4. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy, nhìn chung, SV đã biết cách ứng phó với
những khó khăn trong học tập, thể hiện ở việc lựa chọn các cách ứng phó hiệu quả
nhiều hơn so với các cách ứng phó không hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn còn một số SV sử
dụng cách ứng phó tiêu cực.
Kết quả nghiên cứu thực trạng đã cung cấp những cơ sở thực tiễn cần thiết để các nhà
nghiên cứu xác định những biện pháp nhằm nâng cao khả năng ứng phó của SVNT1,
trường ĐHSP – ĐHH. Kết quả thử nghiệm cho thấy việc sử dụng biện pháp nhằm nâng
cao khả năng ứng phó với khó khăn trong học tập của SVNT1 là có tính khả thi và có
thể sử dụng rộng rãi với số lượng sinh viên năm thứ nhất lớn hơn.
Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở khó khăn trong học tập, trong khi SVNT1 còn phải
ứng phó với nhiều khó khăn khác nữa. Vì vậy, cần có thêm những nghiên cứu về ứng
phó với các loại khó khăn khác. Ngoài ra, cần có những nghiên cứu thực nghiệm các
biện pháp tác động để nâng cao khả năng ứng phó với khó khăn trong học tập của
SVNT1, trường ĐHSP - ĐHH.
11 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng phó với những khó khăn trong học tập của nh viên năm thứ nhất Đại học Sư phạm - Đại học Huế - Phí Công Mạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(21)/2012: tr. 95-105
ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ
PHÍ CÔNG MẠNH
Học viên Cao học, Trường ĐHSP - ĐHH
NGUYỄN QUANG UẨN
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt: Ứng phó là một nguồn lực quan trọng trong hoạt động học tập của
sinh viên nói chung và sinh viên năm thứ nhất nói riêng. Ứng phó giúp sinh
viên năm thứ nhất thích ứng nhanh chóng với những yêu cầu của hoạt động
học tập, cho phép họ nắm bắt và làm suy yếu những tác nhân gây khó khăn,
từ đó thích nghi hoặc cải biến hoạt động học tập của chính mình, vượt qua
khó khăn và học tập tốt hơn. Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu kết quả
nghiên cứu thực trạng ứng phó với những khó khăn trong học tập của sinh
viên năm thứ nhất (SVNT1) trường Đại học Sư phạm (ĐHSP) - Đại học Huế
(ĐHH) và từ đó đề xuất một số biện pháp thử nghiệm nhằm nâng cao khả
năng ứng phó cho SVNT1.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, SVNT1 đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong học tập như: khối lượng
tri thức lớn, phương pháp học tập mới, yêu cầu tìm kiếm và xử lý tài liệu học tập, yêu
cầu sắp xếp thời gian học tập phù hợp, chương trình học tập mới, quy chế học tập ở đại
học Những thách thức này gây không ít khó khăn cho các em. Bên cạnh đó, kiến
thức, kinh nghiệm sống, khả năng ứng phó với khó khăn trong học tập của các em đang
còn hạn chế. Vì vậy, việc giáo dục và rèn luyện để các em lựa chọn các cách ứng phó có
hiệu quả là việc làm hết sức cần thiết trong môi trường đại học hiện nay.
Ứng phó với khó khăn trong học tập ở môi trường đại học đã được nghiên cứu ở nhiều
nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta, vấn đề này vẫn chưa được quan tâm thích
đáng. Thông qua nghiên cứu về ứng phó với những khó khăn trong học tập của SVNT1
ĐHSP - ĐHH, chúng tôi mong muốn tìm hiểu cách ứng phó của nhóm khách thể đối với
những khó khăn trong học tập, từ đó đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp nhằm
nâng cao khả năng ứng phó với những khó khăn trong học tập. Nghiên cứu được thực
hiện trên 422 SVNT1 của hai khối tự nhiên (khoa Toán, Vật lý, Hóa) và xã hội (Ngữ
văn, Lịch sử). Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến; bảng
hỏi này được chúng tôi xây dựng dựa trên việc tham khảo, điều chỉnh, chỉnh sửa các bộ
công cụ nghiên cứu đã có trên thế giới và trong nước [1], [2], [4], [5], [6].
2. KHÁI NIỆM ỨNG PHÓ VỚI KHÓ KHĂN TRONG HỌC TẬP
Ứng phó là một quá trình năng động của chủ thể. Đó là những nỗ lực của cá nhân, bao
gồm cả hành động bên ngoài và tâm lý bên trong nhằm giải quyết những tình huống gây
cản trở hoặc vượt quá khả năng của cá nhân, buộc cá nhân phải nỗ lực để giải quyết.
