KẾT LUẬN
Các chấm lượng tử với độ chói, độ bền quang
cao, hiệu suất phát quang lớn đang và sẽ được
sử dụng trong các ứng dụng đánh dấu và hiện
ảnh sinh học, và đặc biệt trong các thí nghiệm
theo dõi các hiện tượng và phản ứng sinh học
theo thời gian. Do bước sóng phát xạ phụ
thuộc vào kích thước và thành phần hóa học
nên các chấm lượng tử nên các chấm lượng tử
rất được chú trọng ứng dụng trong các phép
phân tích đa kênh. Tuy nhiên do độ độc hại và
tính chất huỳnh quang nhấp nháy, các chấm
lượng tử vẫn cần được nghiên cứu để có thể
ứng dụng trong các nghiên cứu in vivo.
9 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 538 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng đánh dấu sinh học của các chấm lượng tử bán dẫn - Chu Việt Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
151
ỨNG DỤNG ĐÁNH DẤU SINH HỌC CỦA CÁC CHẤM LƯỢNG TỬ BÁN DẪN
Chu Việt Hà1, Trần Anh Đức1, Đỗ Thị Duyên1,
Vũ Thị Kim Liên1*, Trần Hồng Nhung2
1Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
2Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
TÓM TẮT
So sánh với chất màu hữu cơ truyền thống và các protein phát quang tự nhiên, các chấm lượng tử
bán dẫn có đặc tính quang học và điện tử độc đáo: có thể điều khiển ánh sáng phát xạ nhờ thay đổi
kích thước, phổ phát xạ hẹp và đối xứng ,độ chói cao, thời gian sống phát quang dài và điểm đặc
biệt nhất là độ bền quang cao (gấp vài trăm lần so với chất màu hữu cơ), ít bị tẩy quang, và quang
phổ hấp thụ rộng dễ kích thích đồng thời của nhiều màu sắc huỳnh quang. Với các tính chất quang
lý đó, việc ứng dụng các hạt nano chấm lượng tử bán dẫn phân tán được trong nước để ứng dụng
cho mục đích đánh dấu sinh học đã và đang được thực hiện cả trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Các tiến bộ gần đây giúp phát triển thiết bị thăm dò các hạt nano đa chức năng, cho thấy phát xạ
của các hạt nano này là rất sáng và ổn định trong điều kiện phức tạp của cơ thể sống. Các chấm
lượng tử ứng dụng trong đánh dấu sinh học đã đặt ra khả năng mới cho hình ảnh siêu nhạy và ghép
các mục tiêu phân tử trong tế bào sống, các mô động vật và cơ thể con người. Chấm lượng tử hiện
nay có rất nhiều ứng dụng trong y-sinh như làm chất đánh dấu hiện ảnh phân tử và tế bào cả in
vitro và in vivo, làm các cảm biến sinh học. Bài báo này trình bày tổng quan về các ứng dụng đánh
dấu sinh học của các chấm lượng tử trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: chấm lượng tử bán dẫn, đánh dấu sinh học, hạt nano
TỔNG QUAN VỀ CÁC CHẤM LƯỢNG TỬ*
Các chấm lượng tử kể từ khi được phát hiện,
đã dần trở thành các chất dán nhãn huỳnh
quang quan trọng dùng trong cảm biến sinh
học và hiện ảnh [1]. Các chấm lượng tử là
những tinh thể nano bán dẫn bao gồm các
nguyên tử của các nguyên tố nhóm II - VI (ví
dụ, Cd, Zn, Se, Te) hoặc III-V (ví dụ, In, P,
As) trong bảng hệ thống tuần hoàn các
nguyên tố hóa học. Các hiệu ứng lượng tử xảy
ra khi kích thước tinh thể có thể so sánh với
bước sóng de Broglie của điện tử và lỗ trống.
Khi đó cả điện tử và lỗ trống đều bị giam giữ
và các mức năng lượng của chúng bị lượng tử
hóa. Sự giam giữ lượng tử làm gián đoạn các
mức năng lượng theo chiều giam giữ và làm
thay đổi mật độ trạng thái theo năng lượng.
Kết quả là hấp thụ hay phát xạ của các chấm
lượng tử phụ thuộc vào kích thước hạt, nghĩa
là người ta có thể điều khiển được tính chất
quang (ví dụ màu phát xạ huỳnh quang) theo
kích thước của các chấm lượng tử. Các chấm
lượng tử có phổ hấp thụ rộng, phổ phát xạ
hẹp, do đó có thể linh hoạt lựa chọn bước
sóng kích thích cũng như giảm thiểu sự chồng
chập phổ phát xạ từ các chấm lượng tử đa
*
Tel: 0912 789436, Email: lienvusptn@gmail.com
thành phần, làm cho chúng trở thành các chất
dán nhãn tuyệt vời với sự sàng lọc thông
lượng cao. Ngoài ra, việc lựa chọn bước sóng
kích thích xa các bước sóng phát xạ có thể
loại bỏ sự tán xạ nền. So với các chất màu
hữu cơ, các chấm lượng tử có hiệu suất lượng
tử tương tự nhưng hệ số dập tắt lớn hơn, làm
giảm tốc độ dập tắt quang [2]. Độ chói huỳnh
quang của các chấm lượng tử cũng lớn hơn độ
chói của chất màu hữu cơ khoảng 10 đến 20
lần và độ bền quang cao gấp 100 đến 200 lần
[2]. Ngoài ra, bằng cách sử dụng các chấm
lượng tử khác nhau người ta có thể đánh dấu
huỳnh quang trong khoảng rộng từ vùng khả
kiến đến vùng hồng ngoại gần, trong khoảng
từ 400nm đến 2000nm [3]. Các chấm lượng
tử thường được sử dụng trong đánh dấu sinh
học là các chấm lượng tử trên cơ sở CdSe
và CdTe vì phổ phát xạ của chúng trải toàn
bộ vùng phổ nhìn thấy tùy thuộc vào kích
thước [3].
