời điểm Đổi mới (1986) - phong tục hôn nhân của c− dân ng−ời Việt ở châu thổ sông Hồng đã trải qua những biến đổi quan trọng. Nhìn chung, những nghi thức r−ờm rà, phức tạp, những quan hệ gia tộc nặng nề, nhiều tầng bậc, cũng nh− những chi phí cho các thủ tục, cỗ Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Mai Văn Hai & Ngô Ngọc Thắng 35 bàn tốn kém của mô hình tr−ớc năm 1945 ngày càng đ−ợc giản l−ợc, để thay vào đó là những mô hình mới có nội dung và hình thức lành mạnh, trang trọng, vui vẻ và tiết kiệm. Những mô hình mới đáp ứng đ−ợc nhu cầu và nguyện vọng chung của ng−ời dân nên đã đ−ợc nhiều nhóm xã hội khác nhau chấp nhận và ủng hộ 2. đặc biệt, từ những năm 60 của thế kỷ XX, với Luật hôn nhân và gia đình đ−ợc công bố, bên cạnh các nghi thức phong tục, trong việc hôn nhân còn có thêm các nghi thức pháp lý. Việc thực thi một cách nghiêm chỉnh các nghi thức pháp lý, cùng với việc làm lành mạnh hóa các nghi thức phong tục chứng tỏ các chuẩn mực văn hóa mới đã thấm sâu vào mọi tầng lớp dân c− và có tác động tích cực trong đời sống xã hội. Đây là điều rất cần đ−ợc ghi nhận không chỉ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, mà cả đối với sự biến đổi của xã hội Việt Nam nói chung, kể từ năm 1945 đến nay. 3. Tuy nhiên, các mô hình phong tục hôn nhân mới đ−ợc hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 cũng không tránh khỏi những nh−ợc điểm và bất cập nhất định. ở nhiều nơi, nhiều lúc, vai trò của cộng đồng - mà đại diện là chính quyền và các đoàn thể, bên cạnh −u điểm là trực tiếp tham gia giúp đỡ đôi lứa v−ợt qua những khó khăn về vật chất và tinh thần để nên chồng nên vợ, thì đôi khi sự tham gia ấy đã trở nên quá đáng, biến thành sự can thiệp thô bạo, làm ảnh h−ởng tới quyền tự do yêu đ−ơng của mỗi ng−ời mà chính xã hội chúng ta đang cố gắng xây dựng. 4. Những mặt tích cực, tiến bộ, cũng nh− những thiếu sót và bất cập trong mỗi mô hình đ−ợc phân tích ở trên, thiết nghĩ, vẫn có giá trị nh− những bài học kinh nghiệm đối với việc hình thành một mô hình mới về phong tục hôn nhân cho giai đoạn cách mạng hiện nay - giai đoạn mà toàn Đảng toàn dân ta đang tiếp tục phấn đấu cho sự nghiệp Đổi mới, với đ−ờng lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mục tiêu làm cho dân giàu, n−ớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tài liệu tham khảo 1. Đoàn văn Chúc: Văn hóa học. Nxb Văn hóa Thông tin. Hà Nội-1997. 2. Đào Duy Anh: Việt Nam văn hóa sử c−ơng. Quan hải tùng th−. Huế-1938. 3. Nguyễn Văn Huyên: Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Tập II. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội-1996. 4. Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - thế kỷ XVIII. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội-1994. 5. Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh-1989. 6. Phan Kế Bính: Việt Nam phong tục. Nxb Tổng hợp Đồng Tháp-1990. 7. Luật hôn nhân và gia đình và những văn bản có liên quan. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội-1986. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfve_su_bien_doi_mo_hinh_phong_tuc_hon_nhan_o_chau_tho_song_ho.pdf