Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng mạnh vào xuất khẩu là
một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tạo đà cho nền kinh tế
phát triển và đuổi kịp thời đại. Trong đó xuất khẩu hàng mũi nhọn là một
bước đi tiên phong, khai thác triệt để lợi thế của đất nước. Đồng thời việc
hướng ra thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên cơ sở
khai thác lợi thế so sánh, vừa xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của nước
ta, vừa có thể nhận được sự “hưởng ứng và ủng hộ” của các nước phát triển
trong khuôn khổ không ảnh hưởng tới sự phát triển của các ngành kinh tế ở
các nước này.
75 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 3970 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhập khẩu, vì vậy rất bị động thường không đồng bộ
và bị hạn chế nhiều mặt về thời gian (nếu xuất sản phẩm quá 90 ngày thì phải
chịu thuế nhập khẩu). Giá gia công những năm gần đây không tăng, thậm chí
còn giảm. Chẳng hạn như giá gia công một áo sơ mi năm 1995 là 10 nghìn
đồng thì giảm xuống còn 5 nghìn đồng năm 1997; áo Jaket từ 80 nghìn đồng
xuống còn 30 nghìn đồng, thậm chí gia công lại chỉ còn 20 nghìn ...Năng suất
ngành may còn thấp (một công lao động ở ta chỉ làm được 10 áo sơ mi thấp
hơn 27 áo ở nước ngoài). ở đầu ra, đối với EU có đến một nửa thị trường tiêu
thụ bị khống chế bằng hạn ngajch. Hạn ngạch 2001-2003 với sơ loại sản
phẩm lên tới 54 nhóm so với 20 nhóm của các nước ASEAN khác. Thị trường
không hạn ngạch gần đây giảm như Nhật, thị trường Mỹ chưa sử dụng quy
chế tối huệ quốc nên vẫn chịu thuế suất cao. Đối với thị trường trong nước
cũng đang bị hàng nhập lậu trốn thuế cạnh tranh gay gắt.
Về mặt quản lý vĩ mô, một số chính sách hiện hành vẫn chưa thực sự tạo
điều kiện cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc, như hiện tượng thuế trùng
thuế, không cạnh tranh được với giá thành, giá bán trên thị trường. Chính phủ
chưa có ưu đãi về vốn vay hoặc miễn giảm thuế cho đầu tư phát triển ngành
Dệt-May nên các dự án đầu tư mới, vốn lớn không dám triển khai vì không
tính toán trả được lãi vay và vốn.
Vấn đề tỷ lệ xuất khẩu quy định tại giấy phép cũng cần có sự nhất trí chỉ
đạo trong các cơ quản lý Nhà nước sao cho công bằng và hợp lý.
51
Bên cạnh những khó khăn tồn tại, Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam cũng
phải đương đầu với không ít những thách thức mới.
Cùng với tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thực hiện viẹc cắt
giảm thuế quan CEPT của khối mậu dịch ASEAN (AFTA), đàm phán để gia
nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đặt ra những thời cơ và thách thức
lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó những cố gắng nỗ lực trong
việc điều hành hoạt động xuất nhập khẩu nói chung, xuất khẩu may nói riêng.
Hiện nay, hiệp định mới được ký kết với EU cho giai đoạn 2001-2003 có
tăng lên nhưng thực tế ngành may Việt Nam vẫn dư thừa từ 20-25% năng lực.
Trong khi tình hình kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc đang có những diễn biến
phức tạp với những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, do
vậy sức mua trong nước sẽ trì trệ, thậm chí giảm. Theo nguồn tin thương mại
Nhật Bản, nhập khẩu quần áo năm 2000 đã giảm 13% về sản lượng và 5% về
giá trị so với năm 1999. Năm 2001, nhập khẩu quần áo tiếp tục giảm xuống
còn 20% về số lượng. Trong số các thị trường xuất khẩu lớn nhất phi hạn
ngạch của Tổng Công ty thì Nhật bản là thị trường lớn nhất. Hiện tượng thị
trường xuất khẩu của Tổng Công ty bị trì trệ, cơ cấu cung cầu không cân đối
này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty,
đòi hỏi Tổng Công ty phải có biện pháp kịp thời để ổn định và thức đẩy sự
phát triển hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của mình.
Mặt khác, do cơn bão tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam á đã làm một
số nước phải phá gái hoặc thả nổi đồng tiền nước họ, do vậy cạnh tranh xuất
khẩu hàng may mặc vào EU, Mỹ sẽ rất ác liệt. Khi đầu tư, mở rộng sản xuất
Tổng Công ty cần thấy rõ để tính toán đầy đủ các yếu tố rủi ro nhằm đạt hiệu
quả cao nhất.
Hơn nữa, nước ta đã là thành viên đầy đủ của ASEAN và thực hiện các
điều khoản của hiệp định AFTA, tiến trình giảm thuế nhập khẩu là không thể
đảo ngược. Xu thế hội nhập thế giới ngày càng cao nên việc lựa chọn và định
hướng đầu tư đúng, có hiệu quả đang đặt ra rất bức thiết. Đón nhạn thời cơ
đồng thời dám chấp nhận thử thách, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần
phải có những bước đi và giải pháp phù hợp trong hoạt động xuất khẩu hàng
may mặc. Cạnh tranh gay gắt song không có nghĩa là không dám cạnh tranh,
52
đây là một bài toán khó đối với Tổng Công ty. Đặc biệt Tổng Công ty đang
phải đương đầu với những đối thủ trên sức mình trong lĩnh vực hàng may mặc
cả về thị trường trong và ngoài nước. Chẳng hạn như Trung Quốc, một nước
láng giềng của ta có hoạt động xuất khẩu hàng may mặc rất phát triển. Hàng
may mặc Trung Quốc tràn ngập trên thị trường Việt Nam với những ưu thế
hơn hẳn cả về chất lượng và giá cả. Năm 2000, hàng may mặc xuất khẩu
chiếm hơn 1/4 tổng xuất khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc đã mở rộng xuất
khẩu sang các thị trường Liên Xô cũ và các nước Châu Phi-đây vốn là những
thị trường dễ tính đối với hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam. Liệu Tổng
Công ty sẽ đối phó ra sao để cạnh tranh với một đối thủ tầm cỡ như vạy để có
thể duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của mình.
Với những thách thức đó, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần phải cân
nhắc và chuẩn bị thị trường xuất khẩu thật chu đáo mới có thể có cơ hội thắng
lợi trong cạnh tranh quốc tế.
53
2. Về mặt chủ quan
Tuy mới được thành lập, nhưng Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam đã
không ngừng vươn lên, khẳng định chỗ đứng của mình ở cả thị trường trong
nước và ngoài nước. Với một đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, am hiểu
thị trường đồng bộ và phối hợp chặt chẽ giữa khâu ở công đoạn từ giao dịch
đàm phán với khách hàng đến ký kết các điều khoản trong hợp đồng, bảo
đảm được chất lượng và tiến bộ giao hàng gắn với thời gian nhập khẩu
nguyên phụ liệu. Tổng Công ty lại có ưu thế về nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ
thuật đầy đủ, tiên tiến, qua đó tạo được thế ổn định trong kinh doanh. Tổng
Công ty rất có uy tín, được Nhà nước và Bộ thương mại tin cậy nên Tổng
Công ty luôn được ưu đãi trong việc ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng may
mặc. Mặt khác, do Tổng Công ty được Bộ gia cho làm hàng trả nợ và ký kết
được hợp đồng gia công nên kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc luôn ổn
định và ở mức cao. Hiện nay, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là Tổng Công
ty có giá trị xuất khẩu trong các Tổng Công ty trực thuộc Bộ công nghiệp
(56%) và cũng là một trong những Tổng Công ty có xuất siêu lớn nhất của
ngành công nghiệp.
