Ứng dụng phân tích độ co giãn của cầu sản phẩm thịt và cá vào việc hoạch định chính sách

Dựa trên kết quả nghiên cứu đáng tin cậy về cầu thịt cá và hệ số co giãn của cầu theo giá, theo thu nhập bằng việc sử dụng bộ dữ liệu của cuộc khảo sát về mức sống hộ gia đình ở Việt Nam năm 2008. Các gợi ý chính sách cho thực phẩm đáng chú ý đã được thiết lập. Thứ nhất, ta có thể sử dụng các độ co giãn theo giá riêng, theo giá chéo và theo thu nhập để dự báo lượng cầu tiêu dùng các mặt hàng thịt và cá trong tương lai. Thứ hai, các chính sách thực phẩm có hiệu quả cần phải đặt sự chú ý đến các yếu tố về giá riêng, thu nhập, trong đó sự phối hợp cả hai chính sách giá cả và thu nhập có thể đem lại hiệu quả hơn trong việc tác động đến kiểu hình tiêu dùng thịt lợn, thịt gà và thịt bò hơn là chỉ sử dụng một trong hai chính sách đó riêng biệt. Trong khi đó, đối với cá thì các chính sách hướng vào thu nhập (ví dụ như làm tăng thu nhập của hộ gia đình) sẽ có tác động lớn hơn vào việc thúc đẩy tiêu dùng mặt hàng này hơn là các chính sách giá có liên quan. Ngoài ra, chính sách hỗ trợ, khuyến khích người sản xuất như: chính sách đất đai, hỗ trợ lãi suất vay vốn hoặc giảm thuế thu nhập hoặc trợ giá, xúc tiến thương mại cũng cần được quan tâm để tăng lượng cung hàng hóa thực phẩm.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng phân tích độ co giãn của cầu sản phẩm thịt và cá vào việc hoạch định chính sách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 67 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC ỨNG DỤNG PHÂN TÍCH ĐỘ CO GIÃN CỦA CẦU SẢN PHẨM THỊT VÀ CÁ VÀO VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ELASTICITY OF DEMAND ON MEAT AND FISH PRODUCTS ANALYSIS: APPLICATION FOR FOOD POLICY PLANNING Vũ Thị Hoa1 Ngày nhận bài: 28/01/2013; N gày phản biện thông qua: 25/4/2013; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013 TÓM TẮT Bài báo này ước lượng độ co giãn của cầu theo giá và chi tiêu cho 4 loại thực phẩm chính ở Việt Nam bằng việc áp dụng mô hình QUAIDS với bộ dữ liệu khảo sát về mức sống hộ gia đình năm 2008 (VHLSS2008). Kết quả cho thấy thịt lợn là hàng hóa thiết yếu, trong khi đó thịt bò, thịt gà và cá là hàng hóa xa xỉ. Nghiên cứu cũng chỉ ra cá co giãn nhiều theo chi tiêu và co giãn ít theo giá riêng. Cầu hai mặt hàng thịt lợn và cá là ít co giãn theo giá riêng. Ngược lại, cầu cho hai mặt hàng thịt bò và thịt gà lại nhạy cảm hơn về giá. Trên cơ sở các kết quả ước tính độ co giãn, các gợi ý chính sách được đề xuất: (1) chính sách định hướng theo thu nhập sẽ có hiệu quả lớn hơn vào việc thúc đẩy tiêu thụ cá so với chính sách giá có liên quan, trong khi một sự phối hợp cả hai chính sách giá cả và thu nhập có thể đem lại hiệu quả hơn trong việc tác động đến kiểu hình tiêu dùng thịt lợn, thịt gà và thịt bò hơn là chỉ sử dụng một trong hai chính sách đó. (2) Một sự giảm giá đáng kể liên quan với việc tăng sản lượng thịt lợn cà cá sẽ vừa mang lại lợi ích cho người dân, vừa góp phần phát triển kinh tế đất nước. Và (3) chính sách hỗ trợ, khuyến khích người sản xuất cũng cần được quan tâm nhằm tăng lượng cung hàng hóa thực phẩm. Từ khóa: Mô hình QUAIDS, độ co giãn, thịt, cá, Việt Nam ABSTRACT This paper estimates price and income elasticities of demand on four kind of food in Vietnam base on the survey