Các chấm lượng tử có phổ hấp thụ liên tục và
rộng tương tự như của vật liệu bán dẫn khối
với một số đỉnh. Phổ hấp thụ kéo dài từ vùng
tử ngoại tới một bước sóng giới hạn trong
vùng nhìn thấy, tương ứng với dịch chuyển cơ
bản, được gọi là đỉnh hấp thụ thứ nhất. Các
chấm lượng tử không hấp thụ ánh sáng có
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
152
bước sóng lớn hơn bước sóng của đỉnh hấp
thụ thứ nhất. Do sự phụ thuộc của các mức
năng lượng điện tử - lỗ trống vào kích thước
và thành phần hóa học của chấm lượng tử nên
bước sóng đỉnh hấp thụ thứ nhất cũng phụ
thuộc vào kích thước và thành phần hóa học
của chấm lượng tử. Các chấm lượng tử càng
nhỏ thì đỉnh hấp thụ thứ nhất càng ở bước
sóng ngắn. Mỗi đỉnh ứng với dịch chuyển
năng lượng giữa các mức năng lượng gián
đoạn của các điện tử - lỗ trống (exciton) [4].
Các chấm lượng tử có phổ hấp thụ rộng nên
huỳnh quang có thể được kích thích ở bước
sóng nào ngắn hơn bước sóng huỳnh quang.
Vì vậy nhiều chấm lượng tử với màu huỳnh
quang khác nhau có thể được kích thích bằng
một ánh sáng đơn sắc (hay bằng một nguồn
đơn). Điều này trái ngược với chất màu hữu
cơ, có tần số cộng hưởng hấp thụ chỉ trong
một vùng tần số hẹp, do đó với mỗi chất màu
hữu cơ chỉ có một bước sóng kích thích xác
định và mỗi bước sóng xác định chỉ kích thích
được một chất màu hữu cơ xác định [5, 6].
Các chấm lượng tử có các mức năng lượng
phụ thuộc vào kích thước nên có thể điều
khiển tính chất quang theo kích thước. Hình 1
trình bày ảnh phát xạ huỳnh quang của dung
dịch các chấm lượng tử CdSe/CdS được chế
tạo tại phòng thí nghiệm Vật lý Chất rắn,
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên với các
màu phát xạ khác nhau dưới ánh sáng kích
thích của đèn tử ngoại.
Hình 1. Ảnh phát xạ của các chấm lượng tử
CdSe/CdS dưới ánh sáng của đèn tử ngoại với các
kích thước lõi CdSe từ trái sang phải là 2,5; 5 và 7
nm [6]
Các kết quả về nghiên cứu động học hạt tải
của các các chấm lượng tử cho thấy thời gian
sống phát quang của chấm lượng tử là khá
lớn, khoảng 10-50 ns, lớn hơn thời gian sống
huỳnh quang của các chất màu hữu cơ chỉ
khoảng 5 ns [1].
Đối với các chấm lượng tử mà thành phần chỉ
là một loại chất bán dẫn (còn gọi là hiệu suất
lượng tử thấp, chỉ cỡ 10% do các tái hợp
không phát xạ tại các trạng thái bề mặt. Để
loại bỏ một cách hiệu quả và bền vững các
tâm tái hợp không bức xạ tại trạng thái bề
mặt, người ta thường tiến hành bọc 1 hoặc 2
đơn lớp các chất bán dẫn với hằng số mạng
tương tự và độ rộng vùng cấm lớn hơn độ
rộng vùng cấm của bán dẫn lõi, khi đó các hạt
mang điện bị bẫy trong hố thế do việc tạo vỏ
bọc xung quang lõi bán dẫn bằng vật liệu bán
dẫn có vùng cấm lớn hơn vật liệu làm lõi (ví
dụ: vỏ ZnS bao quanh lõi CdSe). Với cấu trúc
lõi - vỏ, các hạt mang điện bị giam trong hố
thế, làm giảm sự tái hợp không phát xạ trên
bề mặt chấm lượng tử, do đó hiệu suất lượng
tử tăng lên. Ví dụ đối với tinh thể nano lõi -
vỏ CdSe/ZnS hiệu suất lượng tử có thể đạt
đến 70-80% [5-8].
Các chấm lượng tử có độ bền quang cao và
cao hơn nhiều so với các chất màu hữu cơ
trong cùng một điều kiện do các chấm lượng
tử được tổng hợp từ vật liệu vô cơ nên chúng
ít bị tẩy quang (photobleaching). Ví dụ so
sánh giữa chấm lượng tử CdSe đã có lớp vỏ
bọc (ví dụ CdSe/ZnS) và phân tử Rhodamine
thì chấm lượng tử có độ chói cao gấp 20 lần
và độ bền quang cao hơn 100 lần so với
Rhodamine [5, 9]. Đây là ưu việt của chấm
lượng để dùng trong các thí nghiệm sinh học
diễn ra trong khoảng thời gian dài.
