Vấn đề môi trường gây ra bởi việc sử dụng túi nilon không phân hủy sinh học

Lâu nay người dân trên hầu khắp hành tinh hơn 6 tỉ người đã trở nên quen thuộc với việc sử dụng túi nilon hàng ngày (Đức, 2009). Tuy nhiên, những người sử dụng túi ni-lon đa phần mới chỉ quan tâm tới những tiện ích của nó mà không hề biết những chiếc túi nilon được tạo ra từ poyethylen, một loại nhựa dẻo nóng có nguồn gốc từ dầu mỏ và quá trình tự phân hủy của nó diễn ra rất chậm (Đức, 2009). Việc sử dụng túi nilon tràn lan sẽ gây tác động xấu tới môi trường ra sao? Chúng ta cùng dạo một vòng quanh trái đất xem con người đã sử dụng túi nilon sao nhé!

doc18 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 6066 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề môi trường gây ra bởi việc sử dụng túi nilon không phân hủy sinh học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG KHOA CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BÀI TẬP MÔN PHÂN TÍCH HỆ THỐNG Chủ đề : VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG GÂY RA BỞI VIỆC SỬ DỤNG TÚI NILON KHÔNG PHÂN HỦY SINH HỌC GVHD: Phạm Thị Anh Lớp K13M1, Nhóm 8, Gồm các sinh viên SV1:Nguyên Minh Huê SV2: Nguyễn Thị Thanh Trà SV3: Nguyễn Thị Kim Ngân SV4:Nguyễn Thị Diễm Lan SV5: Nguyễn Thị Thu Thảo SV6: Nguyễn Anh Quân SV7: Đặng Văn Lộc TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 NĂM 2010 Giới thiệu chung Lâu nay người dân trên hầu khắp hành tinh hơn 6 tỉ người đã trở nên quen thuộc với việc sử dụng túi nilon hàng ngày (Đức, 2009). Tuy nhiên, những người sử dụng túi ni-lon đa phần mới chỉ quan tâm tới những tiện ích của nó mà không hề biết những chiếc túi nilon được tạo ra từ poyethylen, một loại nhựa dẻo nóng có nguồn gốc từ dầu mỏ và quá trình tự phân hủy của nó diễn ra rất chậm (Đức, 2009). Việc sử dụng túi nilon tràn lan sẽ gây tác động xấu tới môi trường ra sao? Chúng ta cùng dạo một vòng quanh trái đất xem con người đã sử dụng túi nilon sao nhé! Mỗi năm có hàng triệu động vật bị chết hoặc bị ngạt thở bởi túi nilon. Mỗi năm, toàn thế giới sử dụng hơn 13 tỷ túi nilon, trung bình mỗi người sử dụng 220 túi. Mỗi túi nilon thường chỉ được sử dụng 12 phút trước khi bị vứt đi nhưng chúng lại tồn tại trong môi trường đến hàng nghìn năm (Thanh, 2008). Tổ chức Environment California ước tính, khoảng một triệu động vật biển bị chết mỗi năm do mắc vào hoặc bị ngạt thở bởi túi nilon trôi nổi trên đại dương (Minh , 2009 ). Còn tổ chức British Antarctic Survey thì phát hiện một số túi nilon trôi đến tận vòng cực bắc hoặc quần đảo Falkland trên Đại Tây Dương (Thanh, 2008). Một báo cáo cách đây hai năm của Chương trình Môi trường LHQ ước tính, mỗi dặm vuông (tương đương 2,6 km2) trên đại dương có khoảng 36 nghìn mảnh vụn túi nilon. Theo tổ chức Greenpeace (Hòa Bình Xanh), trên Thái Bình Dương có một vùng tương đương diện tích bang Texas (gần 700 km2) được gọi là “xoáy rác”, nơi mà mỗi đợt sóng cuốn theo 1 kg phù du thì lại cuốn theo đến 6 kg túi nilon (Thanh, 2008). Và hiện nay túi nilon cũng đang trở thành thảm họa môi trường ở Việt Nam. Việc hạn chế sử dụng bừa bãi túi ni-lông và tiến tới từng bước loại trừ túi nilon ra khỏi đời sống là việc cần phải làm và làm ngay trước khi Việt Nam trở thành bãi rác nilon. Túi nilon được làm từ những chất khó phân hủy hoàn toàn phải mất hàng trăm thậm chí là phải mất hàng ngàn năm (Nhật, 2009). Trong khi đó, hiện nay tại Việt Nam số lượng túi nilon được tập trung về bãi rác để xử lý tập trung chiếm tỷ lệ không cao, đa phần còn lại bị vứt xuống sông, hồ, cống rãnh, kênh rạch, gây ngập úng…(báo nhân dân, 2009). Nghiêm trọng hơn các nhà khoa học còn phát hiện ra rằng từ đất và nước bị ô nhiễm bởi túi nilon sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe con người cả trực tiếp và gián tiếp. Thực tế, có nhiều loại túi nilon có lẫn lưu huỳnh, được làm từ dầu mỏ nguyên chất. Không thể loại trừ khả năng nhiễm độc từ túi nilon được dùng để bọc các loại thực phẩm tươi sồng, đồ ăn chín…Ngoài ra, bên cạnh ảnh hưởng tới nguồn nước,đất, sức khỏe