data on household living standards in 2008 (VHLSS2008) by applying QUAIDS model. The results showed that pork is essential goods, while beef, chicken and fi sh are luxury goods. The research also indicates fi sh have income elasticity and ownprice inelasticity. The demand of pork and fi sh is own price inelastic. In contrast, the demand on both beef and chicken items are more sensitive to the price. Main policy implications of the result include inter alia (1) income oriented policies will have a greater effect on promoting fi sh consumption than price related policies, while a concerted of both price and income policy can be more effective in infl uencing consumption pork, chicken and beef pattern than just using one of the two policies. (2) A signifi cant price decline associated with increased production of pork and fi sh will be both benefi cial to the people, and contribute to economic development of the country since the two commodities have low own-price elasticities of demand. And (3) policies to support, encourage producers also should be established to increase the supply of food commodities. Keywords: QUAIDS model, elasticity, meat, fi sh, Vietnam. 1 ThS. Vũ Thị Hoa: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ Việc phân tích cầu tiêu dùng của hộ gia đình cho các loại thực phẩm khác nhau là một vấn đề rất quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt cho mục đích hoạch định chính sách (Sadoulet và Janvry, 1995). Trọng tâm của phân tích cầu tiêu dùng là ước lượng các độ co giãn của cầu theo giá, theo chi tiêu, hoặc theo các nhân tố khác có ảnh hưởng đến cầu tiêu dùng thực phẩm của hộ gia đình, từ đó sẽ hỗ trợ việc xác định cơ cấu và phát triển các chính sách nông nghiệp và thực phẩm khác nhau. Tuy nhiên, Việt Nam có rất ít các nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện để ước lượng các độ co giãn của cầu cho thực phẩm nhằm phục vụ Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 68 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG cho mục đích hoạch định chính sách. Vì vậy, các nhà xây dựng mô hình và các nhà phân tích chính sách phải dựa trên những đánh giá mang tính chủ quan hoặc các ước lượng độ co giãn không được công bố. Do vậy, các phân tích chính sách đó phần nào không phản ánh đúng thực tế và không đáng tin cậy. Mục tiêu của nghiên cứu này là để ước lượng các độ co giãn của cầu theo giá và theo chi tiêu cho các mặt hàng thịt và cá, một cách đáng tin cậy để có những thông số quan trọng trên cơ sở đó đề ra một số các gợi ý về hoạch định chính sách, để dự báo cầu tiêu dùng thịt và cá trong thời gian tới, và cũng có thể được sử dụng trong bối cảnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên một khung phân tích và lý thuyết có cấu trúc tốt với bộ dữ liệu khảo sát mức sống của hộ gia đình ở Việt Nam năm 2008 (VHLSS2008). Do vậy, các kết quả đã được phân tích và thảo luận là đáng tin cậy và có thể được sử dụng để hoạch định chính sách liên quan đến tiêu dùng các mặt hàng thịt và cá ở Việt Nam. II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý thuyết Về độ co giãn: Độ co giãn của cầu đo lường mức độ phản ứng trong lượng cầu đối với sự thay đổi của một trong những nhân tố ảnh hưởng đến nó, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Các nhà kinh