YÊU CẦU CỦA CÁC CHẤM LƯỢNG TỬ
TRONG ĐÁNH SINH HỌC
Vì môi trường sinh học chủ yếu là nước nên
các chấm lượng tử dùng trong đánh dấu sinh
học phải phân tán được trong nước. Mặt khác,
các chấm lượng tử muốn đánh dấu được các
đối tượng sinh học như ADN, protein, kháng
thể, tế bào thì chúng phải gắn kết được với
các đối tượng sinh học đó. Vì vậy các chấm
lượng tử phải có các nhóm chức hóa học thích
hợp để có thể phân tán được trong nước và
gắn kết với các phân tử sinh học, do đó chúng
phải có lớp hợp sinh ưa nước bao quanh. Ví
dụ đối với các chấm lượng tử CdSe/ZnS tồn
tại trong các dung môi hữu cơ với các ligand
là các phân tử TOPO, người ta phải thực hiện
việc trao đổi ligand để làm sao trên bề mặt
của các chấm lượng tử có các nhóm chức làm
cho chấm lượng tử có thể tan được trong
nước và gắn kết được với các đối tượng sinh
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
153
học. Có hai cách chính để làm các chấm
lượng tử này phân tán được trong nước [3],
đó là: i) thay đổi những phân tử bề mặt kỵ
nước TOPO bằng những phân tử hai nhóm
chức mà một đầu tan trong nước liên kết với
phân tử sinh học và một đầu còn lại liên kết
với bề mặt chấm lượng tử; và ii) phủ cho tinh
thể nano bán dẫn kỵ nước vỏ polymer ưa
nước. Trong phương pháp này đuôi kỵ nước
của polymer tương tác với phân tử kỵ nước
trên bề mặt tinh thể và vì vậy hình thành thêm
lớp vỏ. Tính ưa nước của tinh thể nano vỏ
polymer được đảm bảo bởi nhóm ưa nước của
polymer quay ra ngoài.
Một cách tiếp cận để có được các chấm lượng
tử phục vụ cho các ứng dụng đánh dấu sinh
học là chế tạo chúng trực tiếp trong môi
trường nước. Trên thế giới và cả ở nước ta
hiện nay, các chấm lượng tử như CdSe, CdTe
đã và đang được nghiên cứu chế tạo trực tiếp
trong môi trường nước phục vụ cho các ứng
dụng đánh dấu sinh học, rút ngắn bớt thời
gian chế tạo và giảm độ độc hại so với các
chấm lượng tử chế tạo trong dung môi hữu cơ
truyền thống.
MỘT SỐ ỨNG DỤNG ĐÁNH DẤU SINH
HỌC CỦA CÁC CHẤM LƯỢNG TỬ
Cảm biến sinh học (biosensors)
Cảm biến sinh học là một thiết bị có khả năng
tích hợp tác nhân sinh học enzyme, chất nền,
kháng nguyên, kháng thể trong đầu dò để
đo đạc, phát hiện hoặc phân tích hóa chất.
Biosensors phát hiện các phân tử sinh học
quan trọng qua việc tạo ra các tín hiệu quang
hoặc tín hiệu điện, từ đó nhận ra chất phân
tích. Phần lớn các biosensors hoạt động trên
nguyên lý nhận dạng các phân tử; các chuỗi
kháng thể, peptides, protein, ADN được liên
kết chặt chẽ với các phân tử đích với tính đặc
hiệu cao. Các chất màu được gắn kết với các
phân tử nhận biết này để tạo ra một điểm
huỳnh quang khi có sự liên kết đặc hiệu.
Biosensors sử dụng các chấm lượng tử có
nhiều ưu điểm nổi trội so với loại sử dụng các
chất đánh dấu cổ điển. Bề mặt của chấm
lượng tử có thể dễ dàng thay đổi, tạo ra lộ
trình đơn giản cho sự nhận biết các phân tử.
Thêm vào đó, do kích thước nhỏ nên dễ cho
phép đưa chúng vào sử dụng trong các thiết bị
điện tử hiện nay. Nhiều loại biosensors đã
được nghiên cứu nhưng thông dụng nhất là
loại dựa trên sự truyền năng lượng cộng
hưởng huỳnh quang (fluorescence resonance
energy transfer - FRET) hoặc sự kết hợp
nhiều đầu dò huỳnh quang để phát hiện ra
chất phân tích.
Hình 2 là một ví dụ sử dụng chấm lượng tử
làm biosensor. Đây là một nanosensor chấm
lượng tử được dùng để phát hiện đường
maltose. Chấm lượng tử được chức năng hóa
bề mặt với protein liên kết với đường maltose
(MBP) có chứa thành phần β-cyclodextrin-
QSY-9 được gắn chặt vào vị trí liên kết để
dập tắt sự phát xạ của chấm lượng tử (do sự
truyền năng lượng từ chấm lượng tử sang β-
cyclodextrin-QSY-9). Khi maltose có trong
mẫu thì maltose sẽ thay thế cho thành phần β-
cyclodextrin-QSY-9 ngăn cản sự truyền năng
lượng làm chấm lượng tử phát xạ.
Hình 2. Sơ đồ chức năng của một nanosensor
chấm lượng tử phát xạ ở 560 nm nhằm phát hiện
đường maltose [9]
Ví dụ về cảm biến sinh học dựa trên chấm
lượng tử sử dụng trong các phép phân tích di
truyền là xác định động học trong việc sao
chép ADN [10]. Cảm biến sinh học ADN dựa
trên kĩ thuật FRET-QD đã được Patolsky và
cộng sự thực hiện [11]. ADN được kẹp giữa
một đầu dò được biotin hóa và phần tử báo
cáo được dán nhãn với chất màu Cy5. Một
đích ngắm được dán nhãn với một chấm
lượng tử được gắn streptavidin với vài
oligonucleotide gắn xung quanh (xem hình 3).
Chấm lượng tử QD650 và chất màu Cy5 được
chọn làm cặp donor – acceptor. So với đèn
hiệu phân tử thường được sử dụng trong các
ứng dụng ADN lai, phương pháp này tạo ra
một sự đáp ứng cảm biến cao hơn nhiều tại
hầu hết các nồng độ đích được thử nghiệm.
Ứng dụng làm chất đánh dấu huỳnh quang
các tế bào
Ứng dụng phổ biến nhất của các chấm lượng
tử trong sinh học là đánh dấu huỳnh quang
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
154
các tế bào. Các chấm lượng tử được gắn kết
với kháng thể đặc hiệu với các cấu trúc đích
trong tế bào. Hình 4a mô tả các thụ thể tế bào
(màu đen) được đánh dấu bởi các chấm lượng
tử đã được thay đổi các ligand tương thích với
các thụ thể này. Các chấm lượng tử cũng có
thể được dùng để theo dõi sự phát triển của
các tế bào trong nuôi cấy tế bào. Khi tế bào
được đưa vào dung dịch chấm lượng tử, các
chấm lượng tử bắt đầu xâm nhập vào chúng.