của cộng đồng, ngoài ra còn gây ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị (Sơn, 2010). Ở TPHCM hiện nay, túi nilon chiếm 5% -7,5% trên tổng lượng rác thải ra hằng ngày, 100% trong số đó là túi nilon không phân hủy sinh học (Việt, 2009) Vào tháng 9 năm 2009 về tình hình sử dụng túi nilon tại thành phố, cư dân thành phố mỗi ngày sử dụng và thải ra môi trường khoảng 50 tấn túi nilon (Quỹ tái chế chấy thải TPHCM, 2008). Khảo sát việc sử dụng túi nilon cho thấy, 72% lượng túi nilon được tiêu thụ ở 229 chợ, số còn lại tiêu thụ ở siêu thị và các trung tâm thương mại trên địa bàn TPHCM (An, 2009) Giới thiệu khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,30% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.401 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người (Nhật, 2009). Cùng với sự phát triển ấy Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng nặng. Và vấn đề do cung cấp và tiêu thụ túi nilon nhiều đặc biệt là túi nilon khó phân hủy là vấn đề quan trọng trong việc tăng thể tích thu gom và thể tích bãi chôn lấp và gây ô nhiễm môi trường. Phân tích hệ thống Để xác định tác động đến môi trường của việc xả túi nilon, đầu tiên chúng tôi xác định vấn đề bao gồm việc xác định thiết lập sơ đồ nhân quả, biên giới hệ thống, lượng túi nilon tiêu thụ và xả thải bừa bãi đặc biệt là túi nilon khó phân hủy. Trong bài viết này, chúng tôi xác định nguyên nhân quan trọng nhất làm tăng thể tích thu gom, tăng thể tích bãi chôn lấp và mất mỹ quan đô thị liên quan đến số lượng túi nilon tiêu thụ và xả thải bừa bãi đặc biệt là túi nilon khó phân hủy . Sau đó chúng tôi thu thập tài liệu về số lượng túi nilon ảnh hưởng đến việc tăng thể tích thu gom và thể tích bãi chôn lấp. Trên cơ sở của những tài liệu đã có chúng tôi xác định các giải pháp để giảm thiểu tác động của những vấn đề trên sao cho phù hợp với định nghĩa biên giới hệ thống. Dữ liệu được thu thập thông qua việc kết hợp khảo sát ở các siêu thị, hộ gia đình, ở chợ và tham khảo tài liệu trên Google.com.vn. Những số liệu được khảo sát từ số lượng tiêu thụ túi nilon ở các siêu thị Coopmax, siêu thị BigC… và một số hộ gia đình, chợ trên địa bàn quận 7 đã giúp chúng tôi tập hợp các thông tin về số lượng túi nilon trung bình thải ra 1 ngày. Biên giới hệ thống Những tích cực do túi nilon mang đến cho con người như: tiện lợi, rẻ tiền, dễ mua, dễ sử dụng nên con người đã và đang biến một vật dụng tiện lợi, rẻ tiền như túi nilon thành một thảm họa ô nhiễm môi trường. Những thảm họa môi trường ấy có thể kể đến như: tăng thể tích bãi chôn lấp; túi nilon không phân hủy sinh học tồn tại lâu trong môi trường ảnh hưởng tới nguồn đất, nước, không khí; ảnh hưởng tới sức khỏe, môi trường sống của con người cũng như của động, thực vật; mất mỹ quan đô thị… Hiện nay, túi nilon đã trở thành vật dụng phổ biến trong sinh hoạt của người dân. Đặc biệt, là ở các chợ, siêu thị việc sử dụng túi nilon được xem là một thói quen của nhiều người. Theo Quỹ Tái chế thuộc Sở TN-MT TPHCM, hiện nay trung bình mỗi ngày TPHCM thải ra môi trường khoảng 50 tấn túi nilon, phần lớn trong số này là túi nilon không phân hủy sinh học. Với gần 10 triệu dân sinh sống, tính ra trung bình mỗi ngày mỗi người dân thành phố thải ra môi trường 5g túi nilon (theo SGGP, 2009). Những chiếc túi nilon chưa phân hủy lẫn vào đất sẽ ngăn cản sự vận chuyển nước từ các mạch nước lưu thông trong đất, của hơi ẩm, của các loài có khả năng cải tạo đất như giun đất. Chúng là tác nhân gây phá vỡ kết cấu của đất thông qua việc ngăn cản trao đổi các ion trong đất, ngăn cản ôxy đi qua đất, gây xói mòn đất. Đất dần dần sẽ bị thoái hóa từ năm này qua năm khác, trở nên bạc màu, cằn cỗi, làm chậm sự tăng trưởng của cây trồng và tệ hơn nữa là không phục vụ cho mục đích trồng trọt được nữa (Anh, 2009). Hơn nữa việc xả túi nilon bừa bãi cũng là nguyên nhân gây tắc nghẽn kênh rạch. Những chiếc túi bồng bềnh làm tắc nghẽn sông hồ, cống rãnh, làm chết nhiều loài thủy sinh, làm đất "ngạt thở" và là nơi trú ngụ và phát tán của côn trùng (như ruồi, muỗi…), lây truyền dịch bệnh ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, gây ô nhiễm nặng nề môi trường. Ngoài ra túi nilon nằm "kẹt sâu" trong cống, rãnh, kênh, rạch còn làm tắc nghẽn hệ thống thoát nước thải của cống, rãnh, kênh, rạch, gây ngập lụt ngày càng nhiều cho đô thị khi trời mưa lớn bởi không có sự tác động của nhiệt độ cao từ ánh sáng mặt trời, thì phải mất 500 - 1.000 năm, túi nilon mới có thể bị phân hủy (Anh, 2009). Không chỉ gây hại đối với môi trường, mà túi nilon nếu không được sử dụng đúng cách cũng gây hại cho chính người sử dụng. Túi nilon được dùng trong đóng gói hoặc đựng thực phẩm chủ yếu được làm từ nhựa PE hoặc PP. Thành phần của các loại nhựa này không chứa chất độc, nhưng những chất phụ gia làm cho nhựa mềm, dẻo lại có khả năng gây độc cho người. Những phụ gia này có thể phản ứng ở nhiệt độ 70-80°C, trong khi đó nhiều người dân lại có thói quen sử dụng túi nilon đựng đồ ăn nóng tới gần 100°C. Ở những tình huống như vậy, khả năng đồ ăn đựng trong túi bị nhiễm độc là rất cao, đặc biệt là nhiễm chất độc DOP (dioctin phatalat). DOP là một hóa chất dẻo, có tác dụng giống như hormon nữ, rất có hại cho nam giới và trẻ em khi cơ quan sinh dục chưa hoàn chỉnh. Nếu bị nhiễm chất này lâu dài, các bé trai có thể bị nữ tính hóa, vô sinh nam, còn trẻ em nữ thì có nguy cơ dậy thì sớm. DOP tồn tại 5-10% trong các hóa chất dẻo đang được sử dụng. Không chỉ có vậy, hành vi sử dụng túi nilon tuy nhỏ, song đang làm cho cả hành tinh phải tiêu tốn đi một nguồn năng lượng đáng kể. Theo tính toán của nhiều nhà khoa học, để sản xuất ra 100 tỷ túi nilon người ta phải sử dụng khoảng 12 triệu thùng dầu thô. Với mức tiêu thụ túi nilon như ở TPHCM, hẳn chi phí để sản xuất ra chúng cũng không nhỏ. (Theo SGGP, 2009). Túi nilon không phân hủy sinh học có thời gian phân hủy trong môi trường tự nhiên dài hơn nhiều so với túi nilon phân hủy sinh học hoàn toàn nên túi nylon làm từ nguyên liệu sinh học tiết kiệm được diện tích đất sử dụng cho các bãi chôn lấp còn túi nilon không phân hủy sinh học thì ngược lại. Năm 2001, các nhà khoa học Nhật Bản đã có nhận định một vài mẩu rác nilon trôi nổi trên biển đóng vai trò như một loại xốp thấm hút hóa chất, chúng sẽ là nơi tập trung hàng triệu hợp chất gây chết người như PCBs và DDE (sản phẩm phân hủy của thuốc trừ sâu DDT), các sinh vật biển sau khi ăn phải những mẩu xốp này sẽ bị chết (Khoa, 2009). Còn đối với môi trường không khí, trong suốt quá trình sản xuất túi nilon sẽ phát thải các hóa chất độc và nhiều khí CO2 gây ô nhiễm môi trường không khí. Ở Ireland, với xấp xỉ 1,2 triệu người đi mua sắm, nếu chuyển 50% túi nilon không phân hủy sinh học sang túi vải thì lượng CO2 thải ra hàng năm sẽ giảm 15.100 tấn (Khoa, 2009). Vào năm 1990, các nhà khoa học đã chứng minh nếu sản xuất 2 túi ni lông không phân hủy sinh học sẽ tạo ra 1,1 gam chất làm ô nhiễm khí quyển, góp phần tạo ra mưa a-xit và sương khói (Khoa, 2009). Trong tất cả các giai đoạn trong vòng đời của túi nilon không phân hủy sinh học, từ sản xuất đến thải bỏ đều có tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội. Các sản phẩm nhựa mà điển hình là túi nilon không phân hủy sinh học còn có tác động tiêu cực đến kinh tế nhiều quốc gia do làm mất mát tiềm năng về nông nghiệp và du lịch. Vì vậy trong bài này chúng tôi chỉ đề cập đến ảnh hưởng của túi nilon không phân hủy sinh học hoàn toàn và chúng là nguyên nhân chính làm tăng thể tích các bão chôn. Đây là vấn đề nổi trội mà chúng tôi tập trung vào nghiên cứu và đánh giá. Sở dĩ các vấn đề khác (như trên đã đề cập) không được chúng tôi nghiên cứu và đánh giá vì ảnh hưởng của túi nilon tới chúng chỉ là một phần nhỏ, không đáng kể. Sơ đồ biên giớ hệ thống HẬU QUẢ CHẤT Ô NHIỄM HOẠT ĐỘNG THÀNH PHẦN HỆ THỐNG Người tiêu thụ Người cung cấp Người sản xuất Xả thải Cung cấp Tiêu thụ Thu gom Ô nhiễm đất, nước Lượng túi nilon thu gom Lượngtúi nilon sản xuất Tăng thể tích thu gom Tăng thể tích bãi chôn lấp Mất mỹ quan đô thị Tắc nghẽn cống rãnh Ô nhiễm không khí Người