tế học thường đề cập đến độ co giãn của cầu theo giá, theo thu nhập và theo giá chéo. Cho phương trình hàm cầu Marshallian của người tiêu dùng Di(p, x), để xác định các độ co giãn này chúng ta định nghĩa như sau: Độ co giãn của cầu theo thu nhập đo lường mức độ nhạy cảm về lượng cầu của một mặt hàng khi thu nhập của người tiêu dùng thay đổi với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Nó cho biết khi thu nhập thay đổi 1% thì lượng cầu thay đổi bao nhiêu %. Độ co giãn của cầu theo thu nhập được tính như sau: Theo kinh tế học: Nếu Ai < 0: hàng hóa đang xét là hàng hóa thứ cấp. Nếu Ai > 0: hàng hóa bình thường, trong đó 0 < Ai < 1 thì hàng hóa đang xét là hàng hóa thiết yếu; nếu Ai > 1 thì hàng hóa đang xét là hàng hóa xa xỉ; Độ co giãn của cầu theo giá riêng đo lường mức độ nhạy cảm trong thay đổi lượng cầu của một hàng hóa khi giá cả của chính nó thay đổi với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Nó cho biết khi giá thay đổi 1% thì lượng cầu của hàng hóa đó thay đổi bao nhiêu %. Độ co giãn của cầu theo giá riêng được xác định như sau: Đối với hầu hết các loại hàng hóa thì Eii < 0 (ngoại trừ hàng hóa Giffen thì Eii > 0). Nếu: cầu co giãn nhiều; nếu: cầu co giãn ít; nếu thì cầu co giãn đơn vị; nếu thì cầu hoàn toàn không co giãn; và nếu thì cầu co giãn hoàn toàn. Độ co giãn của cầu theo giá chéo Marshallian (độ co giãn không bù đắp) đo lường mức độ nhạy cảm trong thay đổi lượng cầu của một hàng hóa khi giá cả các hàng hóa khác thay đổi, với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Nó cho biết khi giá của mặt hàng liên quan thay đổi 1% thì lượng cầu của hàng hóa thay đổi bao nhiêu %. Độ co giãn của cầu sản phẩm i theo giá chéo sản phẩm j được tính như sau: Nếu Eij > 0 thì i và j là hai hàng hóa thay thế gộp; nếu Eij < 0 thì i và j là hai hàng hóa bổ sung gộp; và nếu Eij = 0 thì i và j là hai hàng hóa độc lập. Các nhà kinh tế học thường xét đến độ co giãn của cầu theo giá, theo thu nhập và theo giá chéo. Các độ co giãn này cung cấp các thông tin quan trọng cho các doanh nghiệp trong việc hoạch định các chính sách liên quan nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Ví dụ, độ co giãn được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu các tác động của sự thay đổi về giá hàng hoá lên tổng doanh thu của các hãng sản xuất. Xét tổng doanh thu (Total revenue - TR): Tổng do- anh thu bằng tích số của giá bán (P) với số lượng hàng hoá (Q): TR=P*Q. “Luật cầu” cho ta biết khi giá bán hàng hóa tăng lên thì lượng cầu sẽ giảm, nhưng không cho ta biết lượng cầu sẽ giảm bao nhiêu. Độ co giãn của cầu theo giá là một đo lường cung cấp về thông tin đó. Với cầu co giãn, tổng doanh thu sẽ giảm nếu giá được nâng lên. Tuy nhiên, với nhu cầu ít co giãn, tổng doanh thu sẽ tăng nếu giá được nâng lên. Khả năng tăng giá và tăng doanh số bán hàng cùng một lúc là rất hấp dẫn đối với các nhà quản lý. Điều này chỉ xảy ra nếu đường cầu ít co giãn. Về mô hình nghiên cứu: Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên khung phân tích mô hình QUAIDS (Quadratic Almost Ideal Demand System) của Banks và cộng sự (1997). Dạng ước lượng của mô hình QUAIDS như sau: Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 69 Để tính độ co giãn trong mô hình hàm cầu Hicksian chúng ta sử dụng phương trình Slutsky (Barten, 1964) như sau: (Eij*: độ co giãn Hicksian; Eij: độ co giãn Marshallian). 