In the world of characters of Vietnamese novels in the period of 1960 – 1975 in general and novel
on the subject of building socialism in particular, there has been an effective collaboration between
the epic and novel in the building structure of characters, creating the typical literary forms of
modern epic novel character "new man". The character structure reflects the reality of history
and satisfies the method of art creation of socialist realism. It is deeply rooted in traditional
literature and novel model of Russia – Soviet, combined with the historical era of revolutionary
war and socialist construction in Vietnam. The most distinctive feature of the "new man" compared
to the previous literary character is the ability to master: collective ownership and selfemployment. The new men existed simultaneously with the foundation, protection and
development of a socialist country, they fought and selflessly worked not for themselves, but for their
people and for all mankind.
The look of idealization has built up a central character with posture and heroic beauty. They are
the incarnation of a heroic nation in the age of heroes. They bring in their extraordinary qualities:
simple, normal but extraordinary mental strength. Therefore, they are recorded and described as
the most beautiful people, the greatest and most rich combat. They are the ideal human life with
the purpose, 'to understand their work and the way you're going". Besides the advantages mentioned
above, the character “new man” also puts the emphasis on pattern more or less limited to reflect
the personal perspective.
8 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 695 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa và tiểu thuyết Việt Nam 1960 - 1975 trên phương diện kiểu nhân vật trung tâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đoàn Đức Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 93 - 100
93
VĂN HỌC HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
1960 - 1975 TRÊN PHƯƠNG DIỆN KIỂU NHÂN VẬT TRUNG TÂM
Đoàn Đức Hải*
Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong thế giới nhân vật của tiểu thuyết Việt Nam 1960 – 1975 nói chung và tiểu thuyết về đề tài
xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng, đã có sự kết hợp hiệu quả giữa chất sử thi với chất tiểu thuyết
trong việc xây dựng cấu trúc hình tượng nhân vật, tạo ra những điển hình văn học của loại hình
tiểu thuyết sử thi hiện đại- nhân vật “con người mới” . Cấu trúc hình tượng nhân vật đã phản ánh
chân thực hiện thực lịch sử và thỏa mãn yêu cầu nghệ thuật của phương pháp sáng tác hiện thực xã
hội chủ nghĩa, nó bắt rễ sâu xa trong truyền thống văn học dân tộc và được gặp gỡ với mô hình
tiểu thuyết Nga – Xô viết, kết hợp với đặc điểm lịch sử của thời đại chiến tranh cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cái khác biệt nhất của con người mới so với những nhân vật
văn học trước đó là khả năng làm chủ: làm chủ tập thể và làm chủ bản thân, con người mới tồn tại
đồng thời cùng với quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, họ chiến đấu và lao
động quên mình vì bản thân, vì dân tộc mình và vì cả nhân loại.
Cái nhìn lý tưởng hóa đã xây dựng nên hình tượng nhân vật trung tâm với tư thế và vẻ đẹp hào
hùng. Họ chính là hóa thân của một dân tộc anh hùng trong thời đại anh hùng. Họ mang trong
mình những phẩm chất phi thường: giản dị, bình thường mà phi thường về sức mạnh tinh thần. Vì
vậy, họ được ghi nhận, được mô tả như những con người đẹp nhất, lớn lao nhất, giàu tính chiến
đấu nhất Họ là những con người sống có lý tưởng, có mục đích, “hiểu việc mình làm và con
đường mình đang đi”. Bên cạnh những ưu điểm đã nêu trên thì nhân vật con người mới còn nặng
về tính khuân mẫu nên ít nhiều hạn chế trong phản ánh dưới góc độ cá nhân.
Từ khóa: Con người mới, nhân vật trung tâm, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa
KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC HIỆN THỰC
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA*
Tìm hiểu bất kì một nền văn học, một hiện
tượng văn học nào cũng phải đặt trong mối
tương quan của các yếu tố đồng đại và lịch
đại. Trong lịch sử văn học nhân loại, mỗi giai
đoạn, mỗi thời kì có những dòng văn học và
phương pháp sáng tác riêng đóng vai trò chủ
đạo. Ở mỗi thời đại và tùy vào bước đi của
mỗi quốc gia, văn học dự phần tích cực vào
việc thay đổi diện mạo đời sống tinh thần.
Cho đến trước thế kỉ XX, văn học Việt Nam
đi trong xu thế chung của khu vực là chủ
nghĩa Cổ điển. Đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa
hiện thực phê phán và chủ nghĩa Lãng mạn
phương Tây đã vào Việt Nam, đưa văn học
nước ta gia nhập quỹ đạo văn học hiện đại thế
giới. Đêm trước của cuộc cách mạng do giai
cấp vô sản lãnh đạo, trong địa hạt văn
chương, ở thế kỉ XIX, nhất là từ những năm
40 trở đi, nhu cầu miêu tả cuộc sống như
chính nó vốn có đã được các nhà văn đặt ra
bằng các sáng tác theo khuynh hướng hiện
*
Tel: 0913 089612
thực và với cảm hứng phê phán. Ở đó, các
nhà văn đặt ra vấn đề tái tạo đời sống “trong
những hình thức của bản thân đời sống” và
văn học thế giới đã ghi nhận những tên tuổi
sáng giá của dòng văn học hiện thực như
Bandắc, Gôgôn, L. Tônxtôi, Đốtxtôiépxki
v.v Đến giữa thế kỉ XX, lịch sử nhân loại
chuyển mình, việc tồn tại hệ thống xã hội chủ
nghĩa đối trọng với tư bản chủ nghĩa đã dẫn
đến sự ra đời dòng chủ lưu của văn học các
nước xã hội chủ nghĩa mà phương pháp sáng
tác mới nhất được khẳng định lúc ấy là Chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa
hiện thực XHCN). Vào những thập niên đầu
thế kỉ XX chủ nghĩa hiện thực vẫn tiếp tục
đảm đương vai trò trọng yếu của nó đối với
văn chương thế giới, tuy vậy, sự xuất hiện của
trào lưu hiện thực XHCN đã tạo được thế đối
trọng với các phương pháp sáng tác mới, chủ
yếu được trọng dụng ở nước tư bản phương
Tây khác biệt về thể chế chính trị. Vào thời
điểm Chủ nghĩa hiện thực XHCN ra đời và
vào những năm phát triển nhất, nó được văn
học các nước XHCN coi là một phương pháp
ưu việt của ý thức vô sản, của nhân sinh quan
cộng sản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đoàn Đức Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 93 - 100
94
Nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô
Vào buổi đầu của cuộc cách mạng do giai
cấp vô sản Nga thực hiện, những sáng tác của
M.Goócki đã cổ vũ một cách mạnh mẽ tinh
thần của giai cấp đang lên, đã sản sinh một
loạt những tác phẩm viết về những con người
tiên tiến của thời đại, về những điều đang sẽ
trở thành hiện thực trên một đất nước đấu
tranh cho hòa bình và tiến bộ của loài người.