Vì các chấm lượng tử có độ bền quang cao
nên có thể quan sát sự phân chia tế bào ở trên
được truyền qua cho cả các tế bào con và tín
hiệu huỳnh quang có thể được quan sát trong
thời gian dài. Hình 4b cho thấy nếu một tế
bào trong một cụm tế bào được đánh dấu với
QDs thì khi tế bào này phân chia, các tế bào
con có thể quan sát được thấy.
Hình 3. Giản đồ hình thành một nanosensor tự
tập hợp (nanosensor assembly) trong sự xuất hiện
của các đích (hình trên) và huỳnh quang của Cy5
xuất hiện khi kích thích QD do FRET từ QD (donor)
đến Cy5 (acceptor) trong một nanosensor [12]
Việc dán nhãn bên ngoài tế bào bởi các chấm
lượng tử tương đối đơn giản, nhưng việc đánh
dấu nội bào là khó khăn hơn rất nhiều. Có
một số phương pháp để nhuộm cấu trúc nội
bào bằng chấm lượng tử, song cho đến nay
vẫn chưa có phương pháp nào đặc biệt thành
công. Kỹ thuật vi tiêm (microinjection) đã
được sử dụng trong dán nhãn tế bào chất ở
phôi ếch và cá ngựa nhưng rất mất thời gian
với quy định phân tích ở thể tích lớn. Chấm
lượng tử hấp thụ vào tế bào qua cả hai con
đường là nội bào và không bào. Việc dán
nhãn tế bào chất bằng chấm lượng tử thông
qua việc tiếp hợp với protein Tat bằng cách
bọc pullulan chịu cholesterol (CHP) có nhóm
amin đã được Hasegawa U và cộng sự thực
hiện [14]. Thêm nữa, việc ghi nhãn sợi actin –
F (một loại protein có trong cơ động vật) bởi
QDs được bọc streptavidin [15] cho thấy có
thể sử dụng chấm lượng tử để bảo vệ các
protein được dán nhãn trong sự hoạt động của
enzyme.
Hình 4. Mô tả tế bào được đánh dấu bằng QDs (a
– QDs được gắn trên các thụ thể của tế bào). Khi
tế bào phân chia, có thể quan sát được các tế bào
con (b) [13]
Ứng dụng để theo dõi tế bào (cell tracking)
Ứng dụng đáng chú ý của chấm lượng tử
trong đánh dấu tế bào là theo dõi động học tế
bào. Thay vì đánh dấu toàn bộ cấu trúc tế bào
thì các phân tử riêng biệt, đơn lẻ cũng có thể
được đánh dấu huỳnh quang bằng chấm lượng
tử, do đó có thể theo dõi chuyển động của
protein màng riêng biệt. Việc phát hiện các
chuyển động của tế bào tăng cho phép đánh
giá, ước lượng khả năng di căn của các tế bào
ưng thư. Các tế bào khi di căn có thể “ăn”
(ingest) các phân tử khác khi chúng di chuyển
tới các phân tử đó, việc để lại phía sau đường
dẫn được biết đến như theo dõi động học thực
bào (phagokinetic track) Chúng có thể dễ
dàng gắn trên cơ chất và kích thước của
chúng thì không ảnh hưởng đến chuyển động
của tế bào. Trong một số thử nghiệm, người
ta đã dùng chấm lượng tử để phân biệt giữa tế
bào ung thư và tế bào không ung thư và chấm
lượng tử vẫn còn phát quang trong hơn một
tuần sau khi được gắn với tế bào. Công trình
đáng chú ý của Tada và cộng sự [16] đã làm
sáng tỏ cơ chế phân phối của các chấm lượng
tử vào các tế bào ung thư vú của con người.
Các tác giả đã sử dụng một dòng tế bào mang
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
155
các thụ thể HER2 (kháng nguyên ung thư vú)
có trên màng tế bào. Các chấm lượng tử được
tiếp hợp với kháng thể đơn dòng trastuzumab
(trastuzumab là kháng thể đơn dòng chọn lọc
với protein HER2, khi liên kết với các khiếm
khuyết protein HER2, protein HER2 không
còn khiến các tế bào trong vú sinh sản không
kiểm soát được; làm tăng sự sống còn của
người bị ung thư) cho hiển thị các hạt nano
trong mạch máu phục vụ các tế bào khối u ở
chuột. Các chấm lượng tử đã giúp xác định
vận tốc và hướng dịch chuyển, sự liên kết của
kháng thể với kháng nguyên HER2 trên màng
tế bào, và sự di chuyển vào khu vực xung
quanh nhân tế bào (perinuclear) (hình 5).
Hình 5. Sơ đồ minh họa phức chấm lượng tử –
kháng thể trastuzumab lưu thông trong mạch máu
khối u di chuyển đến các thụ thể HER2 trên tế bào
ung thư vú [16]
Những ứng dụng in vivo của chấm lượng tử
Ứng dụng hấp dẫn nhất của đánh dấu chấm
lượng tử là sử dụng được trong các phân tích
in vivo [3, 17]. Sự ổn định lâu dài và độ sáng
của chấm lượng tử làm cho chúng trở nên lý
tưởng cho hiện ảnh trong cơ thể sống.Tuy
nhiên, ứng dụng này vẫn còn đầy thách thức.