2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu Phương pháp kinh tế lượng để ước lượng hàm cầu cho các sản phẩm thịt và cá; ước lượng các độ co giãn của cầu cho các mặt hàng thịt và cá theo các nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến nó. Các kết quả kinh tế lượng có thể được sử dụng cho các đánh giá mang tính định lượng và là cơ sở để kiểm định bản chất các mối quan hệ lý thuyết trong thực tiễn thị trường. Dữ liệu cho nghiên cứu này là nguồn dữ liệu thứ cấp, thuộc loại dữ liệu chéo được thu thập từ cuộc điều tra về mức sống của hộ gia đình ở Việt Nam năm 2008 (VHLSS2008). Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng mẫu “thu nhập và chi tiêu” gồm 9.189 hộ gia đình trong cuộc khảo sát để phân tích vì ở mẫu này có đầy đủ dữ liệu về tất cả các biến cần thiết cho yêu cầu của nghiên cứu này. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Kết quả nghiên cứu Tác giả đã tiến hành ước lượng các độ co giãn của cầu (Marshallian và Hicksian) theo giá và theo thu nhập cho các mặt hàng thịt và cá nói trên dựa trên các tham số ước lượng của mô hình LA/QUAIDS thể hiện trong bảng 1. Trong đó: wi là tỷ phần chi tiêu cho mặt hàng i, pj là giá của mặt hàng j, x là tổng chi tiêu của các mặt hàng có trong hệ thống, γ là hệ số của biến giá, β là hệ số của biến chi tiêu (thu nhập) và η là hệ số của biến chi tiêu bình phương. Theo Matsuda (2006), độ co giãn theo chi tiêu được tính như sau: , i = 1, 2, , n. Và độ co giãn theo giá riêng (i = j) và theo giá chéo (i ≠ j): , i, j = 1, 2, , n. Bảng 1. Độ co giãn của cầu theo giá riêng (Eii) và theo chi tiêu (Ai) các mặt hàng thịt và cá Mặt hàng Độ co giãn theo giá riêng Độ co giãn theo chi tiêu Eii Eii * Ai Thịt lợn -0,8219 -0,3434 0,8939 Thịt bò -1,2076 -1,1429 1,0091 Thịt gà -1,3564 -1,2954 1,0238 Cá -0,9170 -0,5214 1,1607 Ghi chú: Eii: Độ co giãn Marshallian; Eii *: Độ co giãn Hicksian. Kết quả ở bảng 1 chỉ ra rằng độ co giãn theo chi tiêu lần lượt là 0,8939, 1,0091, 1,0238, và 1,1607 cho thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá. Kết quả này ngụ ý rằng cầu cho mặt hàng cá là nhạy cảm nhất đối với sự thay đổi trong tổng chi tiêu, tiếp theo là thịt gà, thịt bò và thịt lợn, nghĩa là mặt hàng cá sẽ được chi tiêu nhiều nhất hoặc ít nhất trong ba mặt hàng cạnh tranh còn lại khi người tiêu dùng tăng hoặc giảm chi tiêu lên các mặt hàng thịt và cá. Các độ co giãn theo chi tiêu cho các mặt hàng thịt và cá này chỉ ra rằng nếu thu nhập của hộ gia đình tăng lên thì lượng cầu cho các mặt hàng này cũng tăng. Thêm vào đó, mặt hàng cá đã giành được một vị trí quan trọng trong chế độ ăn uống của người dân Việt Nam như được chỉ ra bởi độ co giãn theo chi tiêu cao và độ co giãn theo giá riêng thấp. Bên cạnh đó, độ co giãn không bù đắp và bù đắp theo giá riêng của mặt hàng thịt lợn và cá là nhỏ hơn 1, có nghĩa là cầu thịt lợn và cá là ít nhạy cảm với giá. Ngược lại, độ co giãn không bù đắp và bù đắp theo giá riêng của thịt bò và thịt gà là lớn hơn 1, chỉ ra rằng cầu thịt bò và thịt gà lại rất nhạy cảm với sự thay đổi của giá cả. Độ co giãn không bù đắp theo giá riêng bao gồm hai ảnh hưởng thành phần, tức là ảnh hưởng thay thế hay ảnh hưởng của giá và ảnh hưởng thu nhập. Độ co