Và cũng chính M. Goócki đã được xem như
là người có công đầu đối với nền văn học vô
sản Xô-viết. Sau khi Liên bang Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Xô-viết được thành lập (1922),
với mục tiêu thống nhất các tổ chức văn nghệ
thành một cơ quan duy nhất trên toàn liên
bang đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
nhằm “đưa các nhà văn có xu hướng nghệ
thuật và trình độ chính trị khác nhau đi vào
đại lộ của nền văn học Xô viết là chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa” [13, tr.92], Đại
hội Hội nhà văn Liên Xô được tiến hành vào
năm 1934. Ở đó, điều lệ của Hội đã xác định
chủ nghĩa hiện thực XHCN là phương pháp
sáng tác chủ đạo trong văn học Xô viết. Từ
đó, văn học vô sản Nga đã phát huy vai trò
của một nền văn học XHCN mới mẻ nhưng
đầy xung kích đối với văn học thế giới trong
mục tiêu đấu tranh cho thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội. Nhà văn Xô-viết, để dự một
phần lớn vào “cuộc tái sinh màu nhiệm” trong
văn học và trong cuộc sống, nhất thiết phải
trở thành và phải thực sự là nhà văn – chiến
sĩ. Đó là đòi hỏi của đất nước, và dường như,
cả đối với nhà văn. Nhà văn và nền văn học
ấy buộc phải chuyển mình, phải vào cuộc, đáp
ứng những đòi hỏi cấp thời. Với vai trò là
người anh cả trong cộng đồng thế giới mới
lúc bấy giờ, văn học Nga – Xô-viết đã đi đầu
bằng các tác phẩm có sức lôi kéo hàng triệu
con người trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
chung ở những năm nửa đầu thế kỉ XX, trong
công cuộc lao động, kiến thiết đất nước nhằm
tạo dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Các nhà lí luận ở Nga – Xô-viết
đã đúc kết thành những luận thuyết và từ đó
Chủ nghĩa hiện thực XHCN được dùng như
một kiểu thước đo, một tiêu chuẩn mang tính
pháp quy để điều chỉnh sự phát triển của văn
học nghệ thuật.
Thực tế đã chứng minh được rằng văn học
của những giai đoạn tiếp theo luôn được tiếp
mạch từ các giai đoạn trước nó, xét theo tinh
thần biện chứng thì “cái mới không ra đời từ
hư vô”. Văn học Xô-viết, vì thế, cũng đã có
sự chuẩn bị từ những thế kỉ trước nó, từ quá
khứ rực rỡ của văn học nước nhà, đồng thời
nó đã để lại những kinh nghiệm quý báu cho
sự vận động của văn học các giai đoạn sau.
Nhà nghiên cứu – dịch giả Thúy Toàn nhận
xét: “[...] nền văn học ấy tràn đầy niềm tin
tưởng vào tương lai tươi sáng của loài
người; nó thấm nhuần tư tưởng chống đế
quốc, chống phát-xít, chống mọi áp bức bóc
lột; nó khẳng định tình hữu nghị giữa các dân
tộc, tình đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản
và những người lao động” [14 tr.67- 73].
Chính tính Đảng và tính nhân dân trong đề
xuất của Lênin đối với các tác phẩm hiện thực
XHCN đã mang đến cho văn học lúc bấy giờ
tinh thần ấy. Đọc lại các tác phẩm của M.
Goócki, Sôlôkhốp, Phađêép, N. Ốxtơrốpxki,
chắc hẳn độc giả sẽ đồng tình với quan
điểm trên.
Nhà nghiên cứu Đào Tuấn Ảnh đã nhìn nhận
các tác phẩm văn học Nga – Xô-viết dưới góc
nhìn khách quan và tương đối phù hợp:
“Không nên xổ toẹt giá trị của các tác phẩm
văn học Nga – Xô viết đã từng được dịch ở
Việt Nam, nhưng cũng không nên đề cao
quá mức” (Báo Thanh niên điện tử nhân kỉ
niệm 90 năm Cách mạng Tháng Mười Nga).
Một thời, như là sự ghi công văn học hiện
thực XHCN ở Nga đối với tiến trình văn học
thế giới, các nhà Nga học chính thống đã xem
nền văn học ấy từng “đưa con người vào
những vấn đề xã hội – chính trị nóng bỏng,
truyền cảm cho độc giả niềm tin vào sức
mạnh cải tạo xã hội của triệu triệu quần
chúng lao động đang vươn dậy” (Nguyễn
Kim Đính). Nhìn về văn học vô sản mà văn
học nước Nga – Xô-viết là trụ cột chính là để
chúng ta soi rõ mình hơn trong những bước
chuyển của quá khứ và đặc biệt, thấy được
lịch sử dân tộc và lịch sử văn học một thời.
