Một số nhận định của Toffler từ quan điểm “ba làn sóng” mang tính chủ quan, gượng ép và phiến diện. Chẳng hạn ông xem các cuộc cách mạng như sự thay thế làn sóng văn minh này bằng làn sóng văn minh khác. Về cách mạng Tháng Mười 1917, Toffler viết: “Nó được thực hiện không phải chủ yếu do chủ nghĩa cộng sản mà là cho vấn đề công nghiệp. Khi những người Bônsêvich quét sạch những dấu vết cuối cùng của chế độ nông nô và nền quân chủ phong kiến, họ đẩy nông nghiệp ra phía sau và tăng tốc hệ thống công nghiệp quy mô lớn. Họ trở thành đảng của làn sóng thứ hai” . Quan điểm mácxít xem xét cách mạng xã hội như sự thay thế phương thức sản xuất cũ, lạc hậu bằng phương thức sản xuất tiên tiến, nhưng chính điều đó cho thấy hạt nhân của sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội không bị quy về yếu tố thuần tuý kinh tế - kỹ thuật như cách giải thích của Toffler. Rõ ràng có sự tương đồng thuyết ba làn sóng với học thuyết hình thái của Marx, tuy nhiên các làn sóng, khác với các hình thái, thay thế nhau thông qua tiến hoá, chứ không phải cách mạng. Theo Marx, cách mạng là đầu tàu của lịch sử, nhưng từ quan điểm của thuyết tiến hoá cách mạng chỉ kìm hãm sự phát triển. Theo Toffler, ngược lại, động lực cơ bản của lịch sử là tiến bộ kỹ thuật, và cho dù từng đợt sóng lần lượt ập đến nhờ bước nhảy và là bước ngoặt khổng lồ của lịch sử và sự biến đổi to lớn các mặt của đời sống xã hội và cá nhân, những biến đổi này không đổ máu và mang tính tiến hoá.
Toffler tranh luận với Marx, cho rằng Marx nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, khiến cho các vấn đề thiết thực khác gắn với đời sống của con người, với nhu cầu và lợi ích kinh tế bị che khuất. Song đây lại là một nhận định chủ quan nữa, bởi lẽ việc giải quyết những mâu thuẫn giai cấp, xóa bỏ tình trạng bất công trong quan hệ giữa người với người không che khuất vấn đề nhu cầu và lợi ích, mà gắn vấn đề ấy với việc tạo dựng một không gian xã hội – văn hoá dân chủ, nhân văn.
19 trang |
Chia sẻ: tuanhd28 | Lượt xem: 2095 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương lai học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TƯƠNG LAI HỌC
(TRÍCH YẾU TỪ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, ĐÃ NGHIỆM THU, LƯU TRONG THƯ VIỆN, VÀ TỪ LUẬN VĂN THẠC SỸ CỦA LÊ THỊ TUYẾT, LUẬN ÁN TIẾN SĨ CỦA LÊ THỊ HUYỀN,
DO ĐINH NGỌC THẠCH HƯỚNG DẪN)
Tương lai học (Futurology, gốc từ tiếng Latinh futurum kết hợp với tiếng Hy Lạp logos, tiếng Anh Future: tương lai) là tên gọi chung đối với các học thuyết tìm hiểu thực trạng xã hội hiện tại từ nhiều bình diện khác nhau, và trên cơ sở khái quát những vấn đề do xã hội ấy, hay thời đại ấy đặt ra, dự báo triển vọng của xã hội, những vấn đề sẽ nảy sinh trong tương lai và những giải pháp thích hợp.
Theo Từ điển bách khoa Triết học (Nga), thuật ngữ “Tương lai học” theo nghĩa rộng là tổng thể các quan niệm về tương lai loài người, còn theo nghĩa hẹp là lĩnh vực tri thức khoa học, nghiên cứu triển vọng của các quá trình xã hội, được sử dụng đồng nghĩa với dự báo và tiên đoán. Nhà xã hội học, giáo sư người Đức Ossip K. Flechtheim, chính thức dùng thuật ngữ tương lai học đầu tiên vào năm 1943 Theo một số tài liệu thì năm 1940 (xem
với tính cách là thứ “triết học về tương lai” phi giai cấp nhằm chống lại hệ tư tưởng (mang tính giai cấp) và các học thuyết không tưởng (thậm chí chủ nghĩa Mác cũng bị đưa vào danh sách này) Философский энциклопедический словарь. Изд. “Советская Энциклопедия”, Москва, 1983, стр. 752 (Từ điển Bách khoa triết học. Nxb “Bách khoa Xô viết”, Moskva, 1983, tr. 752, tiếng Nga).