thu gom Lượng túi nilon tiêu thụ Lượng túi nilon xả thải Tác động Thói quen sử dụng túi nilon (bao xốp) đã trở nên rất quen thuộc trong mỗi gia đình. Nilon hiện nay là một vật dụng không thể thiếu đối với cuộc sống của mỗi người. Nilon hiện diện ở mọi ngóc ngách, hiện diện từ những các siêu thị, các chợ, các cửa hàng bán tạp hoá trong những ngõ phố hay như trong thúng của bà bán xôi, chị bán bánh mì, chú bán bánh bao…(Ngân, 2009). Không ai có thể phủ nhận sự tiện dụng của túi nilon trong sinh hoạt hàng ngày. Vì quá rẻ và quá tiện dụng, việc sử dụng túi nilon để đựng, gói, chứa thực phẩm, hàng hóa… trở thành thói quen của cả người mua lẫn người bán. Việc những bà nội trợ tay không vào chợ, nhưng lúc quay về thì lỉnh kỉnh một đống túi nilon to, nhỏ, dày mỏng đủ màu sắc, đựng từ rau, quả, thực phẩm tươi sống, đồ ăn chế biến sẵn... đã trở nên phổ biến đến mức bình thường. Càng ngày mức độ phổ biến và tính nguy hại của túi nilon đối với sức khỏe con người và môi trường sống càng được nhận thức rõ hơn (Mai, 2010). Mọi người có thể sử dụng túi nilon để đựng thức ăn sống, thức ăn chín, bảo quản trong tủ lạnh…Túi nilon rất tiện lợi nhưng bên cạnh đó, nó lại tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khoẻ của người sử dụng. Vì tình tiện lợi, tính sẵn có của túi nilon và có khi người tiêu dùng còn được cho không túi mỗi khi đi mua sắm nên lượng túi được sử dụng và thải ra rất nhiều. số lượng túi nilon được tập trung về bãi rác chiếm tỷ lệ không cao. Túi nilon ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Có nhiều loại túi nilon có lẫn lưu huỳnh, được làm từ dầu hỏa nguyên chất. Không thể loại trừ khả năng nhiễm độc từ túi nilon khi chúng ta sử dụng chúng để bọc các thực phẩm tươi sống, đồ ăn chín… Ở bài phân tích này chúng tôi tập trung vào hậu quả của sử dụng túi nilon nhiều ở thành phố HCM dẫn tới mất mĩ quan đô thị, tăng thể tích bãi chôn lấp và tăng thể tích thu gom. Tăng thể tích thu gom và tăng thể tích bãi chôn lấp Ước tính, mỗi năm nhân loại xài khoảng 500 - 1.000 tỉ túi nhựa (Văn Giang, 2009). Mỗi năm có từ 500 tỉ đến 1 tỉ tỉ túi nilon được sử dụng và vứt bỏ trên khắp thế giới, có nghĩa là trong vòng 1 giây thì có hơn 1 triệu túi nilon "bay bay" vào môi trường. Nhưng chỉ từ 0,6 - 1% túi plastic được tái sử dụng (Sapuwa 13.11.2008). Không chỉ sử dụng nhiều túi nilon, mà một bộ phận không nhỏ người dân thành phố còn có hành vi ứng xử rất xấu trong việc xả thải túi nilon. Rác là túi nilon hiện chỉ chiếm khoảng 5% - 7% /tổng lượng rác thải được ghi nhận "đổ về" tại các bãi rác của thành phố. Trong khi lượng rác thải ở các bãi rác của thành phố hiện vào khoảng 7.000 tấn/ngày (Phòng Quản Lý Tài Nguyên Thành Phố, 2009). Như vậy mới chỉ có khoảng 35-40 tấn túi nilon được tập trung về các bãi rác. Số túi nilon còn lại hẳn đã bị vứt bừa bãi xuống sông, kênh, rạch của thành phố. Túi nilon nằm "kẹt sâu" trong cống, rãnh, kênh, rạch còn làm tắc nghẽn cống, rãnh, kênh, rạch, gây ngập úng bởi không có sự tác động của nhiệt độ cao từ ánh sáng mặt trời, thì phải mất 500 - 1.000 năm, túi nilon mới có thể bị phân hủy (theo Báo Sài Gòn Giải Phóng, 2009). Lượng túi nilon tăng lên làm tăng thể tích của việc thu gom và tăng thể tích của bãi chôn lấp, làm cho bãi chôn lấp nhanh chóng bị đầy. Hiện nay trung bình mỗi ngày TPHCM thải ra môi trường khoảng 50 tấn túi nilon, phần lớn trong số này là túi nilon không phân hủy sinh học (Quỷ tái chế TP.HCM, 2008). Với gần 10 triệu dân sinh sống, tính ra trung bình mỗi ngày mỗi người dân thành phố thải ra môi trường 5g túi nilon (theo Báo Sài Gòn Giải Phóng, 2009). Tập trung lại, nếu tính tròn thì 5g nilon tương ứng với 1 túi nilon thì trung bình mỗi ngày mỗi người dân thành phố đã sử dụng 1 túi nilon. Đây là con số "khủng khiếp" khi "nhìn sang" việc sử dụng túi nilon của một số nước trên thế giới (theo Báo Sài Gòn Giải Phóng, 2009). Ở Ireland là 328 túi/người/năm, Australia 250 túi/người/năm, Scotland 153 túi/người/năm... nghĩa là họ sử dụng chưa tới 1 túi nilon/ngày. Bộ TN-MT cũng cho biết