Đối với các chất màu truyền thống không có
ứng dụng này. Sự truyền qua của ánh sáng
kích thích và phát xạ trong cơ thể sống là rất
khó, chẳng hạn như mô chỉ cho ánh sáng
hồng ngoại truyền qua. Mặt khác sự chuyển
hóa và tính thích ứng sinh học của các tinh
thể nano in vivo phức tạp hơn trong các tế bào
đơn lẻ. Phần lớn các hạt nano chấm lượng tử
được dùng trong các ứng dụng sinh học được
dựa trên cấu trúc Cd-X, với X là Te, S, Se. Cd
gây ra trở ngại cho việc tái tổ hợp cặp đôi của
ADN, là chất gây ung thư. Sự thụ động hóa
bề mặt và tạo lớp vỏ bọc có thể làm giảm bớt
đáng kể nguy cơ xuất hiện của Cd tự do. Với
độ chói tốt, độ bền quang cao khi kích thích
bằng laser trong khoảng thời gian dài và tối
ưu hóa lớp vỏ bọc đã cho thấy rằng lớp bọc
đặc hiệu polyethylene glycol (PEG) đã làm
tăng thời gian lưu thông in vivo, tăng độ bền
và giảm sự kết bám không đặc hiệu tối đa.
Đây là những yếu tố cần thiết và quan trọng
trong hiện ảnh in vivo.
Thí nghiệm in vivo đầu tiên là hiện ảnh mặt
cắt (section) của mô trong các cơ quan của
chuột sau khi tiêm vào tĩnh mạch chuột một
lượng chấm lượng tử đã gắn kết với peptide.
Các ứng dụng gần đây chủ yếu tập trung vào
hiện ảnh động vật sống kết hợp với kính hiển
vi đa photon (multiphoton exitation
microscopy) hoặc với việc dùng các tinh thể
QDs bức xạ hồng ngoại gần (NIR). Thiết diện
hấp thụ hai photon lớn của chấm lượng tử cho
phép phát hiện các mẫu dày với hiệu suất cao
hơn nhờ kính hiển vi kích thích đa photon. Sử
dụng kỹ thuật này có thể phát hiện được hàng
trăm các tín hiệu huỳnh quang ở độ sâu
micromet dưới da của chuột sống và của các
mẫu mô dày và quan sát được các mạch máu
của khối u, theo dõi sự di chuyển của các tế
bào đã được đánh dấu bằng chấm lượng tử,
điều này không thể làm được với các chất
đánh dấu truyền thống. Những phát hiện này
chứng tỏ chấm lượng tử có tiềm năng trong
vai trò chất đánh dấu trong các nghiên cứu
sinh lý học bệnh lý khối u và là các hạt dẫn
truyền thuốc.
Những ứng dụng in vitro của chấm lượng tử
Với những nỗ lực không ngừng trong việc
phát triển các đặc tính thích ứng sinh học của
chấm lượng tử, các hạt nano gắn kết được với
các kháng thể, peptide, và ADN đã được chế
tạo và sử dụng để nhận biết các tế bào và mô
đặc hiệu, nhờ đó cho phép đánh dấu đa kênh
và thực hiện những nghiên cứu đòi hỏi thời
gian dài [18]. Dahan và cộng sự [19] đã phát
triển phương pháp nghiên cứu các mô hình
đơn tinh thể nano phát quang sử dụng kính
hiển vi lệch tiêu (defocused microscopy).
Bằng cách liên kết các mô hình này với các
cấu trúc tinh thể nano phát quang lưỡng cực
(emission dipoles), các nhà thực nghiệm đã
xác định được sự định hướng 2 chiều của các
hạt nano và đã thành công khi ứng dụng công
nghệ này để theo dõi sự định hướng màng thụ
thể đơn (single membrance reception) trong
các tế bào sống. Các chấm lượng tử cũng
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
156
nhận được nhiều sự quan tâm trong các ứng
dụng như bộ phát quang để nghiên cứu các
quá trình động học lý sinh. Yildiz và Selvin
[20] đã chứng minh rằng kính hiển vi phản xạ
nội toàn phần (total internal reflection
microscopy) được dùng kết hợp với chất phát
quang hữu cơ có thể đem lại độ chính xác cỡ
1 nm khi hiện ảnh huỳnh quang (fluorescence
imaging with one nanometer accuracy -
FIONA). Công nghệ cho phép các nhà nghiên
cứu xác định được vị trí trung tâm của mẫu
huỳnh quang với độ chính xác cao. FIONA
cũng được ứng dụng để làm sáng tỏ cơ chế
đánh thức (waking) các cơ vận động của phân
tử myosin V, myosin VI, và kinesin. Các tác
giả tin rằng việc ứng dụng chấm lượng tử sẽ
nâng độ nhậy lên ít nhất 10 lần trong phân
tích và mở rộng những ứng dụng của FIONA
trong các vận động cơ.
Ứng dụng trong phép thử miễn dịch
Phép thử miễn dịch dựa trên nguyên lý kháng
nguyên – kháng thể: Để xác định một loại
bệnh nào đó người ta lấy kháng nguyên của
một người bị nghi vấn cho kết hợp với kháng
thể của bệnh đó, liên kết đặc hiệu xảy ra khi
người đó bị bệnh. Đây là những phản ứng xảy
ra ở mức độ phân tử. Nếu gắn protein chứa
kháng thể mầm bệnh với một chất chỉ thị thì
ta sẽ biết được bệnh qua chất chỉ thị đó khi
kháng nguyên kết hợp đặc hiệu với kháng thể
có chất chỉ thị.
Ví dụ, chấm lượng tử CdSe-ZnS gắn kết với
leucine zipper của protein G (PG-zb), sau đó
gắn kết với kháng thể G (IgG) trở thành
QD/PG-zb/IgG được dùng trong phép thử
miễn dịch huỳnh quang. Khuẩn tụ cầu B gây
độc trong ruột (SEB) đã được phát hiện bằng
cách trên [20]. Ngoài ra, chấm lượng tử gắn
kết với kháng thể có thể phát hiện được lượng
nhỏ chất nổ 2,4,6-trinitrotoluene (TNT) trong
mẫu lỏng [21].