Một điều đã được thừa nhận chắc chắn là, văn
học cách mạng Việt Nam trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã chịu
ảnh hưởng sâu sắc bởi văn học Nga – Xô-viết.
Nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Tiến trình của văn học Việt Nam có những
điểm tương đồng với tiến trình văn học thế
giới và nhiều điểm gần gũi với bước đi của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đoàn Đức Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 93 - 100
95
văn học Nga, mỗi một giai đoạn luôn có một
phương pháp sáng tác giữ vai trò trọng yếu.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta
tiếp xúc với văn hóa Pháp trong tinh thần
không hoàn toàn tự nguyện, dù vậy trong văn
học ta đã đạt được những đỉnh cao với các tác
phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực phê phán.
Sau năm 1945, với tư cách là một quốc gia
độc lập và sẵn sàng đương đầu với bất kì
những trở lực bất nghĩa nào là rào cản đối với
con đường khẳng định quyền tự do và độc lập
của dân tộc, chúng ta cũng khẳng định sự lựa
chọn của mình trong những bước đi của nền
văn hóa mới. Sau Thế chiến II, nhiều dân tộc,
trong đó có Việt Nam, thoát khỏi ách thuộc
địa, đã chọn con đường của CNXH, và văn
học Việt Nam lựa chọn con đường của văn
hoá Nga – Xô-viết. Đây là một sự lựa chọn
không vì bị khuất phục bằng vũ lực hay vật
chất mà là vì sự chinh phục của tư duy khoa
học, của ánh sáng nhân văn. Đi theo con
đường XHCN là tin ở những gì tai nghe mắt
thấy, ở thành quả thực tiễn ở Liên Xô. Thành
tựu của hơn 20 năm xây dựng xã hội mới ở
Liên Xô đã khích lệ Việt Nam tin vào một
tương lai tốt đẹp, tương lai của những chủ
nhân mới đất nước là người lao động. Nguyễn
Khải lí giải: “Học thuyết Mác-xít vốn xa lạ với
người nông dân Việt Nam, nhưng tác động của
nó tới đông đảo quần chúng thật mãnh liệt và
tức thì. Lần đầu tiên một học thuyết nổi danh
dám suy tôn những người thất học và bần cùng
là nhân vật chính của lịch sử hiện đại, là chủ
nhân ông đích thực của đất nước họ trong hiện
tại và trong tương lai. Rằng họ có sức mạnh
dời non lấp biển, có thể đánh bại mọi kẻ xâm
lược và kiến tạo một xã hội công bằng nhất
trong lịch sử loài người” [17, tr.64 32].
Đề cương văn hóa của Trường Chinh ra đời
năm 1943 rồi sau đó là Chủ nghĩa Mác và văn
hóa Việt Nam năm 1948 đều hướng vào
khẳng định văn hóa, văn nghệ là một lực
lượng quan trọng phục vụ sự nghiệp kháng
chiến. Quan điểm này rất gần với quan điểm
của các nhà quản lý văn học nghệ thuật Xô-
viết sau Cách mạng tháng Mười. Trong Đề
cương văn hóa năm 1943 của Trường Chinh
xuất hiện thuật ngữ tả thực xã hội chủ nghĩa
khi đề cập đến khuynh hướng mới của một
nền văn nghệ phục vụ kháng chiến. Đến 1948,
thuật ngữ này được chính thức đổi thành Chủ
nghĩa hiện thực XHCN. Tắt đèn, Giông tố rồi
Bước đường cùng khiến cho người nghệ sĩ
cảm thấy ngột ngạt, tù đọng trong tinh thần,
họ thấy cần phải thoát khỏi trạng thái ấy. Đó
là điều có thật một thời. Không khí sục sôi
sau Cách mạng tháng Tám khiến người nghệ
sĩ có nhu cầu nhập cuộc bởi họ mang cảm
giác “Đứng riêng tây ta thấy mình có lỗi”
(Chế Lan Viên). Thêm nữa, khi tuyên bố ta sẽ
“đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải” để bảo vệ nền độc lập vừa có
được thì cũng đồng thời cả dân tộc Việt Nam
tự thấy mình đã đứng cùng chiến tuyến với
các lực lượng tiến bộ lúc bấy giờ. Đất nước
Việt Nam, văn nghệ sĩ Việt Nam đã tìm đến
quê hương Cách mạng tháng Mười và nền
văn học của nó như một sự lựa chọn duy nhất
và hoàn toàn tự nguyện. Ngày trước ta đã tìm
đến Cách mạng tháng Mười như đi về phía
mặt trời thì lúc này văn học ta cũng tự nhận
mình cùng chiến tuyến với văn học được sản
sinh từ Cách mạng tháng Mười. Bằng thực tế
các tác phẩm (đặc biệt là từ năm 1948 trở đi),
từ sau Đôi mắt của Nam Cao, văn học Việt
Nam đã đi vào quỹ đạo của văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa mà hai đề tài xuyên suốt là
chiến đấu và lao động trở thành những trăn
trở đối với người nghệ sĩ. Nguyễn Đình Thi
đã từng bộc bạch trong Nhận đường: “Làm
thế nào để chúng ta hiểu được tâm hồn những
lớp nhân dân đông đảo đang chiến đấu, làm
thế nào sống được những tình cảm ý nghĩ của
những lớp người xưa nay cách hẳn ta, làm thế
nào để trở thành những con người của tầng
lớp khác để sống được sự sống của họ” [15
tr.29]. Người nghệ sĩ thấy cần phải cất tiếng
nói của thời đại mới, về những con người mới
– con người của một đất nước có chủ quyền,
những con người “có trong đầu lý tưởng
cách mạng” (Nguyễn Đăng Mạnh). Văn học
nghệ thuật lúc này phải là một mặt trận, người
nghệ sĩ phải là một chiến sĩ. Với tâm thế đó,
văn học Việt Nam 30 năm đấu tranh cách
mạng cũng đồng thời là văn học hiện thực
XHCN, không dày nhưng nền văn học ấy biết
lấy “Lợi ích Tổ quốc là trên hết. []. Mọi lợi
ích khác đều tạm thời phải gác lại, phải hy
sinh đi” [16, tr.50]. Khi hòa bình lập lại trên
miền Bắc, nửa tuyến đất nước bắt tay vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho
tiền tuyến miền Nam thì văn học miền Bắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đoàn Đức Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 93 - 100
96
thể hiện rõ nét hơn cả tinh thần của văn học
hiện thực XHCN trên hai bình diện đề tài:
chiến đấu và lao động. Không khí sáng tác, số
lượng các tác phẩm, các nhà văn đã trở nên
sôi nổi, phong phú hơn rất nhiều.