trung bình mỗi ngày mỗi gia đình Việt Nam sử dụng và thải ra môi trường ít nhất 1 túi nilon (theo Báo Sài Gòn Giải Phóng, 2009). Ngay trong các siêu thị hiện đại, tình trạng lạm dụng nilon đựng đồ ăn cũng diễn ra. Tại quầy ăn nóng của Siêu thị Co.op Mark trên đường Lý Thường Kiệt, quận 10, TP HCM, cơm, canh, thức ăn nóng được cho vào từng túi nilon để người mua chọn lựa. Theo thói quen, túi thức ăn nào sờ càng nóng, được khách hàng lựa chọn trước. Tại Việt Nam, trung bình một người /năm sử dụng ít nhất 30kg các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa. Từ 2005 đến nay, con số lên tới 35 kg/người/năm (Văn Giang, 2009). Từ các chợ truyền thống cho đến những cửa hàng tạp hóa ở đầu con hẻm hay cuối khu phố, vật chứa hàng hóa hầu như chỉ có túi nilon (Theo VnExpress.net, 2009). Riêng các trung tâm thương mại lớn tại Sài Gòn như: Diamond, Parkson, thương xá Tax... thân thiện với môi trường hơn khi nhiều quầy hàng cung cấp những túi giấy sang trọng có quai, tuy nhiên vẫn chưa phổ biến (Hường, 2009). Nhiều chủ hộ kinh doanh cho biết, túi nilon thường được mua theo ký và 1kg túi quy ra khoảng 50-200 túi (số lượng phụ thuộc kích cỡ túi), giá khá rẻ từ 20.000-25.000/kg, nên người bán cho thoải mái để khách mua vừa lòng. (Tin tức Việt Nam, 2009). Một phần cơm dùng tới… 10 túi nilon. Ti tỉ các hàng hóa khác, thứ nào cũng có túi nilon “đồng hành”. Túi nilon được người dân sử dụng “xả láng” mà chẳng mấy ai bận tâm đến tác hại nghiêm trọng của nó. Có mặt tại quán cơm tấm Cây Khế trên đường Nguyễn Oanh (Q.Gò Vấp, TPHCM) vào giờ cao điểm, đập vào mắt chúng ta là từng thùng cơm, canh, nước mắm… được chia nhỏ trong hàng trăm túi nilon với đủ kích cỡ. Tất cả được đóng gói sẵn để có thể đáp ứng nhanh nhất cho khách hàng có nhu cầu mua cơm về. Ngay trên tủ chứa đồ ăn, ba bịch lớn hộp xốp đựng cơm vừa được một cậu nhân viên giao hàng đưa đến. Một phần cơm mua tại đây để mang về sẽ sử dụng không dưới 10 bao bì nhựa: hộp đựng cơm, thìa nhựa, đũa bọc trong túi nilon mỏng, canh, nước mắm, nước tương, nước thịt, thức ăn, rau sống… mỗi thứ đều được gói trong một túi bóng nhỏ. Tất cả các món trên trước khi trao cho khách sẽ được cho vào một bao xốp lớn.Cô chủ quán cơm tấm này cho biết, mỗi ngày họ bán trên 100 phần cơm mang về, sử dụng hết trên 5 ký túi nilon, đồ nhựa các loại. Cửa hàng tạp hóa của anh Huấn ở chợ Tân Trụ (Q.Tân Bình), túi nilon được treo ngay phía trước để khách hàng rút cho tiện. Anh Huấn cho biết: “Mỗi ngày tôi dùng hết khoảng 3kg túi bóng. Mình muốn hạn chế cũng đâu được, không có túi đựng, ai mua” Theo anh Huấn, nhiều khách hàng làm như “nghiền”… túi nilon, mua món gì cũng đòi bỏ riêng từng bọc. (Nam, 2010). Nhiều thực khách muốn “tận thu” túi nilon đã gọi một suất phở bình dân trên đường Hưng Phú quận 8, mang về nhà để được người bán hàng trao cho 5 túi nilon to nhỏ khi đựng: tương ớt, túi rau, bánh phở, nước lèo và một túi lớn để móc vào xe cho khách (Trịnh Tuyết-Ngọc Ánh, 2009). Theo báo chí TP Hồ Chí Minh thì lượng tiêu thụ túi ni lông ở thành phố rất lớn. Hệ thống siêu thị Maximark một tháng tiêu thụ 10 tấn ni lông, tương đương 1 triệu túi, hệ thống Bic C tiêu thụ 20 tấn, tương đương 3 triệu túi, đó là chưa kể ở các trung tâm thương mại, các chợ. Ở chợ Hoàng Hoa Thám, quận Tân Bình, có 5 sạp bán túi ni lông, bình quân mỗi sạp bán l00kg/ ngày (Nhiên, 2008). Theo khảo sát trên thực tế một số hộ dân ở Quận 7 của nhóm chúng tôi về việc sử dụng và hiểu biết về túi nilon như sau: Gia đình bạn có sử dụng túi nilon khi đi chợ, đi mua hàng, đựng đồ đạc không? Có: 100% Không: 0% Mỗi ngày gia đình bạn sử dụng hết bao nhiêu túi nilon? Dưới 5 cái: 55% Từ 6-10 cái:36% Trên 10 cái: 9% Bạn có bao giờ nghe nói đến tác hại của túi nilon? Biết rất rõ: 56%. Thỉnh thoảng: 42%. Chưa bao giờ: 2% Sau khi mua hàng về, bạn xử lý thế nào với túi nilon? Vứt ra sọt rác: 71%. Rửa sạch để lần sau dùng lại: 19% Theo bạn, chúng ta có nên sử dụng các loại túi thân thiện môi trường thay cho túi nilon? Có 98%. Không cần thiết 2 % Theo bạn việc xả bỏ túi