Tổng Công ty cũng nhận biết thế mạnh của từng đơn vị trực thuộc, các
phòng ban, phân công nhiệm vụ cụ thể, nguồn hàng may mặc chất lượng cao,
đảm bảo hợp lý về sản lượng và giá cả. Với những đóng góp của ngành may
trong thời gian qua đã chứng minh cho khả năng phát triển mạnh mẽ của
ngành.
Đến nay, Tổng Công ty đã khẳng định được vị thế của mình bằng việc
phát triển với tốc độ nhanh, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn
lao động, tạo nguồn ngoại tệ cho đất nước, tham gia vào quá trình phân công
và hợp tác quốc tế, nhanh chóng hội nhập vào quốc tế và khu vực, từng bước
thiết lập nền công nghiệp chuyên ngành trên phạm vi toàn quốc. Những thành
tựu đạt được đó góp phần không nhỏ vào công việc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
54
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Tổng Công ty cũng còn có những
hạn chế như:
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với dệt, may
với may trong việc khai thác năng lực thiết bị và trong tiêu thụ sản phẩm (còn
có tình trạng cạnh tranh nội bộ , thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích riêng).
- Thị trường xuất khẩu còn dựa nhiều vào quato và hạn ngạch Nhà nước,
sức cạnh tranh hàng may mặc còn yếu nên thị trường nội địa không đủ sức
cạnh tranh với hàng nhập ngoại, hàng của các Công ty 100% vốn nước
ngoài.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao, còn nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ,
một số đơn vị chưa mạnh dạn đầu tư. Việc quản lý sản xuất, quản lý thiết bị.
Quản lý lldj, vệ sinh môi trường...còn nhiều việc phải củng cố lại. Chưa có sự
liên kết giữa các đơn vị thuộc Tổng Công ty với các ngành khác, với địa
phương dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm trong nước sản xuất ra đảm bảo
chất lượng nhưng vẫn còn nhập, quá trình cổ phần hoá triển khai còn chậm
chưa đạt được tiến độ như mong muốn...
Nhìn lại những năm qua, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh trong
điều kiện vô cùng khó khăn do ảnh hưởng còn thiên tai, hạn hán, bão lụt...đặc
biệt gần đây do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
khu vực, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam vẫn đảm bảo được nhịp độ tăng
trưởng khá, ổn định sản xuất, không ngừng đầu tư phát triển...tuy vậy vẫn còn
tồn tại một số hạn chế không thể tránh khỏi nhưng đay cũng là một thành tựu
đáng ghi nhận của toàn Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
55
CHƯƠNG III
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC Ở
TỔNG CÔNG TY DỆT - MAY VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI.
I. TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA TỔNG
CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI.
1. Mục tiêu và định hướng phát triển của Tổng Công ty:
1.1. Một số quan điểm cơ bản phát triển ngành công nghiệp dệt
may Việt Nam.
a/ Công nghiệp Dệt-May phải được ưu tiên phát triển và được coi là một
trong những ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở nước ta những năm tiếp theo:
Trong bốn năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt-may đều tăng và đã
vươn tới đứng thứ hai (sau dầu khí) trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
đất nước. Dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ vào khoảng 10% trong giai đoạn
1999-2003 và trên 10% giai đoạn 2003-2010. Đó là tỷ lệ tăng trưởng cao so
với nhiều ngành công nghiệp khác. Như vậy, trong những năm tiếp theo cảu
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành dệt may phải được ưu tiên
phát triển.
b/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng hiện đại và đa dạng về sản
phẩm.
Công nghiệp hiện đại ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn
vinh của một quốc gia, hay sức mạnh cạnh tranh kinh tế cảu một sản phẩm.
Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển và tham
gia vào quá trình phân công lao động quốc tế thông qua việc tăng cường năng
lực công nghệ quốc gia, tiếp cận và làm chủ công nghệ tiến tiến và công nghệ
cao.
56
Từ nhận thức đó, công nghiệp Dệt-May phảu được ưu tiên phát triển theo
hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm.
Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước nhu cầu
hàng tiêu dùng sẽ tăng lên nhưng không đơn giản tăng về số lượng các mặt
hàng cao cấp cũng tăng lên. Theo quy luật tiêu dùng thì khi thu hập tăng lên,
tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ giảm tương đối, còn tỷ lệ tiêu dùng cho các như cầu
khác cũng sẽ tăng lên trong đó có nhu cầu về may mặc. Như vậy, cũng với
việc tăng dan số và tăng thu nhập, trong những năm tới thị trường trong nước
sẽ là tiền đề phát triển cho công nghiệp sản xuất tiêu dùng nói chung và công
nghiệp Dệt-May nói riêng.
Đối với thị trường nước ngoài, để tiếp nhạn thành công có sự dịch chuyển
kinh tế từ các nước phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ xâm nhập vào
các thị trường quốc tế mới, ngành Dệt-May càng cần phải được trang bị lại
theo hướng hiện đại. Có như vậy mới có thể đáp ứng được đòi hỏi ngày càng
cao, càng đa dạng của thị trường trong và ngoài nước
Tất cả các yếu tố đó đòi hỏi bức xúc ngành phải có kế hoạch hiện đại hoá
từng bước, kết hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh chóng tiếp
thu công nghệ mới để giảm bớt khoảng cách tụt hậu.
c/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng kết hợp hướng về xuất
khẩu với thay thế nhập khẩu.
Hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó là
kinh nghiệm cuả nhiều nước công nghiệp mới (NICs) và ở nước ta cũng đã
được xác nhận. Đó là một chiến lược cơ bản của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong những điều kiện của thế giới ngày nay. Chúng ta phải tận
dụng các lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên để đẩy mạnh nhịp độ phát
triển của các ngành và sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, xem đây là mục tiêu
hàng đầu. Xuất khẩu càng nhiều, kinh tế phát triển càng nhanh, có hiệu quả và
bền vững, đồng thời càng có thêm khả năng thay thế hiệu quả, không mâu
thuẫn với hướng về xuất khẩu.
Ngành Dệt-May Việt Nam là một trong những ngành có khả năng làm
đuợc điều đó. Thực tế những năm qua cho thấy, chiến lược hướng về xuất
57
khẩu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may không ngừng tăng lên. Nhờ nguồn ngoại tệ thu được, ngành có điều kiện
phát triển tái đầu tư để hiện đại hoá, đẩy mạnh sản xuất.
Song song với xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các
mặt hàng thay thế nhập khẩu. Thị trường trong nước với số dân đông và sức
mua ngày càng lớn là đối tượng rất quan trọng mà công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May nói riêng phải đáp ứng cho
được các nhu cầu cơ bản, từ những sản phẩm dệt may bình thường, phù hợp
với đa số người dân lao động đến các sản phẩm cao cấp hơn phục vụ những
nhóm người có thu nhập cao. Để làm được điều này, vấn đề quyết định là
phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường trong
nước, thị trường khu vực và thế giới, trên cơ sở nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu qủa.