Một thuận lợi cho văn học Việt Nam lúc này
là chúng ta không cần phải dò dẫm đi tìm cho
mình những định thức, thuyết lý cho sáng tác,
tức là về mặt lý luận. Tất cả, ta học từ Liên
Xô. Vả lại, những đòi hỏi tức thời của cuộc
cách mạng không tạo nhiều điều kiện về thời
gian và không gian cho người nghệ sĩ có thể
nghiền ngẫm về những gì đang diễn ra.
Bằng chất liệu của mình và công thức của
người bạn chí tình, những tác phẩm nóng hổi
hơi thở cuộc sống liên tiếp ra đời, thể loại
cũng hết sức đa dạng, phong phú: thơ ca,
truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, tùy bút Ba
mươi năm văn học mới chưa có tiền lệ đã
“thực sự là một chứng nhân của một quá trình
lịch sử hết sức hào hùng” (Nguyễn Văn
Long). Không tránh khỏi những cái mà với tư
cách là người tiếp nhận tức thời chúng ta chưa
thể sàng lọc ngay được những thô ráp mà văn
học nước bạn đã mắc phải (nghĩa là ta chưa
chuẩn bị tâm thế đi tiếp nhận cái mình được
tiếp nhận), chúng ta cũng đã lại rơi vào một
loay hoay khác khi áp dụng một cách rập
khuôn những định thức, những mô hình cho
nền văn học mới của mình. Ngót nghét 10
năm cho cuộc đối đầu với Pháp và một
khoảng thời gian không ngắn vừa kiến thiết
vừa chiến đấu với Mỹ, tổng cộng dân tộc ta
và văn học ta có 30 năm để tỏ rõ bản lĩnh, sức
vươn của mình. Cái thời kì có một không hai
ở thế kỉ XX ấy đã định vị cho một dòng văn
học, cũng đã tạo nên không ít tên tuổi, như
Phan Cự Đệ đã một thời tổng kết: “Chúng ta
có cái đẹp nhẹ nhõm, thanh thoát, trong sáng
của Nguyễn Đình Thi, cái xù xì gân guốc,
phong phú đến mức rậm rạp của Nguyên
Hồng, cái hóm hỉnh, thông minh, tinh tế và
thơ mộng của Tô Hoài, cái tỉnh táo sắc sảo
đầy tính chất phát hiện của Nguyễn Khải, cái
đôn hậu ấm áp điểm vẻ huy hoàng tráng lệ
của Nguyễn Huy Tưởng, cái dân gian mà lại
hiện đại của Nguyễn Thi, cái hùng tráng thi vị
của Nguyễn Trung Thành, cái trữ tình tha
thiết đến độ say đắm của Anh Đức, cái trí tuệ,
hài hòa và cân đối đến mức cổ điển của Phan
Tứ” [3(1), tr.155-156].
KIỂU NHÂN VẬT TRUNG TÂM CỦA TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM 1960-1975 DƯỚI ẢNH
HƯỞNG CỦA PHƯƠNG PHÁP SÁNG TÁC
HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Khi chúng ta tiếp xúc với văn hóa và văn học
Trung Hoa, truyền thống phương Đông quy
định việc tiếp cận và thể hiện con người trong
văn học. Kẻ sĩ phong kiến với cái khí phách
và cách tự vẽ mình trên trang viết đã tạo
những dấu ấn riêng nơi Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát.
Chúng ta đã có một bề dày những sáng tác và
những gương mặt được liệt vào hàng “cổ
điển” của văn học nước nhà thời trung đại.
