The beauty proverbial language expressed in reflecting the beauty of agricultura culture. The
pace of life has a great inf luence on proverbial language.
The beauty proverbial language is expressed in rhimes, cadence the symmetry of language,
images, mode of even and uneven tone as well as in diect and indirect reflection. It’ll also
become the beginning of rhime, cadence and reflection in poetry in the future.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vẻ đẹp của ngôn ngữ tục ngữ trong việc phản ánh nét văn hóa nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51(3): 28 - 33 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009
VẺ ĐẸP CỦA NGÔN NGỮ TỤC NGỮ
TRONG VIỆC PHẢN ÁNH NÉT VĂN HÓA NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Ngô Thị Thanh Quý (Trường ĐH Sư phạm – ĐH Thái Nguyên)
Trong điều kiện phát triển nhanh chóng
của khoa học công nghệ và các phương tiện
thông tin đại chúng, kho tàng tục ngữ cổ
truyền vẫn luôn có sức sống độc lập. Nó gắn
liền với khẩu ngữ, xâm nhập vào văn học
thành văn, hiện hình trên những trang sách,
trang báo, vận động trong các loại hình văn
học dân gian và phát huy tác dụng mạnh mẽ
trong lời ăn tiếng nói quần chúng. Có lẽ vì thế
mà tục ngữ đã được sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học trong những năm qua. Nghiên
cứu về ngôn ngữ, cấu trúc và thi pháp tục ngữ
cũng đã có nhiều tác giả đề cập như: Nguyễn
Thiện Giáp, Nguyễn Thái Hòa, Phan Thị
Đào Nhưng xem xét vẻ đẹp của ngôn ngữ
tục ngữ để thấy được nét văn hóa nông nghiệp
Việt Nam là một tầng vỉa mới cần được khai
thác. Qua sự nghiên cứu, chúng ta có thể tìm
thấy sự chi phối, sự hiện diện của văn hóa
nông nghiệp trong tục ngữ. Từ đó cũng thấy
được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ tục ngữ
được ứng dụng trong đời sống, được nhân dân
sử dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày.
Ngôn ngữ trong tục ngữ xưa nay được xem
như ngôn ngữ nghệ thuật có tính chất cổ điển
biểu đạt tri thức cuộc sống của người bình
dân. Ở một góc độ nào đó tính chất nông
nghiệp, tư duy nông nghiệp đều có sự chi phối
đến ngôn ngữ của thể loại tục ngữ. Ở đâu có
tục ngữ là ở đó có kinh nghiệm cuộc sống,
ngôn ngữ trong tục ngữ đã phản ánh một cách
cô đọng nhất những tri thức, ứng xử của con
người với tự nhiên và xã hội. Tục ngữ không
chỉ phản ánh, đúc kết những kinh nghiệp được
nhìn thấy, nghe thấy từ các giác quan bên
ngoài, mà cơ bản khi nói tục ngữ, khi dùng tục
ngữ là người ta muốn nói tới chiều sâu của ý
nghĩa, của sự dồn nén, chất chứa suy nghĩ ở
bên trong cái vỏ ngôn từ của tục ngữ. “Tục ngữ
diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm đời
sống, kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân
dân” [5].
Tục ngữ phản ánh cái gì - điều đó thuộc về
phương diện nội dung! Tục ngữ phản ánh
bằng cách nào là thuộc về hình thức biểu đạt.
Các thể loại văn học truyền thống khác chỉ
phản ánh một mảng nào đó của cuộc sống con
người, ví dụ: ở thể loại thần thoại chủ yếu
phản ánh nhận thức và lí giải các hiện tượng
tự nhiên có ảnh hưởng tới cuộc sống con
người; Thể loại truyền thuyết hướng về các
quan hệ cộng đồng, nguồn gốc dân tộc, đánh
giá các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử;
Thể loại cổ tích hướng về những vấn đề nhân
sinh, những quan hệ đời thường. So với các
thể loại nói trên thì sự phản ánh tri thức trong
tục ngữ về văn hóa nông nghiệp rất phong
phú, không hạn hẹp trong một phạm vi nào
của cuộc sống. Ở một số thể loại văn học dân
gian, đối tượng phản ánh chỉ có giới hạn nhất
định thì đề tài phản ánh của tục ngữ về văn
hóa nông nghiệp lại khá rộng. Cả một khối
lượng lớn kiến thức được nén chặt trong
những tác phẩm rất ngắn. Tục ngữ giống như
một cái túi nhỏ mà sự bao chứa của nó thật
diệu kỳ. Nó “Ép chặt từng từ như xiết ngón
tay thành quả đấm () dè sẻn từng tiếng làm
cho lời nói cô đọng, giàu ý nghĩa” [3].