Trước mắt cần có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, những người làm
công tác nghiên cứu, lựa chọn ra những mặt hàng thích hợp đang được nhập
khẩu nhiều mà năng lực sản xuất và trình độ kỹ thuật, công nghệ của các
doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng. Sau đó, các doanh nghiệp
trong nước phối hợp với nhau tập trung vào sản xuất các mặt hàng này.
Hiện tại, các sản phẩm dệt may của ta bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản
phẩm nhập khẩu chủ yếu ở giá cả. Mặc dù chất lượng có kém hơn song do
thắng áp đảo về giá nên họ chiếm lĩnh được thị trường rộng lớn ở khu vực
nông thôn.
Đó là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất bằng nhiều cách để tiết
kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh được.
d/ Phát triển công nghiệp Dệt-May phải gắn liền với sự phát triển của
ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước
ta.
Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội từ nay đến năm 2003 và 2010
Đảng ta chỉ rõ, cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa
nền kinh tế mà trước hết là công nghiệp hóa nông thôn.
58
Như vậy, đối với tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công
nghiệp Dệt-May là ngành sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp
như bông, tơ tằm, trong chiến lược phát triển của mình cần xác định được
hướng phát triển là gắn với sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Trong suốt quá trình phát triển của mình, ngành công nghiệp Dệt-May
Việt Nam luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu. Hầu hết tất cả các
loại nguyên liệu đều phải nhập khẩu. Kể cả bông xơ là loại nguyên liệu mà ta
có thể cung cấp một phần. Tơ tằm tuy không phải nhập khẩu, nhưng nguồn tơ
sản xuất bị hạn chế cả về chất lượng lẫn số lượng nên giá trị xuất khẩu thấp.
Do vậy, muốn từng bước tiến tới sự phát triển ổn định, bền vững, ngành
Dệt-May phải tạo được cho mình một một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn
định.
Phát triển công nghiệp Dệt-May còn gắn liền với sự phát triển của một loạt
các ngành công nghiệp khác như hoá chất, hoá dầu để tạo ra các dạng nguyên
liệu tổng hợp, nhân tạo, các loại hoá chất, thuốc nhuộm... Công nghiệp cơ khí
chế tạo để sản xuất ra các loại máy móc từ đơn giản đến phức tạp cho ngành.
Ngoài ra còn kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất phụ liệu, bao bì.
Để làm được những vấn đề trên,điều đặc biệt có ý nghĩa quan trọng là phải
xây dựng được hệ thống các qui hoạch phát triển ngành và liên ngành, tạo ra
sự liên kết ngang chặt chẽ giữa ngành công nghiệp Dệt-May với các ngành
công nghiệp khác và nông nghiệp. Các qui hoạch này cần được phối hợp, bảo
đảm tính cân đối, ăn khớp giữa chúng với nhau. Đặc biệt đối với nông nghiệp,
thì phải có qui hoạch từ khâu sản xuất nguyên liệu, sơ chế đến tiêu thụ sản
phẩm.
Làm được như vậy, ta sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển của bản thân
ngành công nghiệp Dệt-May, đồng thời còn góp phần thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiều ngành khác.
1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển của Tổng Công ty Dệt-May
Việt Nam.
Ngành công nghiệp dệt may là ngành truyền thống lâu đời của nhân dân ta,
59
từ trồng bông, nuôi tằm đến ươm tơ dệt vải đã có những làng nghề từ xưa đến
nay. Nhiều mặt hàng dệt may đã có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước.
Kinh nghiệm của nhiều nước, thời kỳ đầu phát triển ngành dệt may làm
tiền đề phát triển các ngành kinh tế khác phù hợp với khả năng vốn đầu tư vừa
phải, vòng quay vốn nhanh, giải quyết nhiều lao động, góp phần tăng tích luỹ.
Với nền kinh tế Việt Nam, thời gian trước mắt và vài ba thập kỷ tới đẩy nhanh
phát triển ngành dệt may là đúng hướng và cần thiết.
Nhận thức rõ được vai trò của mình Tổng Công ty dệt-May Việt Nam
đang đặt ra cho mình những mục tiêu phấn đấu lớn như: đảm bảo nhu cầu của
hơn 100 triệu dân vào năm 2010 với mức tiêu thụ 3,6 kg vải/ người và nhu
cầu an ninh quốc phòng; phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân 13% năm,
sau năm 2005 có mức tăng trưởng trên mức tiên tiến trong khu vực, tương
đương với Hongkong, Thái Lan hiện nay...
Để thực hiện được những mục tiêu trên Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam
đang từng bước định hướng phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình mà đặc biệt là hàng may mặc. Các xí nghiệp may được phân bố
rộng rãi trên các địa phương tại các thị trấn, thị xã, thành phố để phục vụ nhân
dân địa phương, đáp ứng yêu cầu phong tục tập quán địa phương. Các công
trình may xuất khẩu thì trọng tâm vào 3 vùng phát triển ngành Dệt, ưu tiên
thuận tiện giao thông đến các cảng. Đầu tư những năm tới tập trung vào
những mặt hàng cao cấp như: mặt hàng sợi bông 100% cho thị trường Mỹ,
EU...và nội địa; hàng len và giả len cho thị trường EU, Mỹ, Đông âu...
Đầu tư chiều sâu là đầu tư bổ sung để cân đối lại dây chuyền cho đồng bộ,
bổ sung thiết bị lẻ hoặc loại trừ các máy cũ trong dây chuyền đã quá lạc hậu,
cải tạo nâng cấp một số trang bị, đổi mới công nghệ nhằm tăng chất lượng,
mở rộng mặt hàng, khắc phục ô nhiễm môi trường đồng thời tăng sản lượng
giảm chi phí sản xuất.
Thời kỳ 200-2005 là thời kỳ năng cao chất lượng và giá trị sản phẩm,
phong phú mặt hàng, tăng sản lượng, đặc biệt tăng sản lượng vải may cho
xuất khẩu, giảm gia công, tăng hàng may bán đứt (FOB). Mặt khác, Tổng
Công ty cũng lựa chọn, từng bước mở rộng thêm các mặt hàng mà ta có khả
năng vươn lên đỉnh cao và chiếm ưu thế trên thị trường như: vải tơ tằm, tơ
60
phế, tissulen, vải PE, PE Microfilament, dệt kim tơ tằm, dệt kim cotton OE,
chỉ khâu cotton, PE/Co, bít tất...
Thời kỳ 2005-2010 là giai đoạn đầu tư chiều sâu tổng thể, tập trung đầu tư
phần mềm, trọng tâm là tổ chức theo I S O 9000 nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, mở rộng mặt hàng mới, đa dạng hoá mặt hàng. Chuẩn bị tốt
trước khi hội nhập hoàn toàn vào AFTA và WTO ,tạo cơ hội cho hàng may
mặc của tổng công thuốc thú y có cơ hội đứng vững và phát triển không bị
nước ngoài lấn át.