Sang thế kỉ XX, nền văn hóa Pháp mang đến
cho chúng ta những kinh nghiệm trong việc
thể hiện con người. Ảnh hưởng mạnh mẽ của
chủ nghĩa hiện thực thế giới đã được các tác
giả của dòng văn học hiện thực phê phán
1930 – 1945 thể hiện tương đối rõ nét, con
người trong văn học Việt Nam lúc bấy giờ là
những con người bé nhỏ, những con người
cảm thấy mình trở nên thừa thãi, vô nghĩa, bi
kịch tâm hồn và bơ vơ ngay trên chính quê
hương mình. Nhưng khi âm hưởng Cách
mạng tháng Mười Nga vọng đến, nền văn học
khác về chất so với trước đã được hình thành,
nhân vật trung tâm trong văn học cũng
khác trước. Đó không phải là kiểu hiệp sĩ
như nhân vật của Xécvantéc thời Phục hưng ở
Châu Âu, không phải là kiểu anh hùng Từ Hải
của Nguyễn Du, lại càng không phải anh
hùng cứu quốc với cái “số đỏ” luôn hậu thuẫn
như nhân vật Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng
Phụng trong văn học hiện thực phê phán. Họ
là những anh hùng với nghĩa đầy đủ, toàn vẹn
của từ này. Họ được gọi bằng cái tên con
người mới. Con người mới lúc này là sản
phẩm của nền văn học cách mạng, được sản
sinh từ sau cuộc đối đầu lịch sử giữa hai lực
lượng chính trị. Ngày trước, khi chưa có Cách
mạng tháng Mười (ở Việt Nam thì từ sau
Cách mạng tháng Tám), họ mang một thân
phận khác, một tinh thần khác. Từ đó trở đi,
cả trong đời sống và trong văn chương, con
người đều được nhìn nhận và đánh giá chủ
yếu dựa trên những phẩm chất chính trị. Con
người mới tồn tại đồng thời cùng với quá
trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, trong văn học ở các nước xã hội chủ
nghĩa. Họ chiến đấu và lao động quên mình vì
bản thân mình, vì dân tộc mình và vì cả nhân
loại lúc bấy giờ. Phải lùi lại những ngày sôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đoàn Đức Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 93 - 100
97
sục của nước Nga trong và sau Cách mạng
tháng Mười, của Việt Nam những ngày tổng
khởi nghĩa tháng Tám và khi có được nền
cộng hòa đầu tiên thì không khó để lí giải
những điều trên. Trong thực tế, những con
người này là những người lao động, chiến đấu
bình thường nhưng đầy hăng hái, tràn niềm
tin vào cuộc sống mà họ dần được làm chủ từ
khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên quê
hương họ. Đi vào văn học, họ được xem như
những người con ưu tú, tiên tiến nhất thời đại
(dĩ nhiên là trong nhãn quan của các nhà lãnh
đạo, các nhà văn hiện thực XHCN). Và do
vậy, con người mới – những con người của
cách mạng – cũng đồng thời là động lực cho
cách mạng, cho cuộc đấu tranh vì thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, họ được ghi
nhận, được mô tả như những con người đẹp
nhất, lớn lao nhất, giàu tính chiến đấu nhất
thông qua lăng kính của cảm hứng ngợi ca,
lạc quan. Họ được ghi nhận là những con
người sống có lý tưởng, có mục đích, “hiểu
việc mình làm và con đường mình đang đi”;
những con người đứng ở mũi nhọn nóng bỏng
nhất trong cuộc chiến đấu vì lợi ích chính trị
thiêng liêng của Tổ quốc.
Đi vào các tác phẩm văn học hiện thực
XHCN, để nhân vật trung tâm của mình mang
những đặc điểm như đã chỉ ra ở trên, các nhà
văn đã tạc họ thành những bức tượng đẹp đẽ,
toàn bích. Con người mới trong văn học luôn
lớn hơn con người đời thường của họ, bởi bút
pháp hiện thực XHCN đòi hỏi phải miêu tả
trong quá trình phát triển cách mạng của nó.
Vì thế công thức, môtíp cho xây dựng nhân
vật chính của các nhà văn lúc này là như
nhau. Nói như Trường Chinh thì con người
mới “Đó là những người anh hùng mới của
thời đại chúng ta, những con người dũng cảm
trong lao động và đấu tranh, một lòng một dạ
yêu nước, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã
hội” [2]. Con người mới lúc này phải làm nên
những điều vĩ đại. Trước hết họ cần phải có
phẩm chất vĩ đại mà theo Tố Hữu thì con
người mới vĩ đại “không phải ở chỗ nó không
có sai lầm, khuyết điểm, mà ở chỗ nó kiên
quyết sữa chữa những sai lầm, khuyết điểm,
khắc phục những yếu đuối của mình để tiến
lên và tiến mãi không ngừng” (Báo cáo đọc
trước Đại hội văn công toàn quốc – 1955).
Cái khác biệt nhất của con người mới so với
những nhân vật văn học trước đó là khả năng
làm chủ: làm chủ tập thể và làm chủ bản thân.
Con người mới trên trang viết về đề tài chiến
tranh thường là những người lính. Trong đề
tài lao động, sản xuất, họ là những anh hùng
lao động. Những con người mới ấy thường là
những đoàn viên, đảng viên cộng sản với
những trách nhiệm tiên phong đầy nặng nề
nhưng cũng rất vinh quang và tự nguyện.
Văn học Xô-viết cũng đã từng đặt ra vấn đề
này. M. Goócki đã từng nêu ý kiến trong Đại
hội Nhà văn Xô viết lần thứ nhất (1934) về
con người mới như sau: “Con người thời đại
thấy tỉnh dậy trong lòng mình cái ý thức về
nhân phẩm và tự xem mình là một lực lượng
thực sự cải tạo thế giới” [5]. Theo yêu cầu và
chủ trương của Đảng, những nhân vật văn học
đi chệch những điều đã được quy thành công
thức thì được xem là thiếu tính đảng, không
đúng với bút pháp, tinh thần hiện thực
XHCN. Nhà văn không được phép thể hiện
trên tác phẩm những yếu tố, những biểu
tượng mang tính “hai mặt”, như thế - họ bị
coi là chưa thực sự đảm nhiệm tốt vai trò,
nhiệm vụ của những nhà văn chiến sĩ. Nhiều
nhà văn, vì thế, phải điều chỉnh tác phẩm của
mình, thậm chí còn hứng chịu những hình
thức xử lý không nhẹ nhàng dành cho người
cầm bút.