giãn không bù đắp của cầu theo giá riêng Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 70 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG cho thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá lần lượt là -0,8219, -1,2076, -1,3564 và -0,9170 chỉ ra rằng nếu giá giảm 10% (với điều kiện các yếu tố khác không đổi) khi đó lượng cầu cho thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá sẽ tăng lên lần lượt là 8,219%, 12,076%, 13,564%, và 9,170%. Trong tổng số tăng lên trong lượng cầu đó thì phần tăng lên do ảnh hưởng thay thế lần lượt là 3,434%, 11,429%, 12,954% và 5,214% cho thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá, nghĩa là phần tăng lên do ảnh hưởng thay thế này chính là độ co giãn bù đắp Hicksian. Ảnh hưởng thu nhập của việc giá giảm giải thích cho phần còn lại lần lượt là 4,785% (tức là 8,219% - 3,434% = 4,785%), 0,647%, 0,61% và 3,956% cho thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá tăng lên do tăng trong thu nhập thực tế, mặc dù thu nhập danh nghĩa vẫn không thay đổi. 2. Hoạch định chính sách (1) Dự báo lượng cầu tiêu dùng các mặt hàng thịt và cá: Nếu cho trước phần trăm thay đổi trong giá của các hàng hóa khác nhau và phần trăm thay đổi trong thu nhập, chúng ta có thể tính được phần trăm thay đổi trong lượng cầu cho hàng hóa i. Giả sử, nếu giá thay đổi một lượng là và thu nhập thay đổi một lượng là thì khi đó lượng cầu sẽ thay đổi một lượng là: (1) - Eij : là độ co giãn theo giá riêng (i = j) và giá chéo (i ≠ j) cho hàng hóa i. - Ai : là độ co giãn theo chi tiêu (thu nhập) cho hàng hóa i. - : là phần trăm thay đổi trong lượng cầu hàng hóa i. - : là phần trăm thay đổi trong giá của hàng hóa i. - : là phần trăm thay đổi trong thu nhập của hộ gia đình. Dựa vào kết quả ước lượng độ co giãn của cầu theo giá trong bảng 1 có thể thấy rằng chi tiêu cá, thịt gà và thịt bò trong tương lai sẽ tăng lên nhanh chóng nếu như nền kinh tế của Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Giả thuyết rằng đường cung của các mặt hàng này được cố định, sự dịch chuyển đường cầu đi lên (qua phải) sẽ ngụ ý rằng giá cân bằng của thị trường sẽ tăng lên. Vì độ co giãn theo giá riêng của thịt lợn và cá là nhỏ hơn 1, nó được dự đoán rằng sự gia tăng giá do sự dịch chuyển của đường cầu sẽ dẫn đến một sự giảm trong lượng cầu với một tỷ lệ nhỏ hơn tỷ lệ tăng của giá. Vì vậy, bất cứ chính sách nào nhằm để gia tăng thu nhập của người dân là có khả năng để tăng cường các cơ hội có được một chế độ ăn uống chất lượng cao. Bên cạnh đó, nếu thu nhập cũng tăng lên 10% đồng thời giảm 10% trong giá của các mặt hàng thịt và cá (với điều kiện các yếu tố khác không đổi) thì lượng cầu thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá sẽ tăng lên lần lượt là 17,158% (tức 8,219% + 8,939% = 17,158%), 22,167%, 23,802%, và 20,777%. Tuy nhiên, khi thu nhập tăng lên sẽ làm dịch chuyển đường cầu của các mặt hàng này đi lên (dịch chuyển qua phải), kết quả là làm tăng giá các mặt hàng này. Đây là điều không mong muốn trong một đất nước như Việt Nam, nơi mà phần lớn người dân thuộc nhóm có thu nhập thấp và phải phụ thuộc nhiều vào thị trường. Bên cạnh đó, dựa trên số liệu thống kê về chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất các mặt hàng nông, lâm, thủy sản do Tổng cục Thống kê thu thập2. Áp