2. Những thời cơ và thách thức đang đặt ra.
Năm 2001 là năm có nhiều khó khăn, nhưng dự báo năm 2002 vẫn chưa có
dấu hiệu tốt hơn. Cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực đang tiếp tục lan
rộng đến các khu vực khác như Nhật Bản, đặc biệt cuộc khủng hoảng đã làm
cho tính cạnh tranh vốn có trong cơ chế thị trường càng thêm quyết liệt, sức
mua giảm sút, giá gia công và giá bán sản phẩm giảm. Thị trường hàng free
quota trong năm 2002 tiếp tục thu hẹp, trong khi đó khả năng các thị trường
Nga và Mỹ vẫn chưa được khaiong. Thị trường trong nước do thời tiết mưa
bão lanm cho người dân các vùng miền Trung và miền Nam bị thiệt hại nhiều
nên sức mua cũng sẽ giảm sút. Các biện pháp chống hàng nhập lậu, hàng trốn
thuế, hàng giả chưa có dấu hiệu sẽ đạt được kết quả khả quan...
Bên cạnh những thách thức trên Tổng Công ty cũng đang đứng trước
nhiều thời cơ lớn như: Việt Nam đã được trỏ thành thành viên chính thức của
các bnước ASEAN, AFTA... Việt Nam có quyền ký hiệp định song phương
đối với các nước khác trong khu vực, đặc biệt các nước ASSEAN đang có xu
hướng giảm thuế xuất khẩu hàng Dệt-May đối với các nước ASEAN xuống
còn từ 0-5%. Hơn nữa, theo hiệp định hàng dệt (ATC) ký tại vòng đàm phán
thương mại đa biên tháng 4-1997 ở Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho
hiệp định đa sợi (MFA) đến ngày 1-1-2005 tất cả hàng dệt may phải được hoà
nhập trở lại theo nguyên tắc thương mại thông thường của WTO và như vậy
hàng rào hạn ngạch hàng may vào Mỹ sẽ được loại bỏ và thuế trung bình sẽ
giảm 9%. Đây là một thời cơ lơn mà Tổng Công ty Dệt-May cần phải chuẩn
bị đầu tư đón trước thời cơ để có thể đi vào thị trường đầy tiềm năng này.
61
II. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ PHÍA TỔNG CÔNG TY
DỆT-MAY VIỆT NAM.
Qua phân tích thực trạng xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-
May Việt Nam, đồng thời có tham khảo bài học kinh nghiệm của một số
nước, có thể thấy rằng đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tông Công ty là
một vấn đề rất quan trọng góp phần thực hiện thành công quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và phát triển kinh tế. Phát triển xuất khẩu ở
đây có nghĩa là làm sao để thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tận
dụng được nhiều nhất các lợi thế so sánh của đất nước, tăng số lượng và chất
lượng từng mặt hàng xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ và nâng cao hiệu quả xuất
khẩu.
Xét trên góc độ thương mại, thúc đẩy xuất khẩu là thúc đẩy bán hàng nên
nguyên lý chung là mở rộng thị trường xuất khẩu và thực hiện tốt việc tạo
nguồn hàng, giảm chi phí. Trên cơ sở thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng
may mặc ở Tổng Công ty và cũng theo hướng trên, tôi xin đưa ra một số biện
pháp sau:
1. ĐA DẠNG HOÁ MẶT HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG
1.1. MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ.
Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đó là
nhân tố quyết định sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Mở rộng thị
trường xuất khẩu, khách hàng của hàng xuất khẩu còn làm tăng tính cạnh
tranh của khách hàng, tăng khả năng lựa chọn của doanh nghiệp, từ đó tăng
được hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Bởi vì, mở rộng thị trường, khách
hàng, tức là tăng cầu, mà cầu tăng sẽ kéo theo cung tăng lên và giá cũng tăng
lên.
Theo qui luật của nền sản xuất hàng hoá, không còn tồn tại khái niệm tính
toán áp đặt một nhu cầu để bố trí sản xuất, mà cần nắm bắt được diễn biến của
thị trường đểt phát triển sản xuất theo qui luật khách quan của nó. Phương
châm của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là: Hướng ra xuất khẩu và coi
trọng thị trường nội địa-nên phải hoà mình vào thị trường may mặc thế giới
và khu vực để đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển và khi hiệp định AFTA có
62
hiệu lực thì hàng may mặc vẫn đủ sức cạnh tranh ngay tại thị trường trong
nước và có sức vươn lên hơn nữa.
Do đó, phát triển thị trường may mặc thực sự là một yêu cầu cấp thiết hiện
nay cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để giải quyết vấn đề này Tổng Công ty
cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là: Uy tín sản phẩm.
Việc tạo được uy tín cho một loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường quốc tế
là cực kỳ khó khăn. Nó bao gồm từ mẫu mã, chủng loại, kiểu cách đến chất
lượng sản phẩm.
Đối với Tổng Công ty Dệt-May, hiện tại việc thực hiện xuất khẩu sản
phẩm được thực hiện dưới hai hình thức: gia công xuất khẩu và mua nguyên
liệu bán sản phẩm. Việc xuất khẩu theo hình thức gia công đã góp phần quan
trọng vào giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, song hiệu quả thấp.
Tuy vậy, ở giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều phải trải qua
hình thức này. Đây cũng là cơ hội để Tổng Công ty tập dượt, làm quen với
cách thức làm ăn trên thị trường quốc tế, từ việc tiếp nhận nguyên phụ liệu gia
công sản xuất đến tiến độ giao hàng ... để tiến đến hình thức xuất khẩu sản
phẩm cao hơn: mua nguyên liệu, bán sản phẩm.
Để đạt được việc xuất khẩu sản phẩm theo hình thức này, Tổng Công ty
cần phải huy động một lực lượng tổng lực từ điều tra nhu cầu thị trường nước
ngoài để tạo ra các mẫu mốt ăn khách, hợp thị hiếu, đến tổ chức sản xuất đúng
với tiến độ tiêu dùng của thị trường mà sản phẩm cần tới. Làm được điều này,
ngoài việc giải quyết lao động như hình thức trên, nó còn gòp phần thúc đẩy
bản thân ngành Dệt (cung cấp các loại vải cho may mặc) và nhiều ngành công
nghiệp khác phát triển. Đồng thời hiệu quả về thu ngoại tệ cũng tăng lên
nhiều.
Hai là: Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của
họ nâng uy tín hàng may mặc Việt Nam, đồng thời đưa hàng xuất khẩu Việt
Nam vào các kênh tiêu thụ hợp lý (trên cơ sở kinh nghiệm từ kiến thức của
nhà phân phối ) qua đó xâm nhập và chiếm lĩnh được thị trường.
Ba là: Đặt những đại diện, các cửa hàng chào bán các sản phẩm may mặc
63
của Tổng Công ty tại các thị trường lớn ở nước ngoài. Lập kho hàng ở các
cảng lớn để giao nhận hàng kịp thời.
Bốn là: Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc Việt
kiều để làm cơ sở đẩy mạnh hàng xuất khẩu may mặc ra thị trường thế giới.
Một điều đáng chú ý ở đây là tiềm năng của Việt kiều và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài: có nhiều người là các ông chủ lớn với các doanh
nghiệp sở tại, như ở Nga và một số nước Trung Đông. Đây là một thị trường
không nhỏ cho hàng may mặc của Tổng Công ty.