Nếu như trước kia ở Nga cũng như ở Việt
Nam, để xây dựng kiểu con người nhỏ bé, con
người thừa, người ta không đưa ra những tiêu
chuẩn nhất định, thì vào lúc này, văn học hiện
thực XHCN đòi hỏi những chuẩn mực dành
cho việc tạo dựng con người mới. Được thể
hiện trong nhãn quan, cách nhìn, lập trường
của các nhà văn kiểu mới (nhà văn – chiến sĩ),
con người mới lúc này mang một tâm thế
thường trực, tâm thế của một người làm chủ
hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, con người mới
mang những phẩm chất cơ bản như: niềm gắn
bó thiết tha, máu thịt với nỗi đau, với khát
vọng của giai cấp, của nhân loại cần lao; lòng
yêu nước sâu sắc kết hợp với tình cảm quốc tế
rộng lớn; lòng trung thành vô hạn với sự
nghiệp cách mạng; tính chiến đấu sôi nổi,
hăng say Còn trong cách nhìn của các nhà
lãnh đạo văn nghệ của ta một thời thì tư tưởng
đối với lao động, chiến đấu, ý thức về chủ
nghĩa tập thể, thái độ đối với nhân dân, với
chủ nghĩa xã hội được định ra như một tiêu
chuẩn đối với các nhân vật mới này. Điều này
được lý giải dưới góc nhìn của một giai đoạn
lịch sử nhất định: chiến tranh bảo vệ tổ quốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đoàn Đức Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 93 - 100
98
Có nhiều định nghĩa, nhiều khái niệm được
dùng để bàn đến con người mới và cũng có cả
những tranh luận một thời trong các nhà văn,
các nhà nghiên cứu về những nhân vật mới
hoặc không mới. Một số ý kiến, cách nhìn
chúng tôi nêu ra ở trên có thể xem như là các
cách định nghĩa về con người mới. Với chúng
tôi, con người mới là một nhân vật văn học đã
thuộc về quá khứ. Hiện tại, những phẩm chất
ưu tú ở họ đã hiện thực hóa ở những con
người thật của cuộc sống hôm nay, nhất là ở
các quốc gia xác định con đường xã hội chủ
nghĩa để đi lên như Việt Nam, Trung Quốc.
Văn học hôm nay vẫn cần những chất liệu tốt
đẹp từ quá khứ để thể hiện một cách chân thật
nhất con người của cuộc sống hôm nay.
Chúng tôi muốn khẳng định sự cần thiết và
không thể phủ nhận vai trò của một kiểu nhân
vật trong một giai đoạn lịch sử - văn học nhất
định khi kiến tạo, đóng góp cho văn học thời
đại sau nó. Bởi vì, trên tinh thần biện chứng
của cuộc sống, chúng ta không thể phủ định
mình một cách sạch trơn, con người hôm nay
vẫn rất cần có những tiền tố cho mình trong
quá trình khẳng định chính mình. Nói như
Vương Trí Nhàn thì: “Sau chiến tranh, dân
mình mải mê kiếm sống, ba mươi năm đi
qua, hình như đã tới lúc người ta muốn bình
tâm nhớ lại chuyện những năm chiến tranh để
mà cùng suy nghĩ lại về quá khứ” [11]. Nói
thế cũng có nghĩa là ta vẫn cần quá khứ, văn
học lại càng cần để có thể lên tiếng cho những
điều cuộc sống cần. Có như thế thì văn học
mới góp một tiếng nói tích cực đối với những
ngổn ngang, những bất thường mà cuộc sống
vẫn diễn ra như nó vốn có. Xét lại lịch trình
của những nhân vật mới thì có lẽ phải kể đến
thế giới nhân vật trên trang viết các nhà văn
Tự lực văn đoàn, những cô gái mới, những
thanh niên mới. Tuy nhiên, phải đến khi đi
vào trang viết của các nhà văn cách mạng thì
nhân vật mới của một thời đại mới mới được
gọi tên, được quy định thành công thức khi
miêu tả, tái hiện. Và do vậy, cũng giống với
các nhân vật của chủ nghĩa hiện thực phê
phán, con người mới trong văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa cũng có lịch trình, có bước
chuẩn bị cho sự ra đời của nó.
Nguyên tắc xây dựng nhân vật được nêu trong
Thi pháp tiểu thuyết của M.Bakhtin chính là
định hướng cơ bản khi đánh giá cấu trúc hình
tượng nhân vật của tiểu thuyết Việt Nam
1945-1975. Theo đó, các nhân vật chính diện
được miêu tả theo “nguyên tắc thử thách”
[12], các nhân vật vốn mang những phẩm
chất cao đẹp định sẵn và bất biến. Tất cả đều
có sẵn hoặc tiềm ẩn những phẩm chất cao đẹp
như lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh
thần bất khuất anh hùng... Những phẩm chất
ấy sẽ ngời sáng qua thử thách “lửa thử vàng
gian nan thử sức”. Trong thực tế tác phẩm
không hề có sự đột biến, chuyển hóa hay thay
đổi phẩm chất của những nhân vật lý tưởng
này. Những thử thách được kết nối trong thời
gian tuyến tính, hình thành không gian nghệ
thuật đặc thù - mà qua đó, tính cách nhân vật
được bộc lộ. Số phận của các nhân vật loại
này thường gắn liền với những biến cố lớn
của lịch sử xã hội, những thử thách khó khăn,
những hoàn cảnh đặc biệt để thực hiện chức
năng thử thách nhân vật (chị Sứ trong Hòn
đất của Anh Đức – Sự thử thách về lòng
chung thủy, thử thách tình mẫu tử và tình
đồng đội, thử thách lòng dũng cảm và tinh
thần cách mạng; Khái trong Đất làng, Nhàn
trong Xung đột, Tiệp trong Bão biển được thử
thách về sự kiên định lập trường, kiên quyết
cách mạng; Dũng trong Xi măng, Quang trong
Thung lũng Côtan luôn quyết đoán, dám chịu
trách nhiệm khi tấn công vào những lĩnh vực
khoa học kỹ thuật mới mẻ)...