Ứng dụng trong dẫn truyền thuốc và
chữa bệnh
Một trong những ứng dụng quan trọng của
các chấm lượng tử đang phát triển hiện nay là
theo dõi quá trình phân phối thuốc, bởi nó có
khả năng làm rõ quá trình vật lý và hóa học
của thuốc trong cơ thể (pharmacokinetics), tác
dụng của thuốc lên cơ thể
(pharmacodynamics) và cung cấp các nguyên
lý của kỹ thuật vận chuyển thuốc [22]. Việc
theo dõi các phân tử thuốc hoặc các phân tử
mang thuốc không xâm nhập trong các tổ
chức sống đòi hỏi các kỹ thuật hiện ảnh
chuyên dụng. So sánh với các phương thức
hiện ảnh truyền thống như chụp cộng hưởng
từ (MRI), chụp positron cắt lớp (PET) thì
phương pháp dùng QDs cho hình ảnh quang
học với độ nhạy cao, cho kết quả định lượng,
khả năng ghép kênh cao hơn, giảm chi phí và
rút ngắn thời gian trong việc phát triển các
loại thuốc mới. Các ứng dụng hiện nay của
chấm lượng tử trong vận chuyển thuốc tập
trung vào 2 hướng chính: là phân tử mang
thuốc, đánh dấu trong điều trị bệnh hoặc là
chất đánh dấu trong các phân tử mang thuốc.
Ứng dụng làm quang mã hóa đa màu cho
các xét nghiệm sinh học
Các chấm lượng tử cũng được sử dụng làm
quang mã hóa đa màu cho các xét nghiệm
sinh học. Các chấm lượng tử dùng làm mã
hóa quang học và phân tích thông lượng cao
các gen và protein đã được Nie và cộng sự
[23] thực hiện. Các hạt polystyrene chứa các
chấm lượng tử CdSe phát xạ với các màu sắc
và cường độ khác nhau được sử dụng để mã
hóa các protein và các trình tự axit nucleic
(hình 6). Việc sử dụng sáu màu sắc khác nhau
và 10 mức cường độ về mặt lý thuyết có thể
mã hóa đến 1.000.000 protein hoặc trình tự
axit nucleic. Các phân tử cụ thể như peptide,
protein, và oligonucleotides liên kết cộng hóa
trị với các hạt nano và được mã hóa bằng tín
hiệu quang phổ của hạt với một nguồn sáng
duy nhất được sử dụng để đọc tất cả các mã
của chấm lượng tử. Công nghệ mã vạch
(barcoding) với việc sử dụng các chấm lượng
tử cung cấp các lợi thế đáng kể trên các thiết
bị chip phẳng (ví dụ như cải thiện động học
liên kết và phạm vi hoạt động), và cho thấy
nhiều khả năng sử dụng trong các ứng dụng
công nghệ sinh học khác nhau.
Sử dụng trong máy đếm dòng tế bào
Máy đếm dòng tế bào dùng để đếm và kiểm
tra các các tế bào, các nhiễm sắc thể,
protein, bằng cách xây dựng một hệ đếm
các đối tượng sinh học có trong một đơn vị
thể tích chất lỏng khi cho chất lỏng chảy qua
một bộ dò tìm điện tử dựa trên tính chất
quang của đối tượng. Hiện nay máy đếm dòng
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
157
tế bào đã trở nên phổ biến trong nghiên cứu
lâm sàng, nhất là trong các xét nghiệm ung
thư máu. Máy đếm dòng tế bào cho phép
phân tích đồng thời nhiều thông số về các đặc
tính lý hóa của các đối tượng sinh học. Thông
thường, các đối tượng không có sẵn các tính
chất để ta dễ dàng phát hiện. Vì vậy, trước khi
tiến hành đếm số lượng các đối tượng, người
ta phải dán nhãn huỳnh quang cho các đối
tượng này để khi tiến hành đếm, máy sẽ thu
nhận các xung tín hiệu quang phát ra từ các
đối tượng đã được đánh dấu khi được kích
thích. Bên cạnh việc đếm dựa vào ánh sáng
huỳnh quang, các ánh sáng tán xạ và truyền
qua cũng được sử dụng.
Hình 6. Minh họa mã hóa quang học dựa trên
bước sóng và cường độ của các QDs [23]
(A) Các hạt cầu polymer chứa các hạt nhỏ với
màu sắc khác nhau (là các chấm lượng tử phát xạ
các màu khác nhau) theo tỷ lệ cường độ được xác
định trước. Các đầu dò phân tử (từ A đến E) được
đính trên bề mặt các hạt cầu phục vụ cho việc gắn
kết sinh học và nhận ra các tương tác ADN – ADN
lai, kháng nguyên – kháng thể, phần tử nhận và
các ligand. Số các hạt cầu màu (đỏ, xanh lục và
xanh lam) không đại diện cho các chấm lượng tử
riêng lẻ mà dùng để minh họa các mức cường độ
huỳnh quang. Kết quả quang học được đọc ra
bằng cách đo phổ huỳnh quang của các đơn hạt.
Cả cường độ tuyệt đối và tỷ lệ cường độ tương đối
tại các bước sóng khác nhau đều được sử dụng
cho mục đích mã hóa, ví dụ: (1:1:1) (2:2:2), và
(2:1:1) là các mã để phân biệt.
(B) Ảnh phát xạ của mười chấm lượng tử
CdSe/ZnS với các kích thước CdSe khác nhau dưới
ánh sáng kích thích của đèn tử ngoại. Từ trái sang
phải lần lượt là các đỉnh phát xạ: 443, 473, 481,
500, 518, 543, 565, 587, 610 và 655 nm.
(C) Hiển vi huỳnh quang của hỗn hợp các hạt
nano polystyrene chứa QDs CdSe/ZnS phát xạ các
tín hiệu màu duy nhất tại các bước sóng 484, 508,
547, 575, và 611 nm. Các hạt này được trải cố
định trên một phiến thủy tinh phủ polylysine gây
ra một hiệu ứng phân nhóm nhỏ.