nilon một cách bừa bãi sẽ: Gây mất mĩ quan đô thị: 100%. Làm ô nhiễm môi trường đất, nước: 70%. Làm tắc nghẽn cống, kênh rạch gây ngập úng và sinh mùi: 100% Bạn có vứt túi nilon khi đi ngoài đường chưa? Có: 95%. Chưa: 5% Với việc sử dụng túi nilon số lượng lớn như trên đồng nghĩa với việc túi nilon lẫn trong rác làm tăng thể tích bãi chôn lấp khi thu gom và xử lý. Qua việc khảo sát cho thấy người dân cũng đa biết rõ về tác hại của túi nilon với môi trường. Nhưng vì sự tiện lợi và thói quen của mọi người nên khối lượng túi được sử dụng và xả còn rất lớn. Mất mỹ quan đô thị Việt Nam chưa có thống kê cụ thể, nhưng thực tế trên cho thấy, số lượng và các tác động của nilon tới môi trường ngày một gia tăng. Thực tế tại tất cả các ngõ ngách, góc phố đều có rác thải túi nilon vứt khắp nơi, vừa mất mĩ quan vừa ảnh hưởng đến môi trường sống. Mỗi lần xe của cơ quan môi trường đi thông tắc cống rãnh, đều "lộ thiên" nhiều loại túi nilon lẫn lộn trong đống bùn đen moi lên từ lòng cống (Hường, 10/09/2009) Túi nilon được sử dụng nhiều nhưng để xả đúng quy định thì rât ít, một số túi được bỏ theo đúng quy định, số túi nilon còn lại thường bị vứt xuống; sông hồ, cống, rãnh, kênh, rạch… gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất và nước. Túi nilon lẫn vào đất có thể làm chậm sự tăng trưởng của cây trồng, ngăn cản oxy đi qua đất, gây xói mòn đất. Ngoài ra khi túi nilon bị chôn vùi xuống lòng đất làm lớp đất bị bít lại, bị xi măng hóa (PGS. TS Ngô Quốc Quyền, Viện hóa học Viện KH&CN Việt Nam). Túi nilon dạng rác rất dơ bẩn, khó phân hủy sẽ nổi lềnh bềnh ở sông suối, cống rãnh hoặc bị gió cuốn bay tứ tung. Chính vì vậy mà “ô nhiễm trắng” là cụm từ mà các chuyên gia môi trường thường sử dụng để nói về sự ô nhiễm của túi nilon đối với môi trường. Ở những nơi công cộng như công viên, nhà hát người dân sử dụng dựng thúc ăn rồi vứt bỏ tại chổ, nhìn trắng xóa, bay lung tung và nhìn như một bãi rác. Trên những con đường, người ngồi trên xe cứ mặc nhiên ném những thứ họ cầm trên tay xuống đường phố không có một mảy may suy nghĩ. Tất cả những hành động thiếu ý thức đó của người dân làm cho cảnh quang thành phố ngày càng trở nên ô nhiễm bởi túi nilon vung vãi khắp nơi gây mất mỹ quan đô thị. Phương pháp giảm thiểu Theo như những phân tích như trên, các phương án sau đây có thể xem như phương pháp nhằm giảm thiểu việc sử dụng túi nilon gây ra hai tác động tiêu cực đến môi trường là mất mỹ quan đô thị và tắc nghẽn kênh rạch. Tăng cường việc tuyên tuyền, giáo dục ý thức của người dân Trong số hơn 25.000 bạn đọc VnExpress được hỏi, có đến 92% muốn Chính phủ cấm dùng túi nilon hoặc giảm dùng dần vì tác hại của nó. Kết quả cho thấy, có rất nhiều người dân đã nhận thức được mối nguy hại của việc sử dụng vô tội vạ túi nilon, đó là một yếu tố thuận lợi cho phương án tuyên truyền (An, 2008). Tuy nhiên, số lượng người dân biến nhận thức ấy thành hành động cụ thể để bảo vệ môi trường thì chưa nhiều. Tất cả là do chưa có được một sự "kích hoạt" mạnh mẽ từ ngành chức năng và chính quyền thành phố. Chính vì vậy, kế hoạch thực hiện chương trình giảm thiểu sử dụng túi nilon sẽ được bắt đầu bằng hình thức định hướng cho người tiêu dùng (Khoa, 2009). Đối tượng được ưu tiên tuyên truyền trước hết sẽ là người tiêu dùng nói chung, nhưng sẽ đặc biệt là phụ nữ. Có thể nói, phụ nữ có vai trò ảnh hưởng quan trọng đến sự thành công trong việc thay đổi thói quen dùng túi nilon. Bởi trong bối cảnh hiện nay còn rất nhiều nhà bán lẻ đang băn khoăn lo lắng: nếu không phát túi nilon miễn phí cho khách hàng sẽ ảnh hưởng đến công việc kinh doanh, thì nhận thức tích cực của người phụ nữ, với tư cách là khách hàng lớn nhất, có thể làm thay đổi quan điểm của người bán hàng. Hiện tại, việc sử dụng túi nilon của người dân chủ yếu là đựng đồ trong khi đi mua sắm. Do vậy, tác động đến hoạt động này, chính là đã tác động đến nhóm đối tượng quan trọng nhất. Trong hoàn cảnh hiện tại nước ta còn sử dụng rất nhiều túi nilon thì việc tuyên truyền giáo dục ý thức bao hàm việc giáo dục việc