Bên cạnh nguyên tắc thử thách thì việc xây
dựng hình tượng người anh hùng lý tưởng của
dân tộc cũng đóng góp vào việc thể hiện các
nhân vật trung tâm của tiểu thuyết Việt Nam
1960 – 1975. Các nhân vật chính diện của tiểu
thuyết giai đoạn này được miêu tả theo những
chuẩn mực của cả cộng đồng mang tính quy
phạm rõ nét và đã được xác định sẵn trong
tâm thức người sáng tác cũng như người tiếp
nhận. Cái nhìn lý tưởng hóa đã tạo nên các
hình tượng nhân vật chính diện với tư thế và
vẻ đẹp hào hùng đại diện cho cả dân tộc. Họ
chính là hóa thân của một dân tộc anh hùng
trong thời đại anh hùng. Với cái nhìn lý
tưởng hóa, các nhân vật chính diện đã mang
trong mình những phẩm chất phi thường:
giản dị, bình thường mà phi thường về sức
mạnh tinh thần (Tiệp, Ái trong Bão biển),
phi thường về trí tuệ và vẻ đẹp tâm hồn
(Quang, Thảo trong Thung lũng Cô tan),
những chiến công phi thường (Thùy, Bân
trong Cửa sông, Dũng, Kiên, Vấn, Hoàn
trong Những tầm cao...)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đoàn Đức Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 93 - 100
99
CẤU TRÚC NHÂN CÁCH CỦA NHÂN
VẬT TRUNG TÂM TRONG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM 1960 - 1975
Đồng hành với cuộc cách mạng tháng Tám -
1945, văn học Việt Nam cũng có cuộc cách
mạng lớn lao trong văn hóa văn nghệ, trong
đó có tiểu thuyết. Lần đầu tiên trong lịch sử
tiểu thuyết Việt Nam xuất hiện một mô hình
nhân cách con người Việt Nam mới mẻ, đặc
sắc và hiện đại. Mới và đặc sắc vì từ trước tới
giờ chưa hề có, hiện đại vì với mô hình nhân
cách này, tiểu thuyết Việt Nam 1945 -1975 đã
hòa vào xu thế chung của dòng tiểu thuyết sử
thi hiện đại ở các nước xã hội chủ nghĩa trên
thế giới, chứ không phải đi sau và chịu ảnh
hưởng như các giai đoạn trước đó. Nằm trong
xu thế chung của tiểu thuyết sử thi ở các nước
xã hội chủ nghĩa, tiểu thuyết sử thi Việt Nam
1945-1975, trong từng chặng phát triển của
nó, đã xây dựng thành công cấu trúc nhân
cách của các nhân vật đại diện cho con người
cách mạng, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Trong cấu trúc nhân cách này đã có sự thống
nhất cao độ: cái riêng hòa nhập vào cái chung,
con người cá nhân tự nguyện phục tùng con
người xã hội vì mục đích cách mạng và kháng
chiến. Căn bệnh sơ lược trong các sáng tác
thời kỳ đầu và xuất hiện rải rác về sau làm
cho sự thống nhất trở nên đơn giản nhưng ở
những tác phẩm thành công (Đất làng -
Nguyễn Thị Ngọc Tú; Xung đột, Chủ tịch
huyện – Nguyễn Khải và đặc biệt là Bão biển
của Chu Văn), chúng ta bắt gặp hàng loạt
nhân vật có nhân cách làm xúc động lòng
người, là những điển hình nghệ thuật kết tinh
từ cuộc sống. Thời đại anh hùng cách mạng
thực sự đã sản sinh ra những con người lý
tưởng mang nhân cách cao đẹp, khỏe khoắn,
có sức mạnh và khả năng cải tạo hoàn cảnh.
Với nhân vật chính diện, con người cá nhân
được miêu tả bằng cái nhìn tiểu thuyết với sự
giản dị từ ngoại hình, trang phục, ngôn ngữ,
nguồn gốc xuất thân và đặc biệt là những
phẩm chất của con người cá nhân (tình yêu
lứa đôi, tình vợ chồng, tình bạn, tình mẫu tử,
tình bạn...) nhưng phẩm chất con người xã hội
trong nhân cách của nhân vật chính diện lại
được khắc họa bằng cái nhìn sử thi với tính
chất lý tưởng hóa: yêu thương, căm thù và
anh hùng đến mức phi thường. Vì yêu nước,
họ sẵn sàng hiến dâng cả cuộc sống của mình.
Vì căm thù giặc, họ vượt qua những thử thách
ghê gớm mà những con người bình thường
không thể vượt qua. Với loại nhân vật phản
diện, “nguyên tắc biếm họa” [12] được sử
dụng để khắc họa nhân cách của chúng. Với
thủ pháp phóng đại, cái nhìn biếm họa đã tạo
ra những bức chân dung méo mó, dị dạng cả
về ngoại hình lẫn nhân cách. Đây là những
cấu trúc nhân cách chưa có chiều sâu tâm lý,
vai trò con người cá nhân và con người xã hội
đều chưa rõ nét. Đây cũng là một hạn chế của
tiểu thuyết giai đoạn này.