Năm là: Đẩy mạnh hoạt động mốt, đào tạo đội ngũ tiếp thị, tăng cường các
hoạt động quảng cáo, khuyến mãi, tuyên truyền nhằm bán trước sản phẩm.
Các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng tạo điều kiện thuận
lợi cho người mua nhằm thắng được đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Sớm hoà nhập vào thị trường quốc tế và khu vực bằng đầu tư phát triển và tổ
chức lại hoạt động xuất khẩu hàng may mặc theo cơ chế thị trường, theo hệ
thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9000, bằng tiếp thị, hội thảo, hội trợ,
triển lãm, gia nhập các hiệp hội Dệt-May quốc tế và khu vực, giao lưu với
thời trang thế giới.
Để hỗ trợ đảm bảo cho hoạt động trên đem lại kết quả mong muốn thì
trước tiên doanh nghiệp phải tự bảo đảm được chất lượng, qui cách chủng loại
của sản phẩm, phù hợp với "thượng đế ngoại".
Một thị trường vừa hé mở nhưng rất có triển vọng đối với Tổng Công ty
đó là thị trường Mỹ và đằng sau đó là khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA:
Mỹ-Canada-Mehico). Trong ba năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng may
mặc của Tổng Công ty sang Mỹ không ngừng tăng lên. Tuy hiện tại giá trị
xuất khẩu có nhỏ hơn EU, song đây là một thị trường rất hấp dẫn nếu biết
khai thác sẽ đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, Tổng Công ty cần chú trọng
hơn nữa tới một số thị truờng truyền thống như Nhật Bản, SNG và một số
nước Đông Âu...
Tăng cường tìm kiếm các thị trường không hạn ngạch và có chính sách sản
phẩm đối với từng thị trường. Việc đề ra chính sách sản phẩm đúng đắn đối
với từng thị trường có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm,
đến chi phí, giá thành và lợi nhuận của Tổng Công ty.
64
Chính sách sản phẩm đúng đắn sẽ làm tăng khả năng xâm nhập, chiếm lĩnh
thị trường và tăng lợi nhuận của Tổng Công ty.
1.2. MỞ RỘNG NĂNG LỰC SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU VÀ GIẢM
CHI PHÍ.
Dễ thấy rằng việc mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ không có ý nghĩa nếu
như không tăng năng lực sản xuất trong nước. Vì theo một nguyên lý trong
kinh doanh thương mại là nếu như khi khách hàng tới mà không có hàng cho
khách thì ta sẽ mất khách vĩnh viễn. Đây là hai mặt của một vấn đề: nếu như
không có đủ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu khách hàng thì sẽ không cần và
không thể mở rộng được thị trường xuất khẩu, cho nên mở rộng thị trường
xuất khẩu phải gắn với việc tăng năng lực sản xuất trong nước, còn để xuất
khẩu có hiệu quả thì phải giảm được chi phí của hàng xuất khẩu.
Hơn nữa, sản xuất và xuất khẩu ở nước ta còn mang tính chất manh mún
cho nên phải chấp nhận giá thị trường quốc tế. Trong điều kiện đó, để tăng
kim ngạch xuất khẩu yêu cầu trước tiên là phải tăng được lượng hàng xuất
khẩu, tức là phải tăng năng lực sản xuất, có như vậy Tổng Công ty mới có thể
vươn lên chiếm lĩnh, chi phối một thị trường nào đó.
Tóm lại, tăng năng lực, giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu là điều không
thể thiếu được khi muốn mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu. Để
làm được điều này, Tổng Công ty cần áp dụng các biện pháp sau:
*. Chuyển từ hình thức gia công xuất khẩu sang hình thức mua nguyên
liệu bán thành phẩm.
Hình thức xuất khẩu này có hiệu quả hơn từ 4-5 lần. Chẳng hạn, tính theo
đơn vị qui chuẩn áo sơ mi thì với 840 triệu sản phẩm xuất khẩu theo hình thức
gia công sẽ thu khoảng 600 triệu USD, còn theo giá bán 3.4 USD/1SP thì kim
ngạch xuất khẩu sẽ là 3 tỷ USD, tức là tăng 5 lần. Chú ý rằng, để chuyển đổi
hình thức này đòi hỏi người quản lý phải am hiểu, tránh tình trạng mua
nguyên liệu lúc đắt bán thành phẩm lúc rẻ.
2. Giải pháp đầu tư hiện đại hoá công nghệ - mẫu mã hàng may.
Thực trạng rõ nét đối với hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công
ty là chủ yếu xuất khẩu dưới hình thức gia công (chiếm 80%). Do vậy, hiệu
65
quả đem lại không cao. Nguyên nhân chủ yếu là do ngành Dệt ở nước ta chưa
phát triển, công nghệ lạc hậu và không đồng bộ, thiết bị kĩ thuật chậm so với
Trung Quốc, Thái Lan khoảng 5-7 năm, hàng năm sản xuất mới đạt 50-60%
năng lực. Do vậy, chất lượng và số lượng vải trong nuớc kém, không đạt tiêu
chuẩn quốc tế.
Như trên đã phân tích, để nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hàng
may mặc, Tổng Công ty cần giảm dần hình thức gia công xuất khẩu và đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu theo phương thức FOB.
Do vậy, giải pháp cần thiết ở đây là phải đầu tư phát triển ngành dệt để
phát triển ngành may, bao gồm cả đâù tư chiều sâu và đầu tư các công trình
mới, nâng cao trình độ công nghệ phát triển sản xuất đồng bộ.
Đầu tư chiều sâu bao gồm cả đầu tư mở rộng là một yêu cầu cấp thiết để
có nhiều mặt hàng thị trường trong và ngoài nước có nhu cầu, mặt hàng đạt
chất lượng cao, giá thành hạ, có vải cho ngành may xuất khẩu theo phương
thức FOB, chiếm lĩnh lại thị trường nội địa và hoà nhập vào thị trường may
ASEAN khi hiệp định AFTA có hiệu lực.
Tổng Công ty cần tăng vốn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ hiện đại, đặc biệt ưu tiên các công nghệ tiên tiến cho
ngành dệt nhằm tăng nhanh các loại vải đủ tiêu chuẩn cho ngành may xuất
khẩu. Đầu tư chiều sâu nhằm khắc phục các mất cân đối, đồng bộ hoá các dây
chuyền thiết bị, bổ sung mới, cải tạo nâng cấp thiết bị cũ, đầu tư công nghệ
mới, đào tạo nâng cao kỹ thuật quản lý tiếp thị, tổ chức lại sản xuất... để tăng
một số mặt hàng chủ lực, có uy tín về nhãn hiệu hàng hoá, có giá cạnh tranh ở
cả thị trường trong và ngoài nước.