bỏ túi nilon đúng nơi quy định thay vì bỏ khắp nơi trên mặt đất và sông rạch. Thay thế việc sử dụng túi nilon bằng các loại túi giấy, túi dể phân hủy Thay vì phải mất hàng trăm nay để phân hủy như túi nilon thì các loại túi này có thời gian phân hủy ngắn, không tích tụ lại trong môi trường nên giảm nguy cơ làm tắc nghẽn kênh rạch. TS. Phạm Thế Trinh, Phó Viện trưởng Viện hoá học công nghiệp: Từ năm 2003 viện đã nghiên cứu và sản xuất thành công túi có màng lọc polyme tự phân hủy. Nó là tổ hợp của nhựa PE tỉ trọng thấp với tinh bột sắn có sự tham gia của các chất phụ gia: phân tán, chất trợ tương hợp, chất oxy hoá và chất quang hoá (Thụy, 2005). Loại túi này có thể điều chỉnh thời gian phân huỷ từ 1-12 tháng. Sản phẩm có thể in mẫu mã như những túi nilon bình thường khác để đựng hàng hoá đảm bảo độ bền và mỹ quan. Giá của nó có cao hơn các loại túi khác từ 7-8%. Loại túi tung ra thị trường có thể xách được hàng hoá nặng tới 5kg nhưng do giá cao hơn vả lại, ý thức bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp và người dân còn chưa cao nên phải chờ một thời gian nữa mới sản xuất đại trà được (Minh Thụy, 2005). Thói quen chỉ có thể thay đổi khi họ được đáp ứng một thói quen này thay vì thói quen khác. Nghĩa là trước khi cầm túi nilon hãy đưa cho người tiêu dùng loại túi khác thay thế đáp ứng đủ các tiêu chuẩn: Tiện dụng, giá rẻ, sẵn có. Vì vậy để phương án sử dụng túi thay thế trở nên khả thi cần tiến hành theo một trình tự hợp lí. Kế hoạch bắt đầu tại hệ thống siêu thị, các trung tâm thương mại ở TP và hướng đến giảm thiểu sử dụng loại sản phẩm này. Trước hết, ngành chức năng sẽ có các cuộc vận động người dân giảm dần việc sử dụng các loại túi HDPE (túi xốp mỏng, dùng 1 lần) để chuyển sang sử dụng các loại túi có thể sử dụng nhiều lần, hoặc các túi dễ phân hủy sinh học dùng một lần khác như túi giấy, túi nilon (loại dễ phân hủy sinh học). (Theo báo Tuổi trẻ, 2009). Một số cửa hàng, siêu thị sớm nhận ra sự nguy hiểm của việc lạm dụng túi nilon giờ đây đã có giải pháp giảm thiểu sử dụng loại bao bì này. Cùng với Thương xá Tax (TP. Hồ Chí Minh), hệ thống siêu thị Metro cũng đã tiến hành bán túi sử dụng nhiều lần cho khách mua hàng thay vì phát túi nilon đựng hàng, siêu thị BigC dừng phát bao nilon cỡ lớn (Nhu, 2008). Bên cạnh động thái tuyên truyền là những chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Đó là Nhà nước có thể đặt hàng nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật cho việc sản xuất các loại túi thân thiện với môi trường; có cơ chế tài chính khuyến khích doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm này. Đồng thời cũng cần có chính sách trợ giá cho túi thay thế trong khoản thời gian đầu thực hiện để tạo thành thói quen sinh hoạt (theo SGGP, 2009). Nhiều nước trên thế giới và trong khu vực cũng đã tuyên chiến với nạn "ô nhiễm trắng". Chẳng hạn từ năm 2007, Đài Loan đã cấm tất cả các cửa hàng, siêu thị, tiệm ăn nhanh sử dụng túi nilon nói riêng. Mới đây nhất, Trung Quốc đã nghiêm cấm việc vứt bỏ các túi nilon đựng đồ và kêu gọi quay trở lại với túi vải cổ truyền. Tại Nam Phi, Ireland, Bangladesh, chính phủ cũng hạn chế sử dụng túi nilon bằng cách đánh thuế vào người đi chợ sử dụng. Còn năm ngoái, San Francisco trở thành thành phố đầu tiên ở Mỹ cấm dùng các túi nhựa làm từ dầu mỏ trong các cửa hàng tạp phẩm lớn. Ở Pháp, các chuỗi siêu thị cũng đã bắt đầu e dè khi cấp túi nilon và các cửa hàng ở Đức buộc phải trả một khoản phí tái chế nếu họ muốn cung cấp chúng (An, 2008). Tác động đến chi phí sử dụng túi nilon Bán túi nilon thay vì phát miễn phí, tăng giá các sản phẩm có kèm túi nilon. Do túi nilon có giá thành rẻ, chỉ vài nghìn đã có hàng trăm chiếc, thế nên tại các siêu thị lớn, các trung tâm thương mại, túi nilon vẫn được ưu tiên hàng đầu trong việc đựng hàng hóa (Anh, 2008). Việc bán túi nilon sẽ tác động đến tâm lí tiết kiệm của người tiêu dùng và khiến họ cân nhắc kĩ việc sử dụng thay cho việc sử dụng một cách thoải mái. Thu thuế sử dụng túi nilon cũng như đánh mức thuế