Đây cũng là mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức của tục ngữ. Lời ít mà ý nhiều. Tục
ngữ phản ánh được nội dung ngoài chữ nghĩa,
lời nén chặt mà nghĩa rộng mở. Điều đó hợp
với quy luật tồn tại khách quan của tục ngữ
trong nghệ thuật truyền khẩu. Tục ngữ trở
thành một hình thức thanh lọc trong sáng tạo
nghệ thuật của quần chúng nhân dân qua yếu
tố tỉnh lược. Thể loại tục ngữ không làm loãng
51(3): 28 - 33 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009
nội dung trong những ngôn từ thừa thãi. Tục
ngữ đã cô đặc những tri thức về tự nhiên, xã
hội một cách tối đa. “Tục ngữ có bao nhiêu là
nghĩa, bao nhiêu là hiện tượng phong phú
và tất cả bao nhiêu thứ đó được trồng trên
một diện tích ngôn ngữ nhỏ hẹp làm sao” [3].
Để phản ánh tri thức về một lĩnh vực nào
đó của cuộc sống nông nghiệp thì tục ngữ
thường biểu đạt bằng hai vế (tất nhiên, cũng
có kết cấu một vế như kiểu: “Lạt mềm buộc
chặt”, “Quạ nào quạ chẳng đen đầu”,
“Không ai nắm tay thâu ngày đến tối”). Hai
vế đó có quan hệ với nhau hoặc là tương đồng:
“Mống đông vồng tây, không mưa dây cũng
bão giật”, “Chớp thừng, chớp chão, chẳng
bão thì mưa”, “Tấc đất, tấc vàng”, “Đất có
lề, quê có thói”, hoặc là tương phản: “Có
mới, nới cũ”, “Được lòng ta, xót xa lòng
người”, “Được mùa cau, đau mùa lúa”,
cũng có khi là quan hệ điều kiện nhân quả:
“Muốn ăn cá phải thả câu”, “Gieo gió gặt
bão”, “Có đứt tay mới hay thuốc”, hoặc là
quan hệ so sánh: “Nhà không móng như bóng
không người”, “Cơm không rau như đau
không thuốc”, “Trai thấy gái lạ như quạ thấy
gà con”; hoặc quan hệ liệt kê, phát triển:
“Nhất con, nhì cháu, thứ sáu người dưng”,
“Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”
Trong giao tiếp lao động hàng ngày, để
người đối thoại hiểu nhanh ý mình, người
nghệ sĩ bình dân chọn ngay những sự vật, hiện
tượng, hình ảnh gắn bó với họ trong sinh hoạt
hàng ngày để kết cấu nên những vế câu.
Những hình ảnh trong vế câu thường rất cụ
thể, phù hợp với bản tính của người nông dân:
mộc mạc, chất phác, chân thực, giản dị. Qua
hình thức kết cấu hai vế của tục ngữ mà những
đúc rút kinh nghiệm về tự nhiên, hoặc xã hội
có mối liên hệ gần gũi với nhau. Nhờ vận
dụng tư duy hình tượng, tư duy khái quát và tư
duy đối chiếu so sánh mà tác giả dân gian đã
bao gộp được những hình ảnh cuộc sống tri
thức lao động của con người vào một văn bản,
một khuôn mẫu thống nhất để làm thành “bài
học” sẵn có, dễ “nhập tâm” và dễ “vận dụng”.
Để tạo nên những kết cấu có tính chất
phân tách, làm nổi bật quan hệ lập luận –
lôgíc giữa các vế trong câu tục ngữ, người ta
không thể không nói đến vần và nhịp. Vần là
chất thơ của tục ngữ, là một trong những hình
thức nghệ thuật tạo nên sức hấp dẫn của tục
ngữ. Khi có vần sẽ giúp câu tục ngữ trở nên
mượt mà, xuôi tai hơn. Vần trở thành hình
thức biểu đạt của nội dung câu tục ngữ. Phổ
biến trong tục ngữ là vần liền và vần cách.