dụng công thức số nhân bình quân ta tính được chỉ số giá bình quân cho các mặt hàng nông, lâm, thủy sản từ năm 2000 đến 2011 ở Việt Nam. Kết quả cho thấy, giai đoạn từ năm 2000 - 2011 trung bình mỗi năm giá bán sản phẩm chăn nuôi gia súc tăng khoảng 11%, gia cầm tăng khoảng 8% và sản phẩm thủy sản tăng khoảng 9%. Trong nghiên cứu này chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất đối với sản phẩm chăn nuôi gia súc được dùng để đại diện cho biến giá của mặt hàng thịt bò và thịt lợn; chỉ số giá chăn nuôi gia cầm đại diện cho biến giá của thị gà; và chỉ số giá bán sản phẩm thủy sản đại diện cho biến giá của cá để làm công tác dự báo. Dựa vào số liệu thống kê được thu thập bởi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) về GDP bình quân đầu người ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 20113, ta ước lượng được mô hình tăng trưởng như sau: . Kết quả từ mô hình này cho ta biết được giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2011 GDP bình quân đầu người ở Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khoảng 12% mỗi năm. Do vậy, ta có thể sử dụng chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người làm biến đại diện cho biến thu nhập (chi tiêu) để dự báo. Ứng dụng công thức (1) để dự đoán thay đổi trong tiêu dùng các sản phẩm thịt và cá trước những thay đổi về giá của chúng và thu nhập của người tiêu dùng. 2 Các số liệu này có sẵn trên trang web của Tổng cục Thống kê Việt Nam, có thể tham khảo tại địa chỉ default.aspx?tabid=433&idmid=3. 3 Số liệu có sẵn tại địa chỉ Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 71 Kịch bản 1: Kịch bản này nghiên cứu ảnh hưởng của sự thay đổi trong giá của các mặt hàng thịt và cá cùng với sự thay đổi trong thu nhập (chi tiêu) của người tiêu dùng lên lượng cầu các mặt hàng này. Kết quả ở bảng 2 cho thấy, nếu giá các mặt hàng thịt lợn, thịt bò tăng 11%, thịt gà tăng 8% và giá cá tăng lên 9%, đồng thời thu nhập cũng tăng 12% với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Khi đó lượng cầu các mặt hàng thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá tăng lên lần lượt là 0,99%, 0,22%, 5,02% và 2,98%. Bảng 2. Dự báo sự thay đổi trong lượng cầu các mặt hàng thịt và cá Mặt hàng Phần trăm (%) thay đổi trong % thay đổi trong lượng cầuGiá thịt lợn và thịt bò Giá thịt gà Giá cá Thu nhập Thịt lợn 11 8 9 12 0,99 Thịt bò 11 8 9 12 0,22 Thịt gà 11 8 9 12 5,02 Cá 11 8 9 12 2,98 (Nguồn: Tính toán của tác giả) Kịch bản 2: Một cú sốc ngắn hạn đối với giá các mặt hàng thịt và cá. Kịch bản chính sách này giả sử giá các mặt hàng thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá tăng lên đột biến khi có một biến cố về kinh tế, chính tri, xã hội nào đó xảy ra. Ví dụ, năm 2008 chỉ số giá bán sản phẩm chăn nuôi gia súc, gia cầm và sản phẩm thủy sản tăng lên đột biến lần lượt là 70,4%, 38,0% và 20,1% so với năm 2007 4. Đây là năm mà kinh tế thế giới và Việt Nam rơi vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. Trong trường hợp này thì lượng cầu các mặt hàng thịt và cá sẽ thay đổi như thế nào? Chúng ta cũng giả định là thu nhập bình quân đầu người tăng 12% mỗi năm. Kết quả ở bảng 3 cho thấy, với một cú sốc về giá xảy ra trong ngắn hạn, ví dụ như năm 2008 thì khi đó lượng cầu cho các mặt hàng thịt lợn, thịt bò, thịt gà