Do có các tính chất huỳnh quang ưu việt như
đã biết, các chấm lượng tử sẽ đại diện cho
một công nghệ mới đầy hứa hẹn trong ứng
dụng máy đếm dòng tế bào. Mặc dù sự ứng
dụng chấm lượng tử cho công nghệ này vẫn
còn trong giai đoạn đầu của sự phát triển,
chiến lược và các cân nhắc cần thiết để sử
dụng thành công, công nghệ này đang ngày
càng được biết đến. Chỉ cần thay đổi thành
phần hóa học và kích thước của các chấm
lượng tử thì sẽ có các chấm lượng tử phát xạ
huỳnh quang trải từ vùng nhìn thấy đến hồng
ngoại gần. Do đó sẽ có rất nhiều lựa chọn đối
với chấm lượng tử để sử dụng trong máy đếm
dòng tế bào.
CHẾ TẠO CÁC CHẤM LƯỢNG TỬ CHO
ỨNG DỤNG ĐÁNH DẤU SINH HỌC TẠI
VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI
Hiện nay trên thế giới, các chấm lượng tử cho
ứng dụng đánh dấu sinh học đã được chế tạo
dưới dạng thương phẩm với chất lượng cao,
điển hình là các chấm lượng tử CdSe/CdS bọc
polythyleneglycol (PEG) phân tán trong nước
có các nhóm chức sinh học bên ngoài của
hãng Invitrogen (Mỹ). Các chấm lượng tử này
có thể đánh dấu trực tiếp sinh học cả in vivo
và in vitro. Tại Việt Nam, việc chế tạo chấm
lượng tử ứng dụng đánh dấu sinh học cũng đã
được tập trung nghiên cứu. Các chấm lượng
tử CdSe/ZnS phân tán trong dung môi hữu cơ
được chức năng hóa bề mặt ứng dụng làm
cảm biến sinh học dò tìm peptit được chế tạo
bởi nhóm nghiên cứu của PGS Phạm Thu
Nga, viện Khoa học Vật liệu [24], các chấm
lượng tử CdTe được bọc MPA chế tạo bởi
nhóm nghiên cứu của PGS Nguyễn Quang
Liêm đã được đánh dấu thành công trên
kháng thể phage đặc hiệu ưng thư vú HER2
[25]. Tại phòng thí nghiệm Vật lý Chất rắn,
trường Đại học Sư phạm thái nguyên, chúng
tôi cũng đã chế tạo các chấm lượng tử
CdSe/CdS định hướng đánh dấu sinh học.
Các chấm lượng tử này được chế tạo trực tiếp
trong môi trường nước, với độ pH thích hợp
với môi trường sinh học, phân tán tốt trong
nước nhờ được bao quanh bởi các phân tử
natri citrate (một chất không độc hại, được
dùng trong công nghệ thực phẩm). Các chấm
lượng tử CdSe/CdS phân tán trong nước có
hiệu suất lượng tử tương đối cao và độ bền
quang tốt, tuổi thọ kéo dài (độ bền quang hóa
cao sau nhiều tháng chế tạo). Để thực hiện
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
158
khả năng ứng dụng đánh dấu sinh học của các
chấm lượng tử, chúng tôi bọc các chấm lượng
tử này một lớp PEG hoặc lớp protein BSA.
Kết quả cho thấy, các chấm lượng tử đã được
bọc lớp PEG hay BSA có cường độ huỳnh
quang được tăng cường, độ bền quang ổn
định và độ phân tán tốt hơn [26]. Các chấm
lượng tử này hứa hẹn làm các chất đánh dấu
sinh học hữu ích.
KẾT LUẬN
Các chấm lượng tử với độ chói, độ bền quang
cao, hiệu suất phát quang lớn đang và sẽ được
sử dụng trong các ứng dụng đánh dấu và hiện
ảnh sinh học, và đặc biệt trong các thí nghiệm
theo dõi các hiện tượng và phản ứng sinh học
theo thời gian. Do bước sóng phát xạ phụ
thuộc vào kích thước và thành phần hóa học
nên các chấm lượng tử nên các chấm lượng tử
rất được chú trọng ứng dụng trong các phép
phân tích đa kênh. Tuy nhiên do độ độc hại và
tính chất huỳnh quang nhấp nháy, các chấm
lượng tử vẫn cần được nghiên cứu để có thể
ứng dụng trong các nghiên cứu in vivo.
LỜI CẢM ƠN
Công trình được thực hiện dưới sự hỗ trợ kinh phí
của đề tài NCKH cấp đại học Thái Nguyên, mã số
ĐH2012-TN04-15.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Wenwan Zhong, Nanomaterials in
fluorescence-based biosensing, Anal. Bioanal.
Chem. (2009) 394, Springer:47–59
[2]. Gao X, Yang L, Petros JA, Marshall FF,
Simons JW, Nie S., In vivo molecular and cellular
imaging with quantum dots, Curr Opin
Biotechnol, 16, 63–72 (2005)
[3]. Challa S. S. R. Kumar, Nanotechnologies for
the Life Sciences Vol. 1, Biofunctionalization of
Nanomaterials. Edited by Copyright 8 2005
WILEY-VCH
[4]. Roszek B., W.H. de Jong, Geertsma R.E.,
Nanotechnology in medical application, 2005
[5]. Bailey R. E., Smith A. M., Nie N., Quantm dots
in biology and medicine, Physica E 25 (2004) 1-12
[6]. Parak W. J., Gerion D., Pellegrino T., Zanchet
D, Micheel C, Williams S. C., Boudreau R., Le
Gros M., Larabell C. A., and Alivisatos P.,
Biological application of colloidal nanocrystal,
Nanotechlogy 14 (2003) 15-27
[7]. Chan W: Semiconductor Quantum Dots for
Ultrasensitive Biological Detection and Imaging.