Vần liền bao gồm những câu tục ngữ có các
khuôn vần được láy lại ở vị trí giữa câu, giữa
chúng không có âm tiết trung gian, điều đó
khá phổ biến trong tục ngữ: “Ếch tháng ba,
gà tháng bảy”, “Đẹp vàng son, ngon mật
mỡ”, “Của một đồng, công một nén”,” Khôn
đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già”, “Khéo vá
vai, tài vá nách”... Điều thú vị là trong tục
ngữ có những câu láy vần liên tiếp: “Đầu
chép, mép trôi, môi mè”, “Đói ăn sung, cùng
ăn ngái, dại ăn khế”, “Hàm chó, vó ngựa,
cựa gà, ngà voi”
Diễn đạt trong tục ngữ còn rất phổ biến với
vần cách. Vần cách được hiểu giữa hai khuôn
vần có ít nhất một âm tiết ngăn cách. Tùy theo
số lượng âm tiết trung gian ngăn cách giữa hai
khuôn vần mà loại vần này được chia thành
các loại như vần cách một âm tiết, vần cách
hai âm tiết, vần cách ba âm tiết, bốn âm tiết:
“Chị em dâu nói trâu thành bò”, “Khéo ăn thì
no, khéo co thì ấm”, “Đàn ông cười hoa, đàn
bà cười nụ”, “Nhai kỹ no lâu, cày sâu tốt
lúa”, “Người đi không bực bằng người chực
mâm cơm”, “Thứ nhất phao câu, thứ nhì đầu
cánh”, “Nhất ngon là đầu cá gáy, nhất thơm
là cháy cơm nếp”, “Tháng tám tre non làm
nhà, tháng năm tre già làm lạt”
Nếu vần liền, vần cách của tục ngữ
thường tạo ra những câu nói dễ nhớ, dễ
51(3): 28 - 33 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009
truyền thì nhịp điệu trong tục ngữ sẽ tạo ra
một âm hưởng vừa giàu chất thơ, lại vừa dồi
dào tính nhạc. Nhịp của những câu tục ngữ
như âm vang nhịp điệu chậm rãi đều đều của
cuộc sống nông nghiệp. Sự luân phiên của
mùa vụ xuân qua hạ tới, sự tuần tự của thời
gian (cày, bừa, cấy, hái), sự nhịp nhàng của
công việc (cấy gặt, tát nước gầu đôi, gầu
sòng, nhịp giã gạo) đã tạo nên những kết
cấu đối xứng hài hòa trong câu. Đó có thể là
sự đối xứng về từ loại: động từ - danh từ,
danh từ - động từ hoặc danh từ - danh từ, ví
dụ như: “Ăn Bắc, mặc Kinh”, “Liệu cơm,
gắp mắm”, “Trông mặt đặt tên”, “Miệng ăn
núi lở”, “Chó treo, mèo đậy”, “Chị ngã em
nâng”, “Văn mình, vợ người”, “Tấc đất, tấc
vàng”, “Lời nói, đọi máu” Bên cạnh sự
đối xứng về từ loại còn là sự đối xứng về
ngữ nghĩa, về thanh bằng trắc: “Còn ăn, hết
nhịn”, “Khôn nhà, dại chợ” “Học tài, thi
phận”, “Lời nói gói vàng”, “Ôn cũ, biết
mới”, “Khôn sống, mống chết”, “Khỏi vòng
cong đuôi” Có thể nói những hoạt động
trong công việc của cuộc sống nhà nông
phần nào đã tạo nên vần, nhịp của tục ngữ
và đó cũng là những khởi đầu của vần nhịp
trong thơ.