và cá giảm mạnh lần lượt là 48,59%, 71,59%, 17,83% và 21,62%. Bảng 3. Dự báo sự thay đổi trong lượng cầu các mặt hàng thịt và cá khi có một cú sốc trong ngắn hạn đối với giá Mặt hàng Phần trăm (%) thay đổi trong % thay đổi trong lượng cầuGiá thịt lợn và thịt bò Giá thịt gà Giá cá Thu nhập Thịt lợn 70 38 20 12 -48,59 Thịt bò 70 38 20 12 -71,59 Thịt gà 70 38 20 12 -17,83 Cá 70 38 20 12 -21,62 (Nguồn: Tính toán của tác giả) Kịch bản 3: Một sự trợ cấp khoảng 10% cho các mặt hàng thịt và cá. Kịch bản chính sách này đưa ra với giả định rằng Nhà nước thực hiện trợ cấp cho các mặt hàng thịt và cá khoảng 10%, điều này ngụ ý rằng giá của các mặt hàng này sẽ giảm xuống, khi đó lượng cầu các mặt hàng này cũng sẽ bị ảnh hưởng theo. Giả sử thu nhập bình quân đầu người tăng 12%. Bảng 4. Dự báo sự thay đổi trong lượng cầu các mặt hàng thịt và cá khi có trợ cấp Mặt hàng Phần trăm (%) thay đổi trong % thay đổi trong lượng cầuGiá thịt lợn và thịt bò Giá thịt gà Giá cá Thu nhập Thịt lợn -10 -10 -10 12 19,67 Thịt bò -10 -10 -10 12 22,18 Thịt gà -10 -10 -10 12 22,52 Cá -10 -10 -10 12 25,53 (Nguồn: Tính toán của tác giả) 4 Các số liệu này có sẵn trên trang web của Tổng cục Thống kê Việt Nam, có thể tham khảo tại địa chỉ default.aspx?tabid=433&idmid=3. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 72 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Kết quả trên cho thấy, khi có trợ cấp của Nhà nước khoảng 10% cho các mặt hàng thịt và cá, đồng thời thu nhập bình quân đầu người tăng 12% thì khi đó lượng cầu các mặt hàng này tăng lên lần lượt là 19,67%, 22,18%, 22,52% và 25,53%. Như vậy, Nhà nước có thể sử dụng chính sách trợ cấp, cùng với các chính sách làm tăng thu nhập của người dân để tác động vào các kiểu hình chi tiêu các sản phẩm thịt và cá nhằm làm tăng chất lượng bữa ăn của người dân Việt Nam. (2) Tiêu dùng cá là ít co giãn đối với giá riêng nhưng lại co giãn nhiều đối với chi tiêu (thu nhập). Một cách tổng quát, kết quả này đề nghị rằng các nhà làm chính sách nên thiết kế các chính sách hướng vào thu nhập (ví dụ như làm tăng thu nhập của hộ gia đình) sẽ có tác động lớn hơn vào việc thúc đẩy tiêu dùng mặt hàng này hơn là các chính sách giá có liên quan. Mặt khác, không có sự khác biệt một cách có hệ thống trong giá trị tuyệt đối về độ lớn giữa độ co giãn theo chi tiêu và độ co giãn theo giá riêng đối với thịt lợn, thịt gà và thịt bò (không thể nói rằng các hộ gia đình là nhạy cảm hơn đối với sự thay đổi của chi tiêu hay thu nhập hơn là sự thay đổi của giá cả). Điều này ngụ ý rằng một sự phối hợp cả hai chính sách giá cả và thu nhập có thể đem lại hiệu quả hơn trong việc tác động đến kiểu hình tiêu dùng thịt lợn, thịt gà và thịt bò hơn là chỉ sử dụng một trong hai chính sách đó. (3) Đối với mặt hàng thịt lợn và cá có độ co giãn của cầu theo giá riêng thấp (ít co giãn). Trên thực tế, các nhà hoạch định chính sách cho lĩnh vực này thường hướng vào việc gia tăng sản lượng sản xuất hai mặt hàng này để vừa mang lại lợi ích cho người dân, vừa góp phần phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cách làm này chỉ đem lại lợi ích cho người dân còn các nhà sản xuất thì bị thiệt, vì khi mở rộng sản xuất đồng nghĩa với việc gia tăng chi phí nhưng doanh thu lại giảm (vì các mặt hàng này có độ co giãn theo giá riêng nhỏ hơn 1) nên