Các dự án đầu tư chiều sâu phải có bước đi phù hợp với tình hình kinh tế,
kỹ thuật, với chiến lược phát triển của Tổng Công ty. Dù là bổ sung một máy,
một dây chuyền công nghệ... đều phải đảm bảo đồng bộ với công nghệ phụ
trợ, đào tạo, quản lý ... nhằm phát huy hiệu quả kinh tế sớm nhất. Song tìm
giải pháp để tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển là một vấn đề quan trọng và
cấp thiết, có tính quyết định tới tốc độ phát triển. Ngân sách Nhà nước thì hạn
chế, nhiều công trình hạ tầng y tế và giáo dục Nhà nước phải ưu tiên. Bước
đầu công nghiệp hoá của các nước nghèo Châu Á vẫn phải dựa vào vốn đầu
66
tư nước ngoài để phát triển. Do vậy, với phương châm thực tế trong hoàn
cảnh Việt Nam hiện nay, Tổng Công ty cần nhanh chóng đưa Công ty tài
chính đi vào hoạt động. Nhiệm vụ của Công ty tài chính là huy động vốn
(phát hành trái phiếu vay từ các nguồn tín dụng trong và ngoài nước ...) để
cho vay (các dự án đầu tư) và thực hiện một số dịch vụ tài chính khác.
Bên cạnh đó, Tổng Công ty cần đầu tư phát triển sản xuất phụ liệu, nguyên
liệu mà trong nuớc có điều kiện. Đây là chất xúc tác để chuyển đổi hình thức
gia công xuất khẩu sang hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. Vì theo
hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, Tổng Công ty có thể tận dụng
được những nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong nước, giá cả rẻ hơn làm tăng
thêm lợi nhuận. Đồng thời thu hút thêm lao động, tạo thu nhập góp phần giải
quyết thất nghiệp. Mặt khác, hình thức xuất khẩu này còn vừa tạo đầu ra cho
ngành dệt vừa tạo đầu vào cho ngành may.
Đặc biệt trong lĩnh vực mốt, Tổng Công ty còn có nhiều bỡ ngỡ, chưa có
đủ hiểu biết về yêu cầu thị hiếu của từng thị trường EU, Mỹ, Nhật... nên sớm
đầu tư thích đáng về cơ sở tạo mốt và nâng cao nghiệp vụ tạo mốt, sử dụng
các thiết bị chuyên dùng computer, điện tử trong thiết kế cắt may, có kế hoạch
hợp tác với viện Mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt người nước ngoài để
rút ngắn quá trình thâm nhập và đẩy nhanh sản phẩm của ta tới các thị trường
rộng lớn đó.
* Nâng cao chất lượng mặt hàng.
Với mục tiêu sản xuất các mặt hàng có chất lượng, mẫu mã phong phú
đẹp, hợp thời trang, hạ giá thành, tăng dần vải dệt cho ngành may xuất khẩu
theo FOB đạt 70% vào năm 2010. Tổng Công ty cần xây dựng được qui chế
quản lý chất lượng mặt hàng, xây dựng các hoạt động bảo đảm chất lượng và
hoạt động quản lý, hoạch định chất lượng.
Ngoài ra, Tổng Công ty cũng cần xây dựng chiến lược nâng cao chất
lượng không ngừng và tăng cường trách nhiệm xét duyệt chính sách về quản
lý chính sách chất lượng. Triển khai xây dựng hệ thống chất lượng ISO 9000
và TMQ. Điều này đòi hỏi công sức trí tuệ, thời gian đầu tư đổi mới mạnh
mẽ, và quyết tâm của lãnh đạo Tổng Công ty mới có thể đạt được.
67
3. Nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất khẩu.sử dụng có hiệu quả nguồn lực.
Thị trường may thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may mặc biến động
theo mùa. Hơn nữa, tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở
các thị trường khác nhau có sự khác nhau. Do vậy, đòi hỏi người làm công tác
xuất nhập khẩu phải hết sức linh hoạt tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi
ngoại ngữ và phải hiểu biết chuyên môn về ngành may.
Tổng Công ty cần có chiến lược đào tạo lại cả cán bộ quản lý và nhân viên
một cách thường xuyên, có hệ thống về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
ngoại ngữ... phải được nâng lên nhanh chóng và tương xứng. Qui mô đào tạo
và loại hình đào tạo cần được mở rộng để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của
hoạt đông xuất nhập khẩu. Mặt khác, hàng năm Tổng Công ty nên tổ chức các
đợt học nâng cao bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho nhân
viên. Đây là một mắt xích quan trọng trong công tác đào tạo. Nếu không được
chú ý thích đáng sẽ làm hao mòn vô hình đội ngũ đã được đào tạo. Cần tổ
chức theo các hình thức: theo chuyên đề, chương trình nâng cao, tu nghiệp ở
nước ngoài... theo một chương trình kế hoạch thường niên.
Bên cạnh đó, Tổng Công ty cũng cần có những khuyến khích về mặt lợi
ích thoả đáng cho người theo học các chương trình trên, để họ yên tâm, dốc
lòng, dốc sức cho công việc. Qua đó, giúp cho họ hiểu rõ, nắm chắc, sâu sắc
các nghiệp vụ xuất nhập khẩu khơi dậy tính tích cực sáng tạo của mỗi cán bộ
công nhân viên. Đây thực sự là cách đầu tư lâu dài tạo ra động lực mạnh thúc
đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty.
4. GIẢI PHÁP VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ.
Hoà nhập với khu vực và quốc tế là một nhu cầu khách quan, là lợi ích
sống còn của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, buộc Tổng Công ty phải tự
thân phát triển, nâng cao vươn cao lên tương xứng, đồng thời sự hội nhập còn
tạo sự hiểu biết lẫn nhau và tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư cao hơn.
Với đường lối mở cửa và hoà nhập vào thị trường thế giới nói chung và
các nước khu vực nói riêng, cùng với sự chuyển dịch công nghệ đang sôi
động, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần nhanh chóng đẩy mạnh công tác
đầu tư, tự tổ chức lại sản xuất cho phù hợp những yêu cầu của cơ chế thị
68
trường, phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 va nhãn hiệu
hàng hoá CE. Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, hiện đã là hội viên chính
thức của hiệp hội Dệt-May Đông Nam Á (AFTEX) cần nhanh chóng gia nhập
vào hiệp hội Dệt-May thế giới, trực tiếp tham gia vào quá trình phân công
hợp tác chung về lĩnh vực lao động, mậu dịch và các chính sách bảo hộ quốc
tế và khu vực, tham gia các hoạt động quốc tế về mẫu mốt thời trang, về hội
thảo, triển lãm, tiếp thị... nhằm không ngừng mở rộng uy tín của mình trên thị
trường quốc tế.
Mặt khác, xu hướng thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ với ba làn sóng tự
do hoá, tư nhân hoá và phi tập trung hoá. Tổng Công ty cũng cần nắm bắt
được vận hội thời cơ để có thể có sự chuyển mình theo trào lưu chung.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHÍNH PHỦ .
1. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ LÀM TIỀN ĐỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ.
Quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau.
Chúng vừa là tiền đề vừa là điều kiện phát triển của nhau. Quan hệ chính trị
mở đường cho quan hệ kinh tế phát triển, ngược lại quan hệ kinh tế làm cho
quan hệ chính trị trở nên gắn bó chặt chẽ hơn.
Tác động của quan hệ chính trị lên quan hệ kinh tế thể hiện trên các mặt:
- Quan hệ chính trị tốt tạo đà cho việc hợp tác, tương trợ lẫn
nhau về đầu tư, viện trợ, chuyển giao công nghệ.
- Quan hệ chính trị là tiền đề cho Nhà nước kí kết các hiệp định
về thương mại, về thông tin, về đầu tư, về cấp phát hạn ngạch (quota).