cao cho các cơ sở sản xuất túi nilon. Nghĩa là đánh vào bản chất cung – cầu; Tiền – hàng giữa bên bán và bên mua. Nếu như người bán hàng bị đánh thuế thì họ phải tính đến bài toán kinh tế: Giá bán hàng lúc đó sẽ kèm giá bán túi. Còn người mua khi không còn được cung cấp miễn phí túi thì họ cũng phải tìm giải pháp chi tiêu ít hơn hoặc cắt khoản chi này. (Theo Khoa Học và Đời Sống, 2009). Nguyễn Nguyên Cương, giám đốc Trung tâm Giáo dục và truyền thông môi trường (Liên hiệp các Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam) cho rằng: Bên cạnh việc đánh thuế, chúng ta cần có chính sách mạnh tay thông qua luật pháp, cần phải cứng rắn bằng thông tư của Chính phủ cấm sử dụng túi nilon trên thị trường. Tuy nhiên, cũng không thể cấm ngay lập tức mà nên làm thành từng bước. Trước mắt cấm những túi mỏng dưới 1mm, sau đó là túi lớn, dày trên 2 mm (Theo Khoa Học Và Đời Sống, 2009). Hỗ trợ các dụng cụ, phương tiện thu gom và xử lí túi nilon phế thải Muốn nâng cao ý thức thì đi kèm theo đó phải có những điều kiện thuận lợi để thực hiện. Biện pháp có tác động nhanh hơn cả là cải tiến hệ thống thu gom và hỗ trợ dụng cụ thu gom. Đặt nhiều thùng rác ở các khu vực công cộng như siêu thị, trường học, chợ, trung tâm giải trí, thể thao. Các thùng rác phải thiết kế thuận tiện cho việc bỏ rác. Khoảng cách giữa các thùng rác nên rút ngắn hợp lí. Khoảng cách giữa các thời điểm thu gom cần rút ngắn, như vậy sẽ hạn chế việc túi nilon thải bị phát tán do gió hoặc để không đúng nơi quy định. Lập hệ thống thu gom và tái chế túi nilon. Tăng cường don vệ sinh nơi công cộng Nếu chúng ta quét dọn đường phố, công viên sạch đẹp thì sẽ giảm việc xả núi nilon ra nơi công cộng. Theo tâm lý con người khi nơi đó sạch đẹp thì người dân sẽ có ý thức hơn trong việc xả rác. Kết luận và kiến nghị Túi nhựa đang được con người lạm dụng. Nó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống con người Việc sử dụng túi nilon đã gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng như: mất mỹ quan đô thị, tăng thể tích thu gom, tăng thể tích bãi chôn lấp. Do thiếu các biện pháp quản lý, nhận thức còn thấp, công nghệ lạc hậu nên giải quyết vấn đề khó khăn Vì vậy các cơ quan chức năng cần phải thực hiện chính sách phù hợp để giảm thiểu sử dụng túi nhựa Mọi người đều cần phải góp phần bảo vệ môi trường Tài liệu tham khảo (16/03/2009). Bắt đầu nói "không" với túi nilon. Theo SGGP. (2009). Chặn cỏ bằng màng nilon tự phân hủy. theo Báo Người Lao Động. (2009). Giải pháp nào cho túi nilon? Theo Khoa Học và Đời Sống. (2009). Ngày không túi nilon” đầu tiên trên thế giới tại Hội An. Báo Nhân Dân. An, T. (2008). 92% độc giả muốn cấm hoặc giảm túi nilon. An, T. (2008). Độc giả muốn cấm hoặc giảm túi nilon. Anh, C. (2008). Bao giờ nói không với túi nilon? Anh, T. s. T. M. (11/10/2009). Túi nilon: thảm họa môi trường. báo An Giang. Đức, M. (2009). Túi nilon tiện ích hay tác hại. Hường, V. L. B. (10/09/2009). Người tiêu dùng quen xài túi nilon. TheoTinTức/Vietnam. KHOA, T. L. V. (31/08/2009). Nguyên liệu sinh học có thời gian phân hủy ngắn hơn Khoa, T. L. V. (31/08/2009). Nguyên liệu sinh học có thời gian phân hủy ngắn hơn. Mai, H. (25/03/2010). Tiện nhưng không lợi Minh, U. (Lao Động Cuối tuần số 16 Ngày 19/04/2009 ). "Người gây ô nhiễm phải trả tiền." Nam, H. (17/03/2010). Một phần cơm dùng 10 túi nilon. báo Dân Trí Ngân, H. (2009). Thói quen sử dụng túi nilon làm cho môi trường không thân thiện. Nhật, M. (12/4/2009). Giới thiệu chung về thành phố Hồ Chí Minh. Nhiên, T. T. (2008). Hiểm hoạ túi ni lông. Nhu, T. (2008). Giảm thiểu từ nguồn. Quỹ tái chế chất thải thành phố Hồ Chí Minh, 2008 Sapuwa, T. L.-S. P. (13.11.2008). Hạn chế sử dụng túi nilon. Sơn, X. (2010). Tiện lợi và di họa từ túi nilon. Thanh, T. (2008). Túi nilon tấn công thế giới. Thụy, M. (2005). Túi nilon không…muôn năm. Trịnh Tuyết-Ngọc Ánh (2009). Túi nilon, biết hại... nhưng vẫn dùng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề môi trường gây ra bởi việc sử dụng túi nilon không phân hủy sinh học.doc