PHÍ CÔNG MẠNH – NGUYỄN QUANG UẨN
96
Ứng phó với khó khăn trong học tập là những nỗ lực của sinh viên, bao gồm cả mặt tâm
lý bên trong và hành động bên ngoài, hướng vào giải quyết những vấn đề, tình huống
gây khó khăn trong học tập mà sinh viên đó gặp phải. Như vậy, việc lựa chọn cách ứng
phó chịu sự chi phối rất lớn bởi tính chủ quan của cá nhân và đặc điểm của hoàn cảnh
bên ngoài. Ứng phó với khó khăn trong học tập cho thấy khả năng sinh viên lựa chọn và
áp dụng những cách ứng phó hiệu quả để giải quyết những tình huống gây khó khăn
trong học tập. Nó nhấn mạnh đến việc sinh viên biết lựa chọn những hành vi ứng phó
phù hợp, tích cực, có lợi cho sự phát triển của cá nhân [3].
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nhận định chung về ứng phó của SVNT1 với những khó khăn trong học tập
Trong phiếu trưng cầu ý kiến, chúng tôi sử dụng thang Likert 5 bậc, đó là: mức độ
“không bao giờ - ít khi - thỉnh thoảng - thường xuyên - rất thường xuyên” tương ứng với
thang điểm “1 - 2 - 3 - 4 - 5”. Như vậy, điểm thấp nhất là 1, cao nhất là 5, SV có điểm
càng cao thì càng thường xuyên sử dụng cách ứng phó đó và ngược lại.
3.1.1. Các cách ứng phó với những khó khăn trong học tập của SVNT1 (tổng quát)
Bảng 1. Kết quả các cách ứng phó với những khó khăn trong học tập của SVNT1 (tổng quát)
STT Các cách ứng phó ĐTB ĐLC
1 Tích cực chủ động 3,32 0,90
2 Tìm kiếm sự hỗ trợ 3,30 1,07
3 Xoa dịu căng thẳng 3,21 1,05
4 Lảng tránh 2,13 1,20
5 Tiêu cực 2,10 1,10
Ghi chú: ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn
Bảng 1 cho thấy, hiện nay SVNT1 đã lựa chọn cả 5 cách ứng phó khi gặp phải khó khăn
trong học tập, trong đó cách ứng phó “Tích cực chủ động” được sử dụng nhiều nhất.
Cách ứng phó “Tìm kiếm sự hỗ trợ” xếp vị trí thứ 2, tiếp theo là cách phó “Xoa dịu căng
thẳng” xếp thứ 3; cách ứng phó “Lảng tránh” xếp ở vị trí thứ 4 và ít sử dụng nhất là
cách ứng phó “Tiêu cực” ở vị trí thứ 5. Kết quả cho thấy SVNT1 đã sử dụng những cách
ứng phó phù hợp với tần suất cao hơn. Tuy nhiên, để khẳng định SVNT1 ĐHSP - ĐHH
có ứng phó hiệu quả với khó khăn trong học tập hay không, chúng ta cần xem xét từng
chỉ số trong các cách ứng phó cụ thể.
3.1.2. Cách ứng phó “Tích cực chủ động”
Bảng 2. Mức độ sử dụng cách ứng phó “Tích cực chủ động” của SVNT1
Ứng phó tích cực chủ động ĐTB ĐLC
Nhận
thức
Tôi suy nghĩ xem tại sao khó khăn đó lại xảy ra với bản thân tôi 3,54 0,93
Tôi cố gắng suy nghĩ làm sao thay đổi bản thân để giải quyết vấn đề
tốt hơn
3,50 0,88
Tôi nghĩ xem mình có thể làm gì để cải thiện tình trạng khó khăn của
mình
3,55 0,89
ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG HỌC TẬP CỦA SV NĂM THỨ NHẤT
97
Thái
độ
Tôi quyết tâm tự mình nỗ lực vượt qua những khó khăn đang xảy
đến với mình
3,34 0,91
Tôi nỗ lực lập kế hoạch học tập mới để giải quyết khó khăn của mình 3,23 0,86
Tôi bình tĩnh xem xét mình nên phải làm gì tiếp theo để giải quyết
khó khăn của mình
3,21 0,89
Hành
động
Tôi hành động tích cực để cải thiện tình hình 3,10 0,92
Tôi sắp xếp lại việc học tập của mình và ưu tiên những việc cần phải
giải quyết ngay
3,29 0,93
Tôi tham gia vào các câu lạc bộ học tập, diễn đàn và hội thảo trao đổi
về học tập
3,20 0,95
TBC 3 mặt 3,32 0,90
Bảng 2 cho thấy với ĐTB cả 3 mặt là 3,32, nhìn chung cách ứng phó “Tích cực chủ
động” được các em sử dụng ở mức độ cao. Cụ thể, có tới 275 SV (65,1%) sử dụng ở
mức độ cao (ĐTB>3,0); 52 SV (12,3%) mức rất cao (ĐTB>4,0); 68 SV (16,1%) mức
trung bình (ĐTB<3,0), chỉ có 22 SV (5,2%) mức thấp hoặc không thực hiện (ĐTB<2,0).
Điều này cho thấy, đa phần SV thường chọn cách ứng phó “Tích cực chủ động” khi gặp
khó khăn trong học tập.