KẾT LUẬN
Trong thế giới nhân vật của tiểu thuyết Việt
Nam 1960 – 1975 nói chung và tiểu thuyết về
đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng, đã
có sự kết hợp hiệu quả giữa chất sử thi với
chất tiểu thuyết trong việc xây dựng cấu trúc
hình tượng nhân vật, tạo ra những điển hình
văn học của loại hình tiểu thuyết sử thi hiện
đại - nhân vật “con người mới”. Cấu trúc hình
tượng nhân vật đã phản ánh chân thực hiện
thực lịch sử và thỏa mãn yêu cầu nghệ thuật
của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội
chủ nghĩa, nó bắt rễ sâu xa trong truyền thống
văn học dân tộc và được gặp gỡ với mô hình
tiểu thuyết Nga – Xô viết, kết hợp với đặc
điểm lịch sử của thời đại chiến tranh cách
mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Cái khác biệt nhất của con người mới
so với những nhân vật văn học trước đó là
khả năng làm chủ: làm chủ tập thể và làm chủ
bản thân, con người mới tồn tại đồng thời
cùng với quá trình bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, họ chiến đấu và lao
động quên mình vì bản thân, vì dân tộc mình
và vì cả nhân loại.
Cái nhìn lý tưởng hóa đã xây dựng nên hình
tượng nhân vật trung tâm với tư thế và vẻ đẹp
hào hùng. Họ chính là hóa thân của một dân
tộc anh hùng trong thời đại anh hùng. Họ
mang trong mình những phẩm chất phi
thường: giản dị, bình thường mà phi thường
về sức mạnh tinh thần. Vì vậy, họ được ghi
nhận, được mô tả như những con người đẹp
nhất, lớn lao nhất, giàu tính chiến đấu nhất
Họ là những con người sống có lý tưởng, có
mục đích, hiểu việc mình làm và con đường
mình đang đi. Bên cạnh những ưu điểm đã
nêu trên thì nhân vật con người mới còn nặng
về tính khuân mẫu nên ít nhiều hạn chế trong
phản ánh dưới góc độ cá nhân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đoàn Đức Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 93 - 100
100
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Trường Chinh (1974), Đề cương văn hóa
Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
[2].Trường Chinh (2006), Về văn hóa văn nghệ,
Nxb Văn học, Hà Nội.
[3].Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại (2 tập), Nxb ĐH&THCN, Hà Nội.
[4].Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Chặng
đường mới của văn học Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[5].M. Goócki (1960), Báo cáo trước Đại hội
nhà văn Xô viết lần thứ nhất (Hoài Thanh dịch),
Nxb Văn học, Hà Nội.
[6].Viện Văn học (2002), Nhìn lại văn học Việt
Nam thế kỉ XX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7].Phong Lê (1980), Văn xuôi Việt Nam trên con
đường hiện thực XHCN, Nxb KHXH, Hà Nội.
[8].Phong Lê (2003), Văn học Việt Nam hiện đại:
Lịch sử và lý luận, Nxb Xã hội, Hà Nội.
[9].Phong Lê (2007), “Từ sự nghiệp đổi mới nhìn
lại lịch sử các mối giao lưu với văn học phương
Tây hiện đại”, Tạp chí NCVH số 1, Hà Nội.
[10].Phong Lê, Hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt
Nam sau hơn nửa thế kỉ nhìn lại, bài viết trên
vietvan.vn.
[11].Vương Trí Nhàn, Trả lời phỏng vấn đăng trên
tuoitreonline, năm 2005.
[12]. Nguyễn Đức Hạnh (2007) Tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ 1965-1975 nhìn từ góc độ thể loại, Nxb Giáo
dục, HN.
[13]. Huy Liên - Nguyễn Kim Đính - Hoàng Ngọc
Hiến (1985), Lịch sử văn học Xô viết (2 tập), Nxb
ĐH&THCN, Hà Nội, tr 92],
[14]. Thúy Toàn (1977), “Bước đầu tìm hiểu quá
trình phổ biến văn học Xô viết ở Việt Nam”, Tạp
chí Văn học số 5, Hà Nội, tr67-73].
[15]. Nguyễn Đình Thi (1994), Tuyển tập văn
xuôi, Nxb Văn học, Hà Nội; tr.29].
[16]. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Đặc điểm cơ
bản của nền văn học mới Việt Nam 1945 – 1975,
50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám, Nxb ĐHQG, Hà Nội, tr.50].
[17]. Nguyễn Khải (2003), Nghề văn cũng lắm
công phu, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
SUMMARY
REALISTIC LITERATURE OF SOCIALIST REPUBLIC AND VIETNAMESE
NOVELS IN THE PERIOD OF 1960-1975 IN TERMS OF CENTRAL
CHARACTERS
Doan Duc Hai*
Thai Nguyen University
In the world of characters of Vietnamese novels in the period of 1960 – 1975 in general and novel
on the subject of building socialism in particular, there has been an effective collaboration between
the epic and novel in the building structure of characters, creating the typical literary forms of
modern epic novel character "new man". The character structure reflects the reality of history
and satisfies the method of art creation of socialist realism. It is deeply rooted in traditional
literature and novel model of Russia – Soviet, combined with the historical era of revolutionary
war and socialist construction in Vietnam. The most distinctive feature of the "new man" compared
to the previous literary character is the ability to master: collective ownership and self-
employment. The new men existed simultaneously with the foundation, protection and
development of a socialist country, they fought and selflessly worked not for themselves, but for their
people and for all mankind.
The look of idealization has built up a central character with posture and heroic beauty. They are
the incarnation of a heroic nation in the age of heroes. They bring in their extraordinary qualities:
simple, normal but extraordinary mental strength. Therefore, they are recorded and described as
the most beautiful people, the greatest and most rich combat. They are the ideal human life with
the purpose, 'to understand their work and the way you're going". Besides the advantages mentioned
above, the character “new man” also puts the emphasis on pattern more or less limited to reflect
the personal perspective.
Key words: New man, central character, realistic literature of socialist republic
*
Tel: 0913 089612
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33430_37251_7920129504912012_split_15_5816_2052317.pdf