PhD thesis. Department of Chemistry, Indiana
University; 2001
[8]. Parak W. J., Pellegrino T., and Plank C.,
Labeling of cell with quantum dots,
Nanotechnology 16 (2005) 9-25
[9]. J. Matthew Mauro et al, Self-assembled
nanoscale biosensors based on quantum dot FRET
donors, Nature materials | VOL 2 | SEPTEMBER
2003, 630-638
[10]. T. Jamieson et al. / Biomaterials 28 (2007)
4717–4732.
[11]. Patolsky F, Gill R, Weizmann Y, Mokari T,
Banin U, Willner I. Lighting-up the dynamics of
telomerization and DNA replication by CdSe–
ZnS quantum dots. J Am Chem Soc
2003;125:13918–9
[12]. Zhang CY, Yeh HC, Kuroki MT, Wang TH.
Single-quantum-dotbased DNA nanosensor. Nat
Mater 2005;4:826–31
[13]. Parak W. J. et al, Bioanalytics and biolabeling
with semiconductor nanoparticles (quantum dots), J.
Mater. Chem., 2007, 17, 1343–1346
[14]. Hasegawa U, Nomura SIM, Kaul SC, Hirano
T, Akiyoshi K. Nanogel-quantum dot hybrid
nanoparticles for live cell imaging. Biochem
Biophys Res Commun 2005; 331:917–21
[15]. Mansson A, Sundberg M, Balaz M, Bunk R,
Nicholls IA, Omling P, et al. In vitro sliding of
actin filaments labelled with single quantum dots.
Biochem Biophys Res Commun 2004;314:529–34
[16]. Tada, H.; Higuchi, H.; Wanatabe, T.M.;
Ohuchi, N. In Vivo Real-time Tracking of Single
Quantum Dots Conjugated with Monoclonal Anti-
HER2 Antibody in Tumors of Mice. CancerRes.
2007, 67, 1138-1144.
[17]. Aihua Fu,, Weiwei Gu, Carolyn Larabell and
A Paul Alivisatos, Semiconductor nanocrystals for
biological imaging, Current Opinion in
Neurobiology 2005
[18]. Michael J. Murcia and Christoph A.
Naumann, Biofunctionalization of Fluorescent
Nanoparticles, Nanotechnologies for the Life
Sciences Vol. 1, 2005
[19]. Xavier Brokmann, Marie-Virgine
Ehrensperger, Jean-Pierre Hermier , Antoine Triller
and Maxime Dahan, Orientational imaging and
tracking of single CdSe nanocrystals by defocused
microscopy, Chemical Physics Letters Volume 406,
Issues 1-3, 23 April 2005, Pages 210-214
[20]. Yildiz and Selvin, Fluorescence Imaging with
One Nanometer Accuracy: Application to Molecular
Motors, Acc. Chem. Res. 2005, 38, 574-582
[21]. Kim E. Sapsford, Thomas Pons, Igor L.
Medintz, and Hedi Mattoussi, Biosensing with
Chu Việt Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 151 - 159
159
Luminescent Semiconductor Quantum Dots,
Sensors 2006, 6, 925-953
[22]. H. Mattoussi et al, Luminescent Quantum
Dot-Adaptor Protein-Antibody Conjugates for Use
in Fluoroimmunoassays, Phys. stat. sol. (B) 229,
No. 1, 407–414 (2002)
[23]. Han MY, Gao X, Su JZ, Nie SM: Quantum-
dot-tagged microbeads for multiplexed optical
coding of biomolecules. Nat Biotechnol 2001,
19:631-635.
[24]. Nguyen Ngoc Hai, Vu Duc Chinh, Pheng
Xiong, Nguyen Xuan Nghia, Phan Tien Dzung,
Nguyen Van Hung, Pham Thu Nga, Nguyen
Quang Liem, Optical detection of the pesticide by
funtionalized CdSe/ZnS quantum dots as
fluorescence-based biosensor, Adv. Opts.,
Photonics, Spectroscopy and Applications VI
(2011), 422-425
[25]. Viet Ha Chu, Thi Ha Lien Nghiem, Thi
Huyen La, Thi Dieu Thuy Ung, Quang Huan Le,
Kim Thuan Tong, Quang Liem Nguyen and Hong
Nhung Tran. Attaching quantum dots to HER2
specific phage antibodies, Advances in Natural
Sciences: Nanoscience and Nanotechnology, IOP
Publishing, 2 (2010) 025005
[26]. Chu Viet Ha, Tran Hong Nhung and Vu Thi
Kim Lien, Photoluminescent emission properties
of CdSe/CdS quantum dots synthesized directly in
aqueous solution, Adv. Opts., Photonics,
Spectroscopy and Applications VI (2011), 526–531
SUMMARY
BIOLABELING APPLICATION OF QUANTUM DOTS NANOCRYSTALS
Chu Viet Ha1, Tran Anh Duc1, Do Thi Duyen1,
Vu Thi Kim Lien1*,Tran Hong Nhung2
1College of Education – TNU
2Vietnam Academy of Science and Technology
Quantum dots nanocrystals have now great potential for use as diagnostic and imaging agents in
biolebeling and biomedicine since they have strong photoluminescence and tunable optical
capabilities. Because of toxicity and blinking fluorescence properties, the quantum dots have been
studied further for possible in vivo applications. The biolabeling applications of quantum dots are
known such as bio imaging, biosensors, cell tracking, biological barcoding and cell flow
cytometry.
Keywords: semiconductor quantum dots, biomarkers, nanoparticles
Ngày nhận bài:21/11/2012, ngày phản biện:03/12/2012, ngày duyệt đăng:10/12/2012
*
Tel: 0912 789436, Email: lienvusptn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_36964_40547_2032013162021151_3571_2052169.pdf