Trong 3 mặt ứng phó, mặt nhận thức được sử dụng ở mức độ cao hơn so với hai mặt
còn lại. Kết quả này cho thấy, những biện pháp ứng phó “Tích cực chủ động” được các
em lựa chọn sử dụng ở trong suy nghĩ nhiều hơn trong thái độ và hành động. Đây là vấn
đề đáng được lưu ý. Trong quá trình rèn luyện nâng cao khả năng ứng phó, các em cần
có thái độ tích cực và thực hiện hành động nhằm giải quyết vấn đề khó khăn, chứ không
chỉ dừng lại ở mặt nhận thức.
Trong cách ứng phó “Tích cực chủ động”, một số biện pháp được SV sử dụng ở mức độ
khá cao như: nghĩ xem mình có thể làm gì để cải thiện tình trạng khó khăn, cố gắng suy
nghĩ làm sao thay đổi bản thân để giải quyết vấn đề tốt hơn, suy nghĩ xem tại sao khó
khăn đó lại xảy ra với bản thân, quyết tâm tự mình nỗ lực vượt qua khó khăn đang xảy
đến. Xét theo mức độ phân bố điểm, các biện pháp trên thực hiện ở mức độ cao và rất
cao, tương ứng là 63%, 58,5%, 64,3%, 50,4%. Việc sử dụng thường xuyên các biện
pháp ứng phó này sẽ góp phần rất lớn trong việc tham gia vào quá trình giải quyết khó
khăn trong học tập. Bên cạnh đó, biện pháp tham gia các hội thảo, diễn đàn, câu lạc bộ
học tập SV sử dụng ở mức thấp cho nên trong quá trình rèn luyện, nhà giáo dục cần
giúp sinh viên sử dụng các biện pháp này ở mức độ thường xuyên hơn.
3.1.3. Cách ứng phó “Tìm kiếm sự hỗ trợ”
Bảng 3. Mức độ sử dụng cách ứng phó “Tìm kiếm sự hỗ trợ” của SVNT1
Ứng phó tìm kiếm sự hỗ trợ ĐTB ĐLC
Nhận
thức
Tôi nghĩ sẽ hỏi người khác xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo sau khi
gặp khó khăn
3,54 1,07
Tôi nghĩ sẽ tâm sự với người thân về những khó khăn của mình 3,43 0,98
Tôi nghĩ đến việc xin lời khuyên từ người mà tôi kính trọng 3,33 1,05
Thái
độ
Tôi quyết tâm hỏi nhiều mọi người đến khi tìm ra cách giải quyết
khó khăn
2,41 1,06
PHÍ CÔNG MẠNH – NGUYỄN QUANG UẨN
98
Tôi bình tĩnh lắng nghe, chọn lọc thông tin từ sự chia sẻ của người
khác về khó khăn tôi đang trải qua
3,37 0,99
Tôi mong nhận được sự đồng cảm, cảm thông, an ủi từ những người
tôi yêu mến
3,44 1,23
Hành
động
Tôi tìm đến những người hiểu rõ những khó khăn của tôi để họ cho
tôi biết những gì tốt nhất nên làm
3,39 1,03
Tôi tìm đến và nói chuyện trực tiếp với những người có liên quan để
tìm cách giải quyết vấn đề
3,49 1,05
Tôi nhờ sự trợ giúp của những người thân để học tốt hơn 3,38 1,15
TBC 3 mặt 3,30 1,07
Bảng 3 cho thấy, cách ứng phó “Tìm kiếm sự hỗ trợ” có ĐTB tương đối cao (ĐTB =
3,30). Điều này chứng tỏ rằng, khi gặp những khó khăn trong học tập, SV thường tìm
đến sự giúp đỡ của người khác để giải quyết vấn đề của mình. Xét theo mức độ phân bố
điểm thì đây cũng là cách ứng phó được SV sử dụng ở mức khá thường xuyên, với 228
SV (52,4%) thực hiện các biện pháp này ở mức cao, 33 SV (7,9%) thực hiện ở mức rất
cao, 100 SV (23,7%) ở mức trung bình và 61 SV (14,4%) ở mức thấp.
Khi gặp những khó khăn trong học tập, SV “Tìm kiếm sự hỗ trợ” ở cả 3 mặt nhận thức,
thái độ, hành động. Trong đó, mặt hành động và mặt nhận thức được sử dụng thường
xuyên hơn mặt thái độ. Về góc độ tâm lý học, tìm kiếm sự hỗ trợ để làm giảm lo lắng,
căng thẳng hoặc tìm ra cách giải quyết vấn đề thường mang tính tích cực. Ở đây, SV đã
sử dụng khá tốt các nguồn lực bên ngoài để giúp các em giải quyết vấn đề. Điều này có
thể được lý giải như sau: ở lứa tuổi của các em, kiến thức, kinh nghiệm và khả năng giải
quyết các tình huống khó khăn còn hạn chế, trong nhiều trường hợp không thể tự mình
giải quyết được khó khăn, các em phải nhờ sự trợ giúp của người khác. Bên cạnh đó, cả
ba mặt của cách ứng phó “Tìm kiếm sự hỗ trợ” có mối tương quan thuận, đặc biệt, mặt
thái độ và hành động của ứng phó “Tìm kiếm sự hỗ trợ” có mối tương quan thuận và
chặt chẽ (r = 0,60**, p<0,01), nghĩa là khi SV có thái độ tích cực trong việc tìm kiếm sự
hỗ trợ thì cũng có hành động thực hiện sự tìm kiếm.