- Quan hệ chính trị là cơ sở pháp lý đảm bảo cho các doanh
nghiệp hai bên tiến hành làm ăn với nhau. Tạo điều kiện thuận lợi trong
việc thanh toán, giải quyết thông tin tranh chấp.
- Quan hệ chính trị làm tăng lợi thế cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước.
Như vậy, về mặt mở rộng thị trường, quan hệ chính trị tốt sẽ tạo được thị
trường ổn định, thị trường mới cho phát triển sản xuất và xuất khẩu. Điển
69
hình là việc Mỹ xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam tháng 2/1997 thì ngay sau
đó, các quan hệ kinh tế đối ngoại Việt nam sôi động hẳn lên. Nhiều hãng,
Công ty... tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, trong đó có Công ty Mỹ
sang Việt Nam, kí một hợp đồng đáng ghi nhớ với Confechnex trị giá 350
triệu USD ( kinh tế đối ngoại - Võ Thanh Thu - tr 306).
Quan hệ thương mại như chúng ta đều biết, chỉ là một bộ phận của kinh tế
đối ngoại. Song nó là một trong các bộ phận thu ngoại tệ về cho đất nước. Đối
với các nước mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, vốn là yêu
cầu đầu tiên và tất yếu. Do vậy, thông qua hoạt động ngoại thương, nhiều
nước đã tham gia được vào sự phân công lao đông quốc tế trên phạm vi toàn
cầu và trong khu vực. Và chính sự tham gia đó đã bảo đảm cho sự phát triển
cân đối của nền kinh tế quốc dân và thu được ngoại tệ về cho đất nước.
Sự phát triển ngoại thương của ngành Dệt-May cũng không thoát khỏi ảnh
hưởng của quan hệ chính trị .
Từ sự phân tích trên, các chính sách cần có là:
+ Nhà nước tích cực tham gia vào các diễn đàn quốc tế và khu
vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên WTO.
+ Quan hệ tốt với các thị trường lớn như EU, Bắc Mỹ, tạo được
khuôn khổ pháp lý tốt với các thị trường này để sản xuất hàng may mặc
được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn ngạch, tối huệ quốc... và có
điều kiện xuất khẩu với số lượng lớn vào các thị trường này.
+ Thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ về công nghiệp để các sản phẩm có chất lượng cao của Việt
Nam giữ được uy tín trên thị trường.
+ Có qui chế phù hợp (bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi) về
hoạt động của các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán Việt Nam ở
các nước, trong viẹc cung cấp các thông tin về lĩnh vực may mặc và giúp
Tổng Công ty mở rộng thị trường ở các khu vực này. Điều này sẽ tiết
kiệm cho Tổng Công ty những chi phí về thu thập thông tin, những chi
phí không cần thiết khác do chưa hiểu kĩ thị trường, qui định, giảm rủi
ro cho Tổng Công ty ...Suy cho cùng, đây là một hình thức trợ giúp xuất
khẩu, khuyến khích bảo đảm cho hoạt động xuất khẩu, mặt khác các cơ
70
quan thương vụ này cũng đóng vai trò là điểm tựa cho hàng xuất khẩu
Việt Nam xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường.
2. CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa các hình thức đầu tư trực tiếp của nước
ngoài vào ngành Dệt-May. Đối với ngành Dệt là ngành đòi hỏi vốn đầu tư
lớn, đặc biệt là các công trình nhuộm, hoàn tất. Vì vậy cần chú trọng khuyến
khích gọi vốn đầu tư nước ngoài cho những công trình này. Có những ưu đãi
đặc biệt cho những công trình nước ngoài đầu tư 100%.
Ngược lại đối với ngành May và ngành sản xuất các loại phụ liệu, vốn đầu
tư không lớn, cần chú trọng hình thức liên doanh, hạn chế xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài.
Từ khi có luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tính đến tháng 12/1999 đã
có 58 dự án Dệt-May được cấp giấy phép hoạt động, với số vốn gần một tỷ
USD. Để có được 1,5 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt-May vào
năm 2003, trong vòng 10 năm tới Nhà nước cần bổ sung điều chỉnh luật đầu
tư nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới, cải cách điều chỉnh nhằm đơn
giản hoá các thủ tục xin giấy phép đầu tư, có các điều kiện ưu đãi đối với các
công trình đầu tư vào ngành dệt.
3. CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI VỀ XUẤT KHẨU.
Nhà nước cần có các chính sách tạo điều kiện cho Tổng Công ty đủ sức
cạnh tranh trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá:
- Cho tiếp tục áp dụng thuế suất hàng dệt may bằng 0% để thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc.
- Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu trên cơ sở khai thác, phát huy
hiệu quả, nội lực của đất nước, Bộ tài chính cần xem xét lại mức thuế
nhập khẩu của các mặt hàng trong nước đã bắt đầu sản xuất được, trong
đó có sợi, vải để đảm bảo sản xuất ttrong nước tránh tình trạng giá
thành sản xuất của sản phẩm lại lớn hơn giá nhập khẩu, làm giảm sức
cạnh tranh của hàng hoá ta trên thị trường nước ngoài. Nhà nước cần
miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất các chủng loại sản phẩm
(mặt hàng dệt, phụ liệu may...) thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ
71
xuất khẩu, tạo điều kiện cho Tổng Công ty có thể bán ngang hoặc thấp
hơn giá nhập sản phẩm cùng chủng loại và tạo cho hàng may mặc xuất
khẩu được theo phương thức FOB.
- Bên cạnh đó, Nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp khác
như cấp tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu.... nhằm giúp Tổng Công
ty giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập, lợi nhuận đẩy
mạnh được hoạt động xuất khẩu. Thực tế mấy năm qua, Nhà nước vẫn
chưa thực sự chú trọng tới hoạt động hàng may mặc. Một thực trạng
trong ngành may xuất khẩu đó là: dù biết rằng gia công may không hiệu
quả bằng hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, Tổng Công ty
phải vay vốn mua nguyên liệu đầu vào, rồi sau một chu kì sản xuất (3-4
tháng) mới bán sản phẩm thu tiền lãi trả ngân hàng. Do không có ưu
đãi về lãi suất nên sau khi trừ đi chi phí sản xuất và lãi ngân hàng, hiệu
quả thu được không cao hơn hình thức gia công là bao nhiêu, lại chịu
nhiều rủi ro. Trong khi đó, hình thức gia công tuy hiệu quả thấp nhưng
chắc chắn. Như vậy Nhà nước và xã hội bị thiệt vì đơn cử một ví dụ là:
theo hình thức gia công thì giá gia công một áo sơ mi khoảng 0,7-0,8
USD, gấp gần 5 lần. Do vậy, đòi hỏi Nhà nước phải nhanh chóng áp
dụng một cách hợp lý các biện pháp trên để khuyến khích hoạt động xuất
khẩu hàng may mặc đem lại hiệu quả cao.
4. CHÍNH SÁCH VỀ VỐN.
Nhà nước cần bảo đảm cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các
doanh nghiệp của ngành dệt may một cách hợp lý. Có cơ chế vay và bảo lãnh
vốn vay một cách hợp lý.
Cho ngành dệt được sử dụng hoặc vay vốn ODA, vốn tín dụng của
Chính phủ với lãi suất ưu đãi (khoảng 5%), thời gian vay dài (trên 10 năm đối
với ngành dệt và 7 năm đối với ngành may).
Miễn các loại thuế doanh thu, lợi tức cho các công trình đầu tư ngành dệt
may trong thời gian chưa trả nợ xong.
Ngoài ra, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ cùng với Tổng Công ty
đưa Công ty Tài chính dệt may sớm đi vào hoạt động để huy động vốn từ các
72
nguồn vay trong nước, ngoài nước, trái phiếu, cổ phiếu... nhằm cho vay đầu
tư phát triển.
5. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI.
Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay được sử dụng như một công cụ lợi hại
trong cuộc chiến tranh thương mại gay gắt giữa các nước công nghiệp phát
triển và là một trong những công cụ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu, bảo hộ mậu dịch của các nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới không ngừng phát
triển và thị trường tiền tệ thế giới đầy biến động thì việc lựa chọn một chính
sách tỷ giá hối đoái hợp lý đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế đối nội và
tăng trưởng trong kinh tế đối ngoại là hết sức cần thiết.
Đối với ngành Dệt-May, việc điều hành tỷ giá ngoại tệ có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Nhà nước cần áp dụng tỷ giá hối đoái hợp lý để đảm bảo xuất
khẩu có lãi và khuyến khích xuất khẩu. Tất nhiên tỷ giá đó không được thoát
ly quá nhiều so với tương quan cung cầu về ngoại tệ. Đồng thời Nhà nước
phải luôn chú trọng đầy đủ các yếu tố kích thích xuất khẩu khi ấn định tỷ giá.
Đây là những quyết định chủ quan nhưng rất cần thiết vì không đẩy mạnh
được xuất khẩu để tạo nguồn ngoại tệ tự có, chúng ta sẽ không đủ ngoại tệ để
cân đối cán cân thanh toán quốc tế.
6. TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÁC KHÂU NGHIỆP VỤ XUẤT KHẨU.
Tổ chức và quản lý hợp lý các khâu thuộc nghiệp vụ xuất khẩu như cấp
giấy phép, phân bổ quota, thủ tục hải quan... cũng có tác dụng thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói rỉêng. Thực tế việc
phân bổ hạn ngạch trong xuất khẩu hàng may mặc không hợp lý, thủ tục hải
quan còn nhiều phức tạp... làm hạn chế khả năng xuất khẩu mặt hàng này.
Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần sớm ban hành luật hải quan cho
phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Các
ngành hữu quan nghiên cứu để ban hành biểu phân loại mã số hàng xuất khẩu
(biểu mã số HS) phù hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong xu
thế hợp tác và hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Nên có sự thống nhất từ cơ
quan quản lý trong việc ghi mã số HS trước tên hàng trong các hồ sơ chứng từ
73
có liên quan để tạo ra một sự đồng nhất trong việc xác định loại hàng hoá làm
cơ sở cho việc khai báo, tính và nộp thuế, việc quản lý gia công cho nước
ngoài...
Về quản lý xuất khẩu tiểu ngạch: Đánh thuế, phí xuất khẩu tiểu ngạch sao
cho giá xuất khẩu tiểu ngạch tương đương với giá xuất khẩu chính ngạch vừa
quản lý chặt chẽ được xuất khẩu tiểu ngạch, vừa tăng thu cho ngân sách Nhà
nước.
Thực hiện các vấn đề trên sẽ giúp cho Tổng Công ty chủ động trong giao
dịch, kinh doanh xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh công bằng và đẩy mạnh được
hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lên
vị trí hàng đầu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Giữ vững và phát huy truyền
thống của Tổng Công ty trong những năm qua.
74
IV. KẾT LUẬN
Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng mạnh vào xuất khẩu là
một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tạo đà cho nền kinh tế
phát triển và đuổi kịp thời đại. Trong đó xuất khẩu hàng mũi nhọn là một
bước đi tiên phong, khai thác triệt để lợi thế của đất nước. Đồng thời việc
hướng ra thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên cơ sở
khai thác lợi thế so sánh, vừa xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của nước
ta, vừa có thể nhận được sự “hưởng ứng và ủng hộ” của các nước phát triển
trong khuôn khổ không ảnh hưởng tới sự phát triển của các ngành kinh tế ở
các nước này.
Căn cứ vào tiềm năng về điều kiện tự nhiên, xã hội, dân số, truyền thống
dân tộc Việt Nam, trong văn kiện đại hội VIII của Đảng ta đã xác định hướng
chú trọng phát triển một số ngành, trong đó có công nghiệp sản xuất hàng dệt
may. Với những đặc điểm kinh tế-kỹ thuật riêng có của ngành, công nghiệp
dệt may được đánh giá là ngành có nhiều ưu điểm để sản xuất và xuất khẩu,
rất phù hợp với điều kiện sẵn có của nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chung tình hình thế giới hiện nay, bên cạnh
những thuận lợi nhất định việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc cũng gặp
phải nhiều khó khăn thách thức cả ở trong và ngoài nước. Chẳng hạn như
trình độ sản xuất thấp kém nên hàng hoá khó đáp ứng được yêu cầu của thị
trường quốc tế, khả năng và trình độ tiếp thị quốc tế kém cỏi, thiếu kỹ năng và
kinh nghiệm trong thực hiện hoạt động thương mại quốc tế, sự cạnh tranh
giữa các nước đang phát triển về cùng một mặt hàng trên cùng một thị
trường...
Do đó, để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-
May Việt Nam không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của Tổng Công ty trong
việc tìm hướng đi, biện pháp phù hợp mà còn cần phải có sự tác động tích cực
của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may
mặc ngày càng phát triển, tăng nhanh kim ngạch và ngoại tệ cho đất nước,
củng cố uy tín và vị thế của Tổng Công ty không chỉ ở thị trường trong nước
mà trên toàn thế giới.
Với trình độ và thời gian nhất định, bài viết chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để đề tài được
hoàn thiện hơn nữa./.
75
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Thương mại quốc tế
(PGS. PTS Nguyễn Duy Bột)
2. Giáo trình nghiệp vụ quản trị kinh doanh thương mại quốc tế
(PGS. PTS Trần Chí Thành)
3. Cẩm nang thương mại dịch vụ
(PTS Đặng Đình Đào - Hoàng Minh Đường)
4. Kinh tế đối ngoại Việt Nam-Nội dung-Giải pháp-Hiệu quả.
(NXB Thống kê-1996 )
5. Mưu lược cạnh tranh thương mại
(NXB TP Hồ Chí Minh)
6. Hỏi đáp về kỹ thuật thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu.
(PTS. Võ Thanh Thư - NXB TP Hồ Chí Minh)
7. Tìm hiểu những quy định về hoạt động xuất nhập khẩu
(NXB TP Hồ Chí Minh)
8. Tự do hóa thương mại, những xu hướng và chính sách
(NXB Thống kê 1998)
9. Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu 1999-2003
(NXB Thống kê. 1998)
10. Cạnh tranh bằng giảm phí tổn thương mại
(NXB Thống kê. 1998)
11.Basic Marketing - J. Mc Carthy
12. Thương mại dịch vụ trong sư nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(NXB Thống kê. 2000)
13. Hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
(NXB Thống kê. 1998)
14. Niên giám thống kê 1998,2000
15. Một số tạp chí thương mại; Thời báo kinh tế; Tạp chí Dệt may Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tm073_5175_5322.pdf