Xuất phát từ chính cuộc sống lao động của
nhân dân, đối tượng phản ánh của tục ngữ bao
gồm: những ứng xử tự nhiên và ứng xử xã hội
trong nền văn hóa nông nghiệp. Khi muốn trao
truyền kinh nghiệm tri thức cho đời sau về tự
nhiên (về thời tiết khí hậu), về sản xuất nông
nghiệp và về một số ngành nghề phổ biến -
các tác giả dân gian thường dùng cách phản
ánh trực tiếp hoặc gián tiếp. Cách phản ánh
trực tiếp thường tạo ra cách nói cụ thể ví dụ
như: “Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa”,
“Cóc nghiến răng đang nắng thì mưa”, “Cu
cu tắm thì ráo, trảo trảo tắm thì mưa” Khi
muốn nói về kinh nghiệm làm ruộng, hay chăn
nuôi ông cha ta đã quan sát nhiều lần để rồi
khái quát thành “cẩm nang” của nhà nông, ví
dụ như:“Cày ải hơn rải phân”, “Khoai ruộng
lạ, mạ ruộng quen”, “Chó liền da, gà liền
xương”, “Bán gà kiêng trời gió, bán chó
kiêng trời mưa”, “Chim hoa, gà cú chớ
nuôi”, “Tằm đỏ cổ thì vỗ dâu vào” Trong
lĩnh vực văn hóa ẩm thực, có nhiều câu tục
ngữ như: “Cau hoa, gà giò”, “Mua cá thì
phải xem mang, mua bầu xem cuống mới
toan không nhầm”, “Chè trên, cháo dưới”,
“Ăn cơm bỏ thóc, ăn cóc bỏ gan” Trong
lĩnh vực dự báo thời tiết cũng có những câu
tục ngữ ẩn chứa một sự quan sát tinh tế và
đầy kinh nghiệm nên phản ánh rất chính xác
như: “Kiến bò từ dưới lên trên, mang theo
cơm gạo gây nên mưa rào”, “Cò ăn ruộng
sâu thì nắng, cò ăn ruộng cạn thì
mưa”,“Kiến dọn tổ thì trời mưa”, “Kiến
cánh vỡ tổ bay ra, bão táp mưa sa tới gần”,
“Kiến đen tha trứng lên cao, thế nào cũng có
mưa rào rất to”,“Vàng trời thì gió, đỏ trời
thì mưa”, “Sầm đông, sáng bắc, tía tây, chó
đen ăn cỏ, trời này thì mưa”, “Thâm đông thì
mưa, thâm dưa thì khú, thâm vú thì chửa”
Những câu tục ngữ giới thiệu về con
người, nghề nghiệp, sản vật, lễ hội các vùng,
miền, địa phương khác nhau cũng đều dùng
cách phản ánh trực tiếp, và thường gắn với tên
địa danh: “Ổi Định Công, nhãn lồng Thanh
Liệt (Hà Nội)”, “Bưởi Đoan Hùng, cam Bố
Hạ (Bắc Giang)”, “Nhút Thanh Chương,
tương Nam Đàn”, “Gạo Cần Đước, nước
Đồng Nai”, “Ngỗng Phong Hòa, gà Cam Giá,
cá Liên Thành (Ninh Bình), nem xứ Huế, quế
xứ Thanh”, “Biên Hòa có bưởi Thanh Trà,
Thủ Đức nem nướng, điện bà Tây Ninh”,
“Trống chè, mõ Then, kèn Táo, cháo Dương,
tương Sủi, củi Đằng, vàng Keo, bèo Trỗ”
Lối phản ánh trực tiếp cho ta thấy tác giả
dân gian luôn tìm một cách nói mới mẻ, cùng
một sự vật hiện tượng, mỗi lần được đặt cạnh
một đối tượng so sánh mới là một lần chúng
51(3): 28 - 33 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009
được phát hiện thêm một thuộc tính mới.
Nhiều hình ảnh quan sát trực tiếp đã tạo ra
cách nói táo bạo, bất ngờ mà rất hợp lý gây
thú vị cho người nghe. Từ sự quan sát trực tiếp
những hiện tượng cụ thể, tác giả dân gian đã
khái quát thành những phán đoán kinh nghiệm
trong việc trồng cấy hoặc trong việc chăn
nuôi. Với cách nói cụ thể, sinh động và gợi
cảm ấy, người bình dân đã tạo ra tính hình
tượng trong tục ngữ. Cách phản ánh trực tiếp
này rất phù hợp với việc truyền bá kinh
nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, trong
cách ứng xử giữa con người với con người,
giữa con người với tự nhiên của dân gian.
Trong tục ngữ, bên cạnh cách phản ánh
trực tiếp là cách phản ánh gián tiếp, cũng qua
sự quan sát cụ thể từ những hiện tượng xảy ra
trong đời sống mà tác giả dân gian đã gửi gắm
vào đó những ý tưởng, nhằm một mục đích
phản ánh những chiêm nghiệm, chân lý được
rút ra từ thực tiễn cuộc sống. Từ một hình
tượng cụ thể, người ta có thể liên tưởng tới
những vấn đề khác sâu xa của cuộc sống, ví
dụ: “Sảy đàn tan nghé”, “Rau nào sâu ấy”,
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Có sừng thì
đừng có nanh”, “Cá lớn nuốt cá bé”, “Cá
mè đè cá chép”, “Cá mè một lứa”, “Yếu trâu
còn hơn khỏe bò” Tục ngữ lúc này đã đảm
nhận chức năng hàm ẩn của nó. Cái sắc sảo,
cái thông minh của người bình dân đã được
thể hiện trong cách nói gián tiếp ấy, khiến
cho tục ngữ có sức mạnh như một mũi tên
vượt ra khỏi nó - như chính nhà thơ
R.Gamatôp đã nhận xét: “Kẻ ngu làm người
khác kinh ngạc bằng tiếng gào, người thông
minh làm người khác kinh ngạc bằng câu tục
ngữ dẫn ra đúng chỗ” [2].