3.1.4. Cách ứng phó “Xoa dịu căng thẳng”
Bảng 4. Mức độ sử dụng cách ứng phó “Xoa dịu căng thẳng” của SVNT1
Ứng phó xoa dịu căng thẳng ĐTB ĐLC
Nhận
thức
Tôi nghĩ đến một số mặt tích cực khi gặp phải những khó khăn trong
học tập
3,08 1,01
Tôi nghĩ rằng mình vẫn còn may mắn hơn người khác khi được trải
nghiệm với những khó khăn
3,49 0,95
Tôi nghĩ rằng đằng nào khó khăn cũng đã xảy ra, đó là sự thật không thể
phủ nhận
3,20 1,03
Thái
độ
Tôi vui vẻ, lạc quan hơn mong rằng áp lực của khó khăn sẽ được giảm
bớt
3,42 0,95
Tôi tin tưởng rằng trong một thời gian ngắn, khó khăn trong học tập sẽ
mau chóng qua đi
3,41 0,97
Tôi lạc quan rằng mình sẽ có được những kinh nghiệm quí báu khi giải
quyết những khó khăn này
3,32 0,98
ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG HỌC TẬP CỦA SV NĂM THỨ NHẤT
99
Hành
động
Tôi tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí để giảm căng thẳng 3,24 1,08
Tôi khóc lóc hoặc tìm chỗ vắng vẻ để hét thật to 2,76 1,25
Tôi ngủ một giấc cho vơi nỗi buồn 2,96 1,25
TBC 3 mặt 3,21 1,05
Như được trình bày ở bảng 4 cách ứng phó “Xoa dịu căng thẳng” có ĐTB = 3,21. Kết
quả này cho thấy SV thực hiện cách ứng phó này ở mức trung bình, thấp hơn so với hai
cách ứng phó “Tích cực chủ động” và “Tìm kiếm sự hỗ trợ”. Xét mức độ phân bố điểm,
cách ứng phó “Xoa dịu căng thẳng”, có tới 181 SV (43%) thực hiện biện pháp này ở
mức độ cao và rất cao, chỉ có 219 (52,1%) SV sử dụng ở trung bình, còn lại là không
hoặc ít sử dụng.
Với các biện pháp “Xoa dịu căng thẳng”, SV sử dụng không đồng đều về các mặt. Xoa
dịu căng thẳng mặt nhận thức và mặt thái độ thường được SV sử dụng nhiều hơn mặt
hành động. Trong đó, nghĩ rằng mình vẫn còn may mắn hơn người khác khi được trải
nghiệm với những khó khăn; vui vẻ, lạc quan hơn, mong rằng áp lực của khó khăn sẽ
được giảm bớt, tin tưởng rằng trong một thời gian ngắn, khó khăn trong học tập sẽ mau
chóng qua đi là những biện pháp được sử dụng thường xuyên hơn. Ngược lại, biện pháp
khóc lóc, tìm chỗ vắng vẻ để hét thật to, ngủ một giấc cho vơi nỗi buồn được sử dụng ít
hơn ở mức trung bình.
Mặc dù, cách ứng phó “Xoa dịu căng thẳng” không trực tiếp giúp SV giải quyết vấn đề
khó khăn trong học tập, nhưng lại có thể gián tiếp góp phần hỗ trợ cách ứng phó “Tích
cực chủ động” và “Tìm kiếm sự hỗ trợ”. Bởi nếu thành công trong việc giảm nhẹ căng
thẳng, hoạt động học tập của các em cũng bớt nặng nề, từ đó có thể tập trung vào việc
tìm ra cách giải quyết vấn đề khó khăn trong học tập của mình. Tuy nhiên, nếu sử dụng
cách ứng phó này mức độ cao quá cũng không tốt vì về cơ bản nó không giải quyết
được vấn đề khó khăn. Vì vậy, cần hướng dẫn SV kết hợp cách ứng phó này với 2 cách
cách ứng ứng phó “Tích cực chủ động” và “Tìm kiếm sự hỗ trợ”.
3.1.5. Cách ứng phó “Lảng tránh”
Bảng 5. Mức độ sử dụng cách ứng phó “Lảng tránh” của SVNT1
Ứng phó lảng tránh ĐTB ĐLC
Nhận
thức
Tôi xem như chưa từng có khó khăn đó xảy ra 2,51 1,10
Tôi phớt lờ coi khó khăn đó không phải là vấn đề của mình 2,28 1,14
Tôi giải quyết khó khăn bằng cách tưởng tượng thay cho thực hiện
hành động
2,81 1,21
Thái
độ
Tôi kìm nén để không tỏ ra buồn rầu, lo lắng trước mặt người khác 2,91 1,21
Tôi rất bi quan về những khó khăn đang xảy ra và chông chờ có một
phép màu
2,61 1,20
Tôi chán ghét phải suy nghĩ về những khó khăn đang trải qua 2,59 1,16
Hành
động
Tôi vùi đầu vào phim ảnh, truyện tranh, game online để quên đi khó
khăn
2,52 1,10
Tôi hoàn toàn không làm gì để giải quyết khó khăn cả 2,16 1,23
Tôi cô lập mình, né tránh mọi người 2,22 1,11
TBC 2,13 1,20
PHÍ CÔNG MẠNH – NGUYỄN QUANG UẨN
100
Với ĐTB là 2,13, cách ứng phó “Lảng tránh” được SV sử dụng ở mức trung bình so với
ba cách ứng phó trên. Số liệu khảo sát này chứng tỏ SV ít sử dụng cách ứng phó này.
Cách ứng phó “Lảng tránh” chỉ giúp các em tạm thời quên đi khó khăn hiện tại chứ
không giải quyết được vấn đề khó khăn hay giảm thiểu căng thẳng, áp lực. Chính vì
vậy, không nên sử dụng thường xuyên nhóm biện pháp này, đặc biệt là biện pháp ứng
phó “hoàn toàn không làm gì để giải quyết khó khăn” (ĐTB = 2,16).
Xét riêng các biện pháp ứng phó “Lảng tránh” cụ thể, “kìm nén để không tỏ ra buồn
rầu, lo lắng trước mặt người khác”, “giải quyết khó khăn bằng tưởng tượng thay cho
thực hiện” được sử dụng khá thường xuyên. Điều này có thể được lý giải như sau, một
phần do các em còn bỡ ngỡ trước môi trường học tập mới, chưa quen với nhiều thầy cô,
bạn bè, lứa tuổi các em vẫn còn nhiều mơ mộng, thiếu tính thực tế và khả năng giải
quyết vấn đề còn hạn chế. Ngoài ra, các em tỏ thái độ “bi quan về những khó khăn đang
xảy ra và không chờ có một phép màu” và “chán ghét phải suy nghĩ về những khó khăn
đang trải qua” với mức độ khá thường xuyên. Các biện pháp của cách ứng phó này
không mang lại hiệu quả, vì vậy, các nhà giáo dục cần tác động nhằm giảm bớt mức độ
sử dụng thường xuyên của các biện pháp ứng phó trên.
3.1.6. Cách ứng phó “Tiêu cực”
Bảng 6. Mức độ sử dụng cách ứng phó “Tiêu cực” của SVNT1
Ứng phó tiêu cực ĐTB ĐLC
Nhận
thức
Tôi nghĩ mình là người vô tích sự vì chẳng làm được gì cho tốt cả 2,34 1,13
Tôi nghĩ khó khăn xảy ra hoàn toàn không có lỗi của tôi 2,04 1,06
Tôi nghĩ cách để tự dày vò và trừng phạt bản thân 2,14 1,12
Thái
độ
Tôi cảm thấy hoàn toàn thất vọng về bản thân vì chẳng thay đổi được
khó khăn
2,64 1,34
Tôi cảm thấy tương lai học tập của mình thật tối tăm, mù mịt 2,41 1,14
Tôi mất hết niềm tin vào khả năng vượt qua khó khăn của mình 2,22 1,08
Hành
động
Tôi tìm đến rượu, bia, thuốc lá hoặc chất kích thích để quên đi khó
khăn
1,68 1,05
Tôi đập phá đồ đạc hoặc bất cứ thứ gì để thấy dễ chịu hơn 1,59 0,96
Tôi tụ tập ăn chơi với bạn bè 1,54 0,91
TBC 2,10 1,10
Kết quả ở bảng 6 cho thấy đây là cách SV sử dụng ít nhất trong 5 cách ứng phó để ứng
phó với khó khăn trong học tập, với ĐTB = 2,10. Xét mức độ phân bố điểm, có tới 288
SV (68,2%) sử dụng ở mức thấp, 78 SV (18%) ở mức trung bình, 56 SV (13,3%) ở mức
cao. Đây là tín hiệu đáng mừng vì SV ít sử dụng cách ứng phó này; bởi cách ứng phó
“Tiêu cực” hoàn toàn không mang lại hiệu quả cho SV mà thậm chí còn ảnh hưởng đến
sự phát triển tâm lý, nhân cách của các em. Tuy nhiên, vẫn còn 56 SV (13,3%) ở mức
cao. Vì vậy, nhà giáo dục cần có sự quan tâm nhằm giúp các em giảm bớt sử dụng cách
ứng phó tiêu cực.
Xem xét các biện pháp cụ thể trong cách ứng phó tiêu cực, có thể thấy các biện pháp:
“cảm thấy thất vọng về bản thân vì chẳng thay đổi được khó khăn”, “cảm thấy tương lai
ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG HỌC TẬP CỦA SV NĂM THỨ NHẤT
101
học tập thật mù mịt, tối tăm, nghĩ mình là người vô tích sự”; “mất hết niềm tin vào khả
năng vượt qua khó khăn của mình” được SV thỉnh thoảng sử dụng. Bên cạnh đó, các
biện pháp như: “nghĩ khó khăn xảy ra hoàn toàn không có lỗi của tôi”; “nghĩ cách để tự
dày vò và trừng phạt bản thân” cũng được một số SV sử dụng. Đặc biệt, các biện pháp
tìm đến rượu bia, thuốc lá, chất kích thích để quên đi khó khăn; đập phá đồ đạc hoặc bất
cứ thứ gì để thấy dễ chịu hơn; tụ tập ăn chơi với bạn bè vẫn còn không ít sinh viên sử
dụng. Vì vậy, nhà trường cần quan tâm và kịp thời có biện pháp giúp các em giảm thiểu
hoặc từ bỏ các biện pháp tiêu cực đã sử dụng để ứng phó với khó khăn, nhằm ngăn chặn
những điều đáng tiếc có thể xảy ra.
Xét tương quan giữa 3 mặt của cách ứng phó “Tiêu cực”, chúng tôi thấy: nhận thức và
thái độ của ứng phó tiêu cực có tương quan thuận và khá chặt chẽ (r = 0,6**, p<0,01),
nghĩa là những SV sử dụng ứng phó tiêu cực mặt nhận thức thì cũng sử dụng ứng phó
tiêu cực mặt thái độ. Mặt thái độ và hành động có mối tương quan thuận nhưng không
chặt (r = 0,42**, p<0,01), cho thấy SV sử dụng ứng phó tiêu cực mặt thái độ thì cũng sử
dụng ứng phó tiêu cực mặt hành động. Mặt nhận thức và hành động cũng có mối tương
quan thuận và khá chặt (r = 0,63**, p<0,01), nghĩa là những SV có sử dụng ứng phó
tiêu cực mặt nhận thức thì cũng có xu hướng lựa chọn ứng phó tiêu cực mặt hành động.
Vì vậy, ngay khi phát hiện những suy nghĩ, thái độ tiêu cực của các em, người lớn cần
quan tâm, ngăn chặn kịp thời để tránh xảy ra những hành động tiêu cực.
Xét mối quan hệ giữa 5 cách ứng phó đã trình bày ở trên, kết quả cho thấy: Cách ứng phó
“Tích cực chủ động” có mối tương quan thuận và khá chặt chẽ với các cách ứng phó “Tìm
kiếm sự hỗ trợ” (r = 0,64**, p<0,01) và “Xoa dịu căng thẳng” (r = 0,58**, p<0,01). Nghĩa
là, SV lựa chọn cách ứng phó “Tích cực chủ động” thì cũng thường lựa chọn cách ứng
phó “Tìm kiếm sự hỗ trợ” và “Xoa dịu căng thẳng”, không sử dụng cách ứng phó “Lảng
tránh” và “Tiêu cực”. Bên cạnh đó, ứng phó “Tiêu cực” có tương quan thuận và khá chặt
chẽ với cách ứng phó “Lảng tránh” (r = 0,68**, p<0,01); chứng tỏ rằng SV lựa chọn ứng
phó tiêu cực cũng thường chọn cách lảng tránh vấn đề khó khăn và ngược lại.
3.2. Cách ứng phó của SVNT1 với những khó khăn trong học tập xét theo giới
tính, theo khoa và theo học lực
3.2.1. Xét theo giới tính
Nam SV lựa chọn cách ứng phó “Tích cực chủ động” nhiều hơn so với nữ SV (t252=4,02;
p<0,01). Nhưng nữ SV sử dụng các cách ứng phó “Tìm kiếm sự hỗ trợ” (t252=-2,12;
p<0,01) và “Xoa dịu căng thẳng” (t252=-1,54; p<0,01) nhiều hơn so với nam SV. Trong
nhóm ứng phó “Tiêu cực”, nữ SV thường có suy nghĩ tiêu cực như “nghĩ mình là người
vô tích sự” (t252=5,03; p<0,01), “nghĩ khó khăn xảy ra hoàn toàn không có lỗi của mình”
(t252=4,66; p<0,01) cao hơn so với nam SV, nhưng các nam SV lại có nhiều hành động
tiêu cực hơn so với nữ SV như “tìm đến rượu, bia, thuốc lá hoặc chất kích thích để quên
đi khó khăn” (t252=6,08; p<0,01), “đập phá đồ đạc hoặc bất cứ thứ gì để thấy dễ chịu
hơn” (t252=5,52; p<0,01), và “tụ tập ăn chơi với bạn bè” (t252=6,51; p<0,01). Như vậy có
thể thấy, đặc điểm giới tính được thể hiện khá rõ nét trong cách ứng phó với khó khăn
PHÍ CÔNG MẠNH – NGUYỄN QUANG UẨN
102
trong học tập của SVNT1 ĐHSP - ĐHH. Kết quả này phù hợp với các công trình nghiên
cứu trước đây theo lát cắt về giới [5] [6].
3.2.2. Xét theo khoa
Chúng tôi nhận thấy trong 5 khoa thì SV khoa Toán và khoa Vật lý sử dụng cách ứng
phó “Lảng tránh” và “Tiêu cực” ở mức độ cao hơn so với các khoa còn lại. ĐTB chung
của 2 cách ứng phó không hiệu quả này là 2,45 và 2,37. Còn ĐTB chung của khoa Sử,
Hóa, Ngữ văn lần lượt là: 2,29, 2,25 và 2,22. Điều này có thể thấy rằng, SV khoa Toán
và Vật lý có khả năng ứng phó với khó khăn trong học tập hạn chế hơn so với SV các
khoa còn lại.
3.2.2. Xét theo khối học
SV khối xã hội sử dụng các cách ứng phó hiệu quả nhiều hơn SV khối tự nhiên, cụ thể:
Cách ứng phó “Tích cực chủ động” và “Tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội” được SV khối xã hội
sử dụng nhiều hơn so với SV khối tự nhiên. “Tích cực chủ động” có X XH=3,42 và
X TN=3,24 và “Tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội” có X XH=3,10 và X TN=2,90. Trong khi đó, SV
khối tự nhiên lại lựa chọn các cách ứng phó “Tiêu cực” và “Lảng tránh” nhiều hơn SV
khối xã hội, chẳng hạn ở ứng phó “Lảng tránh” có X TN=2,18 và X XH=2,07, còn ứng
phó “Tiêu cực” có X TN=2,52 và X XH=2,45. Như vậy, có thể thấy rằng ở nhóm mẫu
được khảo sát này, việc sử dụng các cách ứng phó với những khó khăn trong học tập
của SV khối tự nhiên chưa tốt so với SV khối xã hội.
3.3.3. Xét theo học lực
Bảng 7. Cách ứng phó với khó khăn trong học tập xét theo học lực
Cách ứng phó (I) Học lực (J) Học lực Hiệu (I-J)
Tích cực chủ động Giỏi Trung bình 0,071**
Khá Trung bình 0,042**
Tìm kiếm sự hỗ trợ Giỏi Trung bình 0,059*
Khá Trung bình 0,037**
Xoa dịu căng thẳng Giỏi Trung bình 0,71**
Lảng tránh Giỏi Trung bình -0,79*
Khá Trung bình -0,60**
Tiêu cực Giỏi Trung bình -0,89**
Khá Trung bình -0,71**
Ghi chú: *: p<0,05; **: p<0,01
Bảng 7 cho thấy, SV có học lực giỏi, khá sử dụng cách ứng phó hiệu quả nhiều hơn và ít
sử dụng các cách ứng phó không hiệu quả so với SV học lực trung bình. Ngược lại, SV
có học lực trung bình lại thường sử dụng các cách ứng phó không hiệu quả cao hơn so
với SV có học lực khá và giỏi. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu về
những khó khăn trong học tập ở phần trên.
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng, chúng tôi đã đề xuất một số biện pháp tác động và
tiến hành thử nghiệm nhằm nâng cao khả năng ứng phó với khó khăn trong học tập cho
ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG HỌC TẬP CỦA SV NĂM THỨ NHẤT
103
sinh viên. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày kết quả thực nghiệm một trong các biện
pháp đó.
Biện pháp: Hình thành và phát triển khả năng ứng phó với khó khăn trong học tập cho
sinh viên, bao gồm việc trang bị cho họ tri thức về cách ứng phó với những khó khăn
trong học tập và tổ chức ứng dụng những tri thức đó vào cuộc sống học tập của bản thân.
- Mục đích: Trực tiếp tác động đến đối tượng SVNT1 nhằm giúp họ hình thành và
phát triển khả năng ứng phó với những khó khăn trong học tập.
- Nội dung: Giúp SV hiểu được những khó khăn mà họ có thể gặp phải trong học
tập ở đại học. Giới thiệu các cách ứng phó thường được sử dụng và phân tích
những ưu, nhược điểm của mỗi cách ứng phó với khó khăn trong học tập; xác
định hiệu quả của các cách ứng phó xét về mặt giải quyết vấn đề khó khăn trong
học tập
- Phương pháp: Chúng tôi tiến hành các buổi nói chuyện chuyên đề với 50 SVNT1
được chọn ngẫu nhiên của các 5 khoa. Mỗi khoa 10 sinh viên. Do hạn chế về thời
gian chúng tôi chỉ tiến hành 4 buổi nói chuyện chuyên đề với SVNT1.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 8. Cách ứng phó với khó khăn trong học tập của SVNT1 trước thử nghiệm
STT Các cách ứng phó ĐTB ĐLC
1 Tích cực chủ động 3,37 0,73
2 Tìm kiếm sự hỗ trợ 3,21 0,65
3 Xoa dịu căng thẳng 2,97 0,46
4 Lảng tránh 2,69 0,67
5 Tiêu cực 2,05 0,95
Bảng số liệu trên cho thấy cách ứng phó “tích cực chủ động” được sử dụng nhiều nhất,
sau đó đến cách ứng phó “tìm kiếm sự hỗ trợ”, ứng phó xoa dịu căng thẳng; được sử
dụng thấp nhất là 2 cách ứng phó “lảng tránh” và tiêu cực.
Bảng 9. Cách ứng phó với khó khăn trong học tập của SVNT1 sau thử nghiệm
STT Các cách ứng phó ĐTB ĐLC
1 Tích cực chủ động 3,43 0,57
2 Tìm kiếm sự hỗ trợ 3,37 0,63
3 Xoa dịu căng thẳng 2,99 0,47
4 Lảng tránh 2,41 0,76
5 Tiêu cực 1,89 0,92
Kết quả Bảng 9 cho thấy, sau thực nghiệm ĐTB của các cách ứng phó hiệu quả đã có xu
hướng tăng lên và ĐTB của các cách ứng phó không hiệu quả đã có xu hướng giảm đi.
Nghĩa là SV đã sử dụng cách ứng phó “tích cực chủ động” và “tìm kiếm sự hỗ trợ” ở
mức độ cao hơn và ít sử dụng các cách ứng phó “lảng tránh”, “tiêu cực” để ứng phó với
khó khăn trong học tập.
PHÍ CÔNG MẠNH – NGUYỄN QUANG UẨN
104
4. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy, nhìn chung, SV đã biết cách ứng phó với
những khó khăn trong học tập, thể hiện ở việc lựa chọn các cách ứng phó hiệu quả
nhiều hơn so với các cách ứng phó không hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn còn một số SV sử
dụng cách ứng phó tiêu cực.
Kết quả nghiên cứu thực trạng đã cung cấp những cơ sở thực tiễn cần thiết để các nhà
nghiên cứu xác định những biện pháp nhằm nâng cao khả năng ứng phó của SVNT1,
trường ĐHSP – ĐHH. Kết quả thử nghiệm cho thấy việc sử dụng biện pháp nhằm nâng
cao khả năng ứng phó với khó khăn trong học tập của SVNT1 là có tính khả thi và có
thể sử dụng rộng rãi với số lượng sinh viên năm thứ nhất lớn hơn.
Nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở khó khăn trong học tập, trong khi SVNT1 còn phải
ứng phó với nhiều khó khăn khác nữa. Vì vậy, cần có thêm những nghiên cứu về ứng
phó với các loại khó khăn khác. Ngoài ra, cần có những nghiên cứu thực nghiệm các
biện pháp tác động để nâng cao khả năng ứng phó với khó khăn trong học tập của
SVNT1, trường ĐHSP - ĐHH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Thị Tú Anh (2010). Cách ứng phó với khó khăn tâm lý của sinh viên thiệt thòi
thuộc Đại học Huế. Đề tài dự án PHE. Đại học Huế.
[2] Carver, C. S., Scheier, M. F. & Weintraub (1989). Assessing coping strategies: A
theoretically based approach. Journal of Personality and Social Psychology, 56 (2),
267-283.
[3] Frydenberg, E., & Lewis, R. (1993a). Manual: The Adolescent Coping Scale.
Australian Council for Educational Research, Melbourne.
[4] Đỗ Thị Thu Hồng (2008). Kỹ năng ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống của
học sinh trung học cơ sở tại Hà Nội. Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành tâm lý học,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[5] Phan Thị Mai Hương (2007). Cách ứng phó của trẻ vị thành niên với hoàn cảnh khó
khăn. NXB Khoa học Xã Hội Hà Nội.
[6] Bùi Thị Bích Phượng (2010). Ứng phó với Stress trong học tập của sinh viên Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành Tâm lý học, Trường Đại
Học Sư phạm Hà Nội.
ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG HỌC TẬP CỦA SV NĂM THỨ NHẤT
105
Title: COPING WITH DIFFICULTIES IN LEARNING ACTIVITIES OF FIRST-YEAR
STUDENTS - HUE UNIVERSITY’S COLLEGE OF EDUCATION
Abstract: Coping is an important resource in the learning activities of students in general and
freshman in particular. Coping helps freshman adapt quickly to the demands of learning
activities, allowing them to identify and weaken the sources of difficulties, so that they can
adapt or modify their learning activities, overcome difficulties and learn better. In this paper, we
presented the research result of coping with difficulties in learning activities of first-year
students from Hue University’s College of Education and proposed some experiments to
improve coping capacity for them.
PHÍ CÔNG MẠNH
Học viên Cao học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế.
GS. TS. NGUYỄN QUANG UẨN
Nguyên Trưởng Khoa Tâm lý - Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12_166_phicongmanh_nguyenquanguan_15_phi_cong_manh_5166_2020949.pdf