lợi nhuận bị giảm đi. Điều này làm cho các nhà sản xuất ít mặn mà với việc mở rộng sản xuất. Để chính sách khuyến khích sản xuất (tăng cung) có hiệu quả thì Chính phủ cần phải có các chính sách hỗ trợ người sản xuất như: chính sách đất đai, hỗ trợ lãi suất vay vốn hoặc giảm thuế thu nhập hoặc trợ giá, xúc tiến thương mại. (4) Độ co giãn bù đắp (Hicksian) theo giá riêng của thịt lợn và cá nhỏ hơn nhiều so với độ co giãn không bù đắp (Marshallian). Kết quả này cho ta kết luận rằng lượng cầu hai mặt hàng này chịu tác động bởi ảnh hưởng thu nhập nhiều hơn là ảnh hưởng thay thế. Điều này gợi nên một chính sách nâng cao thu nhập của người dân sẽ dẫn đến nâng cao chất lượng bữa ăn của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, khi thu nhập tăng lên sẽ làm dịch chuyển đường cầu của các mặt hàng này đi lên (dịch chuyển qua phải), kết quả là làm tăng giá các mặt hàng này (với giả định là cung các mặt hàng này không đổi). Đây là điều không mong muốn trong một đất nước như Việt Nam, nơi mà phần lớn người dân thuộc nhóm có thu nhập thấp và phải phụ thuộc nhiều vào thị trường. Để nâng cao tiêu dùng của người dân và ổn định giá cả thị trường thì Nhà nước cần khuyến khích sản xuất các mặt hàng này nhằm tăng cung để giảm giá bằng các chính sách như giảm thuế thu nhập hoặc hỗ trợ lãi suất vay vốn như đã nói ở trên. IV. KẾT LUẬN Dựa trên kết quả nghiên cứu đáng tin cậy về cầu thịt cá và hệ số co giãn của cầu theo giá, theo thu nhập bằng việc sử dụng bộ dữ liệu của cuộc khảo sát về mức sống hộ gia đình ở Việt Nam năm 2008. Các gợi ý chính sách cho thực phẩm đáng chú ý đã được thiết lập. Thứ nhất, ta có thể sử dụng các độ co giãn theo giá riêng, theo giá chéo và theo thu nhập để dự báo lượng cầu tiêu dùng các mặt hàng thịt và cá trong tương lai. Thứ hai, các chính sách thực phẩm có hiệu quả cần phải đặt sự chú ý đến các yếu tố về giá riêng, thu nhập, trong đó sự phối hợp cả hai chính sách giá cả và thu nhập có thể đem lại hiệu quả hơn trong việc tác động đến kiểu hình tiêu dùng thịt lợn, thịt gà và thịt bò hơn là chỉ sử dụng một trong hai chính sách đó riêng biệt. Trong khi đó, đối với cá thì các chính sách hướng vào thu nhập (ví dụ như làm tăng thu nhập của hộ gia đình) sẽ có tác động lớn hơn vào việc thúc đẩy tiêu dùng mặt hàng này hơn là các chính sách giá có liên quan. Ngoài ra, chính sách hỗ trợ, khuyến khích người sản xuất như: chính sách đất đai, hỗ trợ lãi suất vay vốn hoặc giảm thuế thu nhập hoặc trợ giá, xúc tiến thương mại cũng cần được quan tâm để tăng lượng cung hàng hóa thực phẩm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Banks, J., R. Blundell, and A. Lewbel., 1997. Quadratic Engel Curves and Consumer Demand. Review of Economics and Statistics, 79(4), 527-539. 2. Barten, A. P., 1964. Consumer demand functions under conditions of almost additive preferences. Econometrica, 32, 1-38. 3. Matsuda, T., 2006. Linear Approximations to the Quadratic Almost Ideal Demand System. Empirical Economics, 31, 663-675. 4. Sadoulet, E., and A. de Janvry, 1995. Quantitative Development Policy Analysis. Johns Hopkins University Press. 5. Website của Tổng cục Thống kê Việt Nam: 6. 7. Quỹ tiền tệ quốc tế: 8.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfung_dung_phan_tich_do_co_gian_cua_cau_san_pham_thit_va_ca_va.pdf