. Tuy nhiên cội nguồn sâu xa của tương lai học là thời cổ đại, khi mà sự dự báo tương lai được đề cập ở khá nhiều nhà tư tưởng. Cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại đều tồn tại các học thuyết chứa đựng yếu tố dự báo về tương lai, trong đó không ít những dự báo mang ý nghĩa sấm truyền và khá “linh nghiệm”.
Khác với mọi khoa học chuyên biệt phát minh ra chân lý ở cuối một chặng đường, một giai đoạn nhất định (phát minh trong khoa học tự nhiên chẳng hạn: mỗi quy luật, định lý là kết quả của quá trình nghiên cứu lâu dài), tương lai học thường có được những kết quả định trước sớm hơn, không lệ thuộc nhiều vào sự kiện hiện có. Tương lai học đi trước một bước so với thực tiễn, nhưng không hẳn định hướng cho thực tiễn, mà chú trọng dự báo chuyển biến tiếp theo của nó, góp phần điều chỉnh hoạt động thực tiễn. Quan điểm này chắc hẳn không phải là điều mới, bởi lẽ tính vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội đã được chứng minh. Tuy nhiên việc hình thành một khoa học dự báo lại cần đến hàng loạt thông số thực tiễn, đồng thời nêu ra các luận cứ thuyết phục về những dự báo ấy.
Ở chừng mực nào đó tương lai học có thể được xem như một học thuyết đối lập với chủ nghĩa Marx, bởi lẽ Marx dự báo sự phát triển xã hội từ hiện thực của chủ nghĩa tư bản, trong khi tương lai học mô tả bức tranh về tương lai không như Marx hình dung. Tìm hiểu học thuyết của các nhà tương lai học như A.Toffler hay J.Naisbitt, chúng ta càng nhận rõ điều này.
Tính đa dạng và đa lĩnh vực của tương lai học, tính không xác định về mặt phương pháp luận của tương lai học khiến cho từ những năm 60 – 70 của thế kỷ trước người ta sử dụng thuật ngữ nghiên cứu về tương lai (Futures studies) R. Slaughter. The Knowledge Base of Futures studies (2005); W. Bell. The Foundations of Futures Studies (1997).
với ý nghĩa rộng và mang tính gợi mở hơn. Điều này xuất phát từ bốn yếu tố sau: thứ nhất, tính phức tạp và tính không lường trước của đời sống xã hội trong những năm gần đây khiến cho những kịch bản về tương lai nhân loại buộc phải điều chỉnh, bổ sung thường xuyên, và thường là bổ sung không kịp. Yếu tố phi tất định luận là một sự thực, và chính điều này mới là mặt sống động của đời sống, phá vỡ các đồ thức sẵn có của lý trí và các quy luật phổ biến. Phi tất định luận được các nhà tư tưởng phương Tây, trong đó có ý chí luận, triết học đời sống, chủ nghĩa hiện sinh, trường phái Frankfurt nhấn mạnh bằng các cách thức khác nhau. Ở bình diện xã hội, tình thế tranh chấp, mong manh của tồn tại trong các thập niên gần đây càng cho thấy rằng, mọi sự tính toán của con người, dù được sự hỗ trợ của máy móc tinh vi, vẫn mang tính tương đối, chẳng hạn trong một cuốn sách của mình cựu tổng thống Mỹ R. Nixon tiên đoán hệ thống Liên Xô sẽ sụp đổ vào năm cuối cùng của thiên niên kỷ II, song thực tế diễn ra sớm hơn 8 năm. Sự sụp đổ nhanh chóng mang tính dây chuyền của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu khiến không ít người bất ngờ, dù đã suy nghĩ về sự thất bại không tránh khỏi của mô hình đó. Như vậy các dự báo, cho dù được xem là có cơ sở, dựa trên những chất liệu thực tiễn và xu thế vận động của xã hội, vẫn mang tính xác suất khá cao. Thứ hai, trên thực tế dự báo là chức năng của phần lớn lĩnh vực tri thức, thậm chí là một trong những chức năng chính đối với một số ngành như triết học, xã hội học, chính trị học ... Vì thế, hiện nay có hai ý kiến trái ngược nhau về số phận của tương lai học với tính cách một khoa học. Một số nhà nghiên cứu cho rằng việc tách ra một ngành tương lai học riêng không chỉ bất hợp lý, mà còn là một việc không thể. Chẳng hạn, triển vọng kinh tế thế giới như thế nào lại do chính các nhà kinh tế học dự báo, chứ chưa hẳn thuộc về một nhà tương lai học chuyên biệt nào đó. Hơn thế nữa, nhà tương lai học được thừa nhận ấy để nắm bắt xu thế vận động và phát triển của kinh tế thế giới, cần phải là nhà kinh tế thực sự. Tuy nhiên một số khác lại khẳng định diện mạo của tương lai học là xác thực, bởi lẽ công việc dự báo tương lai cũng cần đến một phương pháp tiếp cận hợp lý, khoa học, và một hệ thống các vấn đề đặc trưng cho lĩnh vực nghiên cứu này. Thứ ba, cho đến nay vẫn thiếu một sự nhất quán trong phương pháp tiếp cận các vấn đề của đời sống xã hội, nói cách khác, thiếu một cột mốc chính dẫn đường đối với giới nghiên cứu về cách thức đánh giá, xử lý các sự kiện đang diễn ra, từ đó dự báo xu thế của lịch sử. Đôi khi những dự báo mang tính chủ quan, gắn liền với tham vọng chính trị của tầng lớp cầm quyền, biến thành thứ công nghệ bảo vệ quyền lực đặc trưng, khiến cái gọi là tương lai học, hay dự đoán học trở thành nơi tuyên truyền cho một giai cấp. Chẳng hạn, thái độ một chiều của Marx học về thực chất của cách mạng tháng Mười và dự báo về sự trở lại của nước Nga với quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, hay về sự “hội tụ” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội (mô hình Liên Xô) của thuyết Hội tụ, hay dự báo của một tôn giáo nào đó về khả năng phát triển của nó, đều ít nhiều mang tính chủ quan, thiên về tuyên truyền hơn là dựa trên cơ sở khoa học thực sự. Thứ tư, tính bán chuyên nghiệp của cách tiếp cận tương lai. Dự báo tương lai là công việc “kiêm nhiệm” của các nhà khoa học, các nhà xã hội học, luật gia, kinh tế v.v... Vì lẽ đó rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra dự báo của mình về về khuynh hướng vận động của sự vật, sau khi đã khảo sát tình trạng hiện tại. Vậy phải chăng nhà nghiên cứu nào cũng đều có thể trở thành một nhà tương lai học? Chớ nên bỏ qua một thực tế là hai thập niên gần đây trong quá trình tìm hiểu các lĩnh vực của đời sống xã hội, các vấn đề toàn cầu, đã nổi lên những nhà tương lai học thực thụ, được biết đến qua những ý tưởng mới, những phát hiện làm xôn xao dự luận, những luận giải thuyết phục về xu hướng của lịch sử nói chung, của các lĩnh vực của đời sống xã hội nói riêng, đồng thời tồn tại không ít những kịch bản về tương lai khá sâu sắc, vừa mang ý nghĩa cảnh báo (về thảm họa toàn cầu), vừa gợi mở trách nhiệm chung của con người về hành tinh xanh.
Về vấn đề phân loại tác giả, G.Kh.Sakhnazarov nêu ra hai khuynh hướng cơ bản, căn cứ vào nội dung, thực chất của chúng.
Thứ nhất, nhóm các nhà tư tưởng kỹ trị, với các học thuyết về tương lai thống nhất dưới khái niệm “thiên đường công nghệ” (tạm dịch nghĩa từ thuật ngữ “Techno-idilii”, “Техноидиллии” của tác giả trên), xem sự phát triển của khoa học và công nghệ là mẫu số chung cho sự hội nhập trên phạm vi toàn cầu, là tiêu chí cơ bản của sự phát triển xã hội. Thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ (hội tụ các hệ thống chính trị - xã hội khác nhau theo những nguyên tắc chính, dựa trên sự hợp tác kinh tế khoa học, công nghệ, nhưng độc lập về chính trị ở những mức độ khác nhau) thuộc nhóm này. Xét theo nghĩa này, Veblen và một số nhà tư tưởng kỹ trị đầu thế kỷ XX là những nhà tương lai học thực thụ.
Trong nhóm khuynh hướng này có cả các tư tưởng không cộng sản, chống cộng, lẫn các tư tưởng làm gần dự báo mácxít với những điều kiện của thời đại. Về tư tưởng đối lập với cách tiếp cận mácxít về tương lai có D.Bell với tác phẩm Xã hội hậu công nghiệp tiến hoá của một ý tưởng (The Post industrial Society evolution of an Idea), đem đối lập mô hình “hậu công nghiệp” với mô hình xã hội cộng sản, do Marx và Engels nêu ra ở Tuyên ngôn của Đảng cộng sản; A.Toffier trong Làn sóng thứ ba đã đưa ra cách tiếp cận về văn minh qua hình ảnh “làn sóng văn minh”, nhấn mạnh vai trò của một thành tố trong phương thức sản xuất, xem xét sự phát triển xã hội bằng con đường thay thế các nền văn minh (nông nghiệp, công nghiệp, hậu công nghiệp), khác với học thuyết mácxít về hình thái kinh tế – xã hội.
Một số nhà nghiên cứu chú trọng đến các hậu quả chính trị của toàn cầu hoá, nhất là toàn cầu hoá kinh tế, của sự tiến bộ khoa học, công nghệ, bày tỏ thái độ của mình về sự khủng hoảng giá trị
Thứ hai, nhóm phê bình, thẩm định về “tương lai của các học thuyết dự báo tương lai”. Thước đo sức sống của một học thuyết nằm ở hiệu ứng xã hội mà nó gây ra, ở việc, nó có tác dụng gì đối với tiến trình lịch sử – xã hội. Nhóm này khá đông và phức tạp, khó mà liệt kê đầy đủ, tuy vậy có thể thấy rõ tính định hướng thế giới quan ở chúng. Ở Việt Nam trong thời gian qua đã xuất hiện một số công trình của các nhà tương lai học đánh giá số phận của chủ nghĩa Mác, như “Marx nhà tư tưởng của cái có thể” (M.Vadée), “Mác người vượt trước thời đại” (Daniel Bensaïd) Daniel Bensaïd (1946 – 2010): nhà triết học mácxít người Pháp, một trong những thủ lĩnh của liên minh cộng sản cách mạng và đảng chống tư san mới
, “Những bóng ma của Marx” (J.Derrida) Jacques Derrida (1930 – 2004) – nhà triết học Pháp, nhà lý luận văn học, người sáng lập quan điểm về giải thiết kế (tiếng Pháp: deconstruction, trong đó de hiểu như “trở lai phía sau”, “ngược lại”, và construction, tức thiết kế, kiến tạo, xây dựng, xem xét lại).
. Hầu như tất cả các công trình loại này đều dành cho Marx những đánh giá tích cực, sâu sắc, đồng thời đem đối lập Marx với chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa Marx cực quyền hoá, chủ nghĩa Marx Stalin hoá. Hiện nay, cùng với xu thế phát triển liên thông, đa ngành, đa lĩnh vực, “không có trục chính”, các nhà nghiên cứu đang dự báo về cái chết của “chủ nghĩa phổ quát” truyền thống, sự thống trị của hai khuynh hướng trái chiều nhau về tư tưởng – cá biệt hoá và đa dạng hoá, tách biệt và liên kết.
Ngoài hai nhóm trên, chúng ta có thể phân loại tương lai học thành các nhóm dự báo gần và dự báo xa, hay dự báo xu hướng vận động lâu dài của lịch sử, của các lĩnh vực hoạt động sống, dự báo hẹp và dự báo toàn thể. Tuy nhiên sự phân loại này chỉ mang tính tương đối, vì có những dự báo cho 50 năm vẫn là gần, nhưng cũng có dự báo cho 30 năm đã là xa, căn cứ vào tính chất và quy mô của dự báo. Mấy năm gần đây có khá nhiều công trình tại phương Tây dự báo về mô hình xã hội trong tương lai, phần đông không xem chủ nghĩa tư bản là sự lựa chọn cuối cùng của nhân loại, và chủ trương mô hình “hỗn hợp”, không cộng sản, không tư bản. Cách tiếp cận này không mới, vì nó đã được bