Vai trò của nước đối với đất và cây trồng?
Vai trò của nước đối với đất và cây trồng? Các dạng nước. Trước hết nước tham gia vào sự phong hoá các loại đá và khoáng vật ở giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành đất. Các tầng đất trong phẫu diện được tạo ra ngoài kết quả của các quá trình hoá .
9 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 6248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của nước đối với đất và cây trồng?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vai trò của nước đối với
đất và cây trồng? Các
dạng nước.
Trước hết nước tham gia vào sự phong hoá các
loại đá và khoáng vật ở giai đoạn đầu tiên của
quá trình hình thành đất. Các tầng đất trong
phẫu diện được tạo ra ngoài kết quả của các
quá trình hoá học, lý học, sinh hoá học; quá
trình vận chuyển vật chất do nước cũng giữ một
vai trò quyết định. Nước còn là nhân tố điều hoà
nhiệt và không khí trong đất. Các tính chất cơ lý
đất như tính liên kết, độ chặt, tính dính, tính dẻo,
tính trương và co... đều do nước chi phối. Nước
cũng liên quan chặt chẽ tới sự hình thành chất
mới sinh như kết von, đá ong, vệt muối.... Sự di
chuyển của nước có thể gây ảnh hưởng xấu
đến độ phì nhiêu đất, vì nó làm các chất dinh
dưỡng bị rửa trôi, phá vỡ kết cấu và gây xói
mòn ở vùng đất dốc. Nhờ có nước hoà tan các
chất dinh dưỡng, cây trồng và các sinh vật khác
mới hút được. Cây trồng nông nghiệp muốn tạo
ra 1 gram chất khô cần phải hút từ 250 đến
1062 gram nước, tuỳ theo từng loài và từng
miền khí hậu.
Tóm lại, nước rất quan trọng đối với các quá
trình hoá học, lý học, sinh hoá học xảy ra trong
đất.
Các dạng nước:
Do đặc điểm cấu tạo, nước có thể liên kết với
các hạt đất hay độc lập trong các khe hở. Khi
xâm nhập vào đất nó chịu tác động của nhiều
lực khác nhau như lực hấp phụ, lực thẩm thấu,
lực mao dẫn và trọng lực. Bởi vậy nước được
giữ lại bằng các lực khác nhau, tạo nên nhiều
dạng nước trong đất.
Nước liên kết hoá học
Nước liên kết hoá học gồm nước cấu tạo và
nước kết tinh.
Nước cấu tạo là dạng nước tham gia vào thành
phần cấu tạo của khoáng vật dưới dạng nhóm
OH-. Nước này chỉ mất đi khi nung nóng khoáng
vật ở nhiệt độ cao từ 5000C trở lên, khi đó
khoáng vật bị phá huỷ hoàn toàn.
Nước kết tinh là dạng nước tham gia vào sự
hình thành tinh thể khoáng vật dưới dạng phân
tử nước liên kết với khoáng vật (ví dụ thạch cao
- CaSO4; limonit - Fe2O3.3H2O). Có tài liệu cho
rằng, nước kết tinh bị mất khi nung khoáng vật
từ 1050C đến 2000C. Dưới tác dụng của nhiệt
độ, các phân tử nước nước kết tinh không mất
đi ngay cùng một lúc mà mất dần theo từng
bước nhảy, mỗi phân tử nước mất ở nhiệt độ
thích hợp. Ví dụ, khi nung thạch cao thì phân tử
nước thứ nhất bị mất ở 1070C, còn phân tử thứ
2 mất ở nhiệt độ 1700C. Khi nước kết tinh bị
mất khoáng vật không bị phá huỷ nhưng một số
tính chất vật lý thay đổi.
Nước liên kết hoá học không di chuyển. Thực
vật không thể sử dụng được dạng nước này.
Nước ở thể rắn
Khi nhiệt độ dưới 00C nước trong các khe hở
chuyển sang thể rắn, không di chuyển được và
cây trồng cũng không sử dụng được.
Nước ở thể khí (hơi nước)
Bình thường nước luôn tồn tại ở thể hơi trong
không khí khí quyển và trong không khí trong
đất. Giữa thể rắn, lỏng và khí tồn tại trạng thái
cân bằng tức thời. Trạng thái này phụ thuộc và
ẩm độ của đất, nồng độ dung dịch đất, nhiệt độ
và hàm lượng sét. Trong đất hơi nước nằm
trong không khí, một phần bị các hạt đất giữ lại
trên bề mặt bằng lực hấp phụ. Hơi nước trong
đất rất linh động và có thể di chuyển được do 2
nguyên nhân:
• Do chênh lệch áp suất nên hơi nước di chuyển
từ nơi có áp suất cao đến nơi có áp suất thấp
hơn, do đó cũng di chuyển từ nơi ẩm sang nơi
khô hơn. Khi nhiệt độ của đất hạ xuống, hơi
nước di chuyển đến nơi nhiệt độ thấp hơn.
Chính nhờ khả năng di chuyển nên có sự trao
đổi tỷ lệ hơi nước giữa không khí trong đất và
không khí khí quyển sát mặt đất.
• Hơi nước di chuyển thụ động do gió thổi.
Thực vật chỉ sử dụng được khi hơi nước đã
chuyển sang thể lỏng. Thực ra hàm lượng nước
ở thể hơi trong đất không nhiều, nhất là ở đất
bão hoà nước, vì lúc đó phần lớn khe hở đã bị
nước chiếm.
Nước hấp phụ
Là dạng nước được các hạt đất hút và giữ lại
trên bề mặt của chúng nhờ lực hấp phụ. Lực
hấp phụ bao gồm:
• Phân tử nước và nguyên tử oxy trên bề mặt
hạt đất (đặc biệt là hạt keo) hình thành liên kết
Hydro. Lực hấp phụ này khá lớn, có thể đạt
hàng ngàn atmotphe, nhưng phạm vi tác động
của chúng chỉ ở cự ly ngắn.
• Do bề mặt hạt keo mang điện âm nên vành
ngoài của chúng hút các ion trái dấu và ở đó
phát sinh ra điện trường tĩnh. Phân tử nước
lưỡng cực nên được hút trong điện trường đó,
và giữa các phân tử nước cũng hút lẫn nhau
qua liên kết hydro. Lực hấp phụ này có khoảng
cách tác động hữu hiệu lớn hơn nên lực hút bé
hơn, thậm chí chỉ đạt vài atmotphe ở vành ngoài
cùng.
Nước hấp phụ ở sát bề mặt hạt đất có đặc điểm
là: tỷ trọng lớn hơn nước bình thường (có thể
đạt 1,4- 1,5), nhiệt dung bé (0,5- 0,8 Calo/cm3),
không có khả năng hoà tan vật chất (như:
đường, axit, bazơ...), tính dẫn điện rất kém gần
như bằng 0, điểm đóng băng rất thấp (- 780C)
và không di chuyển. Dạng nước hấp phụ này
mất hẳn tính vận động nhiệt, vì vậy trong quá
trình hấp phụ giải phóng nhiệt lượng được gọi là
"nhiệt ẩm ướt".
Nước hấp phụ ở các lớp ngoài chịu lực hút nhỏ
hơn, có tính chất gần giống với nước bình
thường nhưng độ nhớt của nó vẫn lớn hơn,
điểm đóng băng vẫn thấp hơn, di chuyển rất
chậm, các ion ở lớp khuếch tán của keo đất có
thể được phân bố trong đó.
Lực hấp phụ nước trong đất được quyết định
bởi tỷ diện hoà tan của đất, loại keo, lượng keo
và ion hấp phụ cùng với lượng chất hoà tan (vì
ảnh hưởng tới trạng thái tụ keo hay tán keo).
Thành phần cơ giới càng nặng, keo hữu cơ và
keo sét loại hình 2:1 càng nhiều, keo càng phân
tán thì lực hấp phụ càng lớn, lượng nước được
giữ lại càng nhiều.
Nước hấp phụ chia làm 2 loại: nước hấp phụ
chặt và nước hấp phụ hờ.
• Nước hấp phụ chặt:
Là nước được giữ chặt bởi lực hấp phụ xuất
hiện ở bề mặt hạt đất. Các phân tử nước bám
quanh hạt đất tạo thành các lớp mỏng, có chiều
dày bằng 2- 3 đường kính phân tử nước và chỉ
di chuyển khi biến sang dạng hơi. Khi lớp đơn
phân tử nước còn đứt đoạn, chưa vây kín hạt
đất thì gọi là "nước hấp phụ bé" và có ký hiệu là
Hy. Trường hợp này xảy ra khi đất khô ở trạng
thái bình thường. Nếu xác định độ ẩm lúc này ta
được độ ẩm đất khô không khí. Khi để đất khô
trong không khí bão hoà hơi nước (không khí
chứa ³ 94,2 % hơi nước), các phân tử nước bị
hấp phụ sẽ vây kín xung quanh hạt đất tạo
thành một lớp đơn tử nước, được gọi là "nước
hấp phụ tối đa", có ký hiệu là Hymax. Ðối với
một loại đất, Hymax là một hằng số. Người ta
thấy rằng cây chỉ có thể hút được nước khi
lượng nước trong đất gấp 1,5 lần giá trị của
Hymax trở lên. Từ đó người ta có thể tính độ ẩm
cây héo bằng công thức sau:
Wc.h (%) = 1,5 Hymax
Nước hấp phụ bị mất khi ta sấy đất ở nhiệt độ
105- 1100C.
• Nước hấp phụ hờ (nước màng)
Nước màng là nước được đất giữ lại bên ngoài
lớp nước hấp phụ chặt bằng lực phân tử định
hướng và do sức hút của các ion trên bề mặt
hạt đất (lực thuỷ hoá). Lớp nước này có bề dày
gấp hàng chục lần đường kính phân tử nước
bao gồm nhiều lớp đơn phân tử nước. Lực giữ
nước trong trường hợp này yếu hơn nhiều so
với lực giữ nước hấp phụ chặt. Dạng nước này
có thể di chuyển được từ hạt đất có màng dày
sang hạt đất có màng mỏng hơn đứng cạnh bên
cho đến khi độ dày của hai màng cân bằng
nhau. Tuy nhiên sự di chuyển này là rất chậm
chạp, khoảng 2,4 mm/giờ. Thực tế cây trồng
không sử dụng được dạng nước này.
Nước tự do
Là dạng nước không liên kết với đất, không bị
giữ chặt bằng lực liên kết hoá học hay lực hấp
phụ. Nước này di chuyển được do tác dụng của
lực mao quản hay trọng lực, từ đó được chia ra
2 dạng: nước mao quản và nước trọng lực.
• Nước mao quản:
Nước mao quản di chuyển trong các ống mao
quản có đường kính bé, theo các hướng khác
nhau, và cây trồng dễ dàng hút được nước này.
Tính chất vật lý và hoá học của dạng nước mao
quản hoàn toàn giống nước tự do, nó bị giữ lại
bởi lực bé, chỉ khoảng mười lăm atmotphe đến
một vài phần trăm atmotphe. Nước mao quản di
chuyển dễ dàng nhất trong các mao quản
đường kính khoảng 0,002- 0,850 mm (f = 0,2-
8,5 mm) Nếu ống mao quản bé hơn 0,002 mm
thì chứa đầy nước hấp phụ, làm cho sự di
chuyển của nước trong mao quản gặp khó
khăn. Nước mao quản có thể nối liền với nước
ngầm và thường xuyên được nước ngầm cung
cấp gọi là "nước mao quản leo". Khi mạch nước
ngầm ở quá sâu hoặc hạn hán lâu ngày nước
ngầm không tồn tại, nước trong mao quản
không được nước ngầm cung cấp ta gọi là
"nước mao quản treo".
Nước mao quản là nguồn nước chủ yếu cung
cấp cho cây trồng, vì thế cần bảo vệ và nâng
cao hàm lượng nước này trong đất bằng các
biện pháp phù hợp như bón phân hữu cơ tạo
kết cấu, tăng cường xới xáo, che phủ chống bốc
hơi nước...
• Nước trọng lực
Là nước ngấm sâu khi mưa, khi tưới hay từ
nguồn nước khác, dưới tác động của trọng lực
và di chuyển nhanh trong các khe hở lớn và
đọng lại trên một tầng đất không thấm nước đó
là nước ngầm. Nước ngầm được chia ra thành
2 loại: nước ngầm tạm thời và nước ngầm vĩnh
cửu.
- Nước ngầm tạm thời là nước được đọng lại ở
độ sâu nhất định (không lớn lắm), tầng đất này
được gọi là tầng chứa nước. Ngoài địa hình, nó
còn phụ thuộc khá chặt chẽ vào thời tiết. Nếu
mưa nhiều thì mạch nước ngầm dâng lên cao,
ngược lại hạn hán lâu ngày thì mạch nước
ngầm hạ xuống sâu thậm chí không tồn tại.
- Nước ngầm vĩnh cửu là nước nằm giữa 2 tầng
đất không thấm nước. Dạng nước này không
phụ thuộc vào thời tiết mà phụ thuộc vào địa
hình, địa mạo và đá mẹ... Muốn khai thác nước
ngầm vĩnh cửu ta phải khoan sâu hàng chục
hoặc hàng trăm mét.
Nhìn chung cây trồng ít sử dụng được nước
trọng lực vì nó di chuyển đi xuống quá nhanh.
Tuy nhiên nếu nước ngầm tạm thời nằm không
quá sâu thì nó trở thành nguồn cung cấp nước
dưới dạng nước mao quản leo. Khi nước ngầm
tạm thời nằm nông, chiếm đầy các khe hở trong
đất lâu ngày thì gây ra hiện tượng yếm khí, có
hại cho cây trồng và các sinh vật hữu ích khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của nước đối với đất và cây trồng.pdf