Từ sự quan sát trực tiếp vẻ bề ngoài của sự
vật và hiện tượng cụ thể tác giả dân gian đã
khái quát lên bản chất chung của nhiều sự vật,
sự việc. Từ những hiện tượng bề ngoài mang
tính cá thể cá biệt, tục ngữ đã khái quát nên
thành quy luật. Trong cách nói gián tiếp, mọi
tín hiệu đều được ẩn dụ hóa nên những hiện
tượng trong lời nói đã vượt xa hình ảnh, tín
hiệu ngôn ngữ bình thường quy định. Nó xuất
hiện trong liên tưởng ngụ ý, với một hoàn cảnh
cụ thể trong giao tiếp. Trong tục ngữ về văn
hóa nông nghiệp, những tín hiệu được mã hóa
thường là: hoàn cảnh tự nhiên (Núi, sông, nắng,
mưa, gió, trăng,), các loài vật (Trâu, bò, lợn,
gà, dê, chó, mèo, chuột, chim cò, nhạn, cá, ốc,
cóc, ếch,), các đồ vật (Bát, đĩa, mâm, chén,
cày bừa, gầu dai, gầu sòng), các loại nguyên
liệu (Gỗ, tre, nứa, vàng, bạc, đồng), hay các
loài thực vật (Cỏ, lúa, dâu, rơm, hoa, tre, sung,
vả, cam, quýt, bòng bưởi, hồng). Thực ra, đó
chính là những tín hiệu trong đời sống nông
nghiệp của nhân dân Việt Nam. Tư duy nông
nghiệp, nhãn quan nông nghiệp chi phối cách
nhìn nhận thế giới khách quan một cách sống
động bằng những tín hiệu vốn có trong đời
sống nông nghiệp của nông thôn Việt Nam.
Chính điều đó khiến cho tục ngữ mang đậm
dấu ấn văn hóa nông nghiệp Việt Nam.
Cách phản ánh gián tiếp của tục ngữ là
quá trình tạo ra nghĩa bóng. Với những câu
có nghĩa bóng, người ta có thể có những
cách hiểu khác nhau, tùy vào ngữ cảnh sử
dụng. Cách phản ánh gián tiếp của tục ngữ
đã bộc lộ rất rõ cách nghĩ của dân gian.
Điểm khởi đầu của câu tục ngữ chỉ là miêu
tả một hiện tượng cụ thể bên ngoài, nhưng
khi liên hệ câu tục ngữ ấy với những hiện
tượng khác có cùng bản chất người ta có
được nghĩa khái quát. Viết về sự sáng tạo đó
của tục ngữ, tác giả Chu Xuân Diên đã
khẳng định: “Tri thức của nhân dân trong
tục ngữ được đúc kết lại trong các hình thức
phán đoán, suy lý - kết luận, trong quá trình
nhận thức, phán đoán và suy lý - kết luận
luôn mở rộng tri thức” [1].
Cách thức phản ánh tri thức của tục ngữ
về văn hóa nông nghiệp chính là từ sự quan
51(3): 28 - 33 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009
sát cụ thể để đi tới hình ảnh, từ hình ảnh cụ
thể, giản đơn được nâng lên thành hình ảnh
có tính khái quát, và từ hình ảnh khái quát
mang ý nghĩa đó - tục ngữ được vận dụng
vào hiện thực cuộc sống. Con đường sáng
tạo tục ngữ đã thể hiện được lối nghĩ của
dân gian, lối nghĩ dựa vào kinh nghiệm,
nhưng đã có mầm mống của tư duy khoa
học, tư duy lý luận. Lối nói, lối nghĩ của
người bình dân đã thể hiện rất rõ trong đặc
điểm thi pháp tục ngữ.
Tục ngữ không chỉ là ý đẹp mà còn là lời
hay, tục ngữ có sự hòa đồng của nhiều phong
cách ngôn ngữ khác nhau. Tục ngữ vừa mang
phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, vừa mang
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật và phong
cách ngôn ngữ khoa học.
Tục ngữ về văn hóa nông nghiệp là công
cụ diễn đạt sắc bén tư duy lý luận của người
bình dân. Nó được hình thành từ lời ăn tiếng
nói hàng ngày của nhân dân và được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nền văn hóa
nông nghiệp, xã hội nông nghiệp, tư duy
nông nghiệp đã chi phối ngôn ngữ tục ngữ.
Những ngôn ngữ thường xuyên xuất hiện
trong tục ngữ về đề tài nông nghiệp đều nằm
trong trường nghĩa về đồng ruộng, kinh
nghiệm canh tác, đất đai, lúa gạo, cày bừa,
quan hệ làng xã nông thôn Những “Thông
điệp nghệ thuật một câu” có thể được ra đời
trong lúc người bình dân lao động vất vả,
nhưng cũng có thể là lúc vui chơi hội hè, đình
đám. Nó là những hồi ức về nông nghiệp
mang tính hình tượng sâu sắc. Tục ngữ về
văn hóa nông nghiệp thể hiện rất rõ lối nói có
hình tượng và nói bằng hình tượng của nhân
dân. Tuy nhiên, hình tượng trong tục ngữ nói
chung chưa phải là hình tượng nghệ thuật,
hình tượng của cảm xúc thẩm mỹ, đó chỉ là
ngôn ngữ mang hình tượng và những hình
tượng đó đã góp phần tích cực vào việc phổ
biến kinh nghiệm thực hành triết lý thực tiễn:
“Sự chuyển hóa nội dung vào hình thức, đạo
lý, chân lý vào chữ, vào câu, thông qua một
thi pháp phản ánh một kiểu sáng tác theo lề
lối của văn học. Ở đây vừa có sự phản ánh
vừa có sự sáng tạo vừa có những lời nói cụ
thể, vừa có sự gửi gắm và đón mời” [4].
Ngôn ngữ tục ngữ đã trở thành giao điểm
thú vị của tư duy trừu tượng và tư duy nghệ
thuật. Tục ngữ vừa là cách tổng hợp tri thức
nông nghiệp mang tính phán đoán vừa làm
cơ sở cho lập luận khoa học, vừa là “Bài thơ
ngắn nhất”, vừa là phát ngôn phong phú về
nội dung lại vừa là văn bản nhỏ nhất về kết
cấu. Khi nói đến tục ngữ là nói đến tri thức
khoa học của dân gian. Có một câu tục ngữ
hay, chúng ta như có câu niệm chú “Vừng ơi
mở cửa” và tục ngữ sẽ dẫn ta đến kho báu trí
tuệ của cha ông - để được hiểu, để được cảm
và để vận dụng những kinh nghiệm quý báu
vào trong cuộc sống. Nếu “Một từ có thể là
một bình minh” thì ta có thể tìm ra rất
nhiều “bình minh” về tư duy, triết lý trong
kho tàng tục ngữ Việt Nam. Vẻ đẹp của ngôn
ngữ tục ngữ là một sáng tạo tổng hợp trong
rất nhiều những sáng tạo nghệ thuật mà cha
ông đã để lại cho muôn thế hệ sau
51(3): 3 - 7 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 3 - 2009
33
Summary
The beauty proverbial language expressed in reflecting the beauty of agricultura culture. The
pace of life has a great inf luence on proverbial language.
The beauty proverbial language is expressed in rhimes, cadence the symmetry of language,
images, mode of even and uneven tone as well as in diect and indirect reflection. It’ll also
become the beginning of rhime, cadence and reflection in poetry in the future.
Tài liệu tham khảo
[1]. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian mấy vần đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại,
Nxb Khoa học Xã hội, tái bản, 2006.
[2]. Nguyễn Thái Hòa (1997), Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp, Nxb Khoa học Xã hội.
[3]. Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2003), Văn học dân gian những công trình
nghiên cứu, Tái bản, Nxb Giáo dục, H.
[4]. Ngô Đức Thịnh - Fran Proschan (2005), Folklore thế giới - Một số công trình nghiên cứu cơ bản,
Nxb Khoa học xã hội, H.
[5]. Maxim Goorky (1970), Bàn về văn học, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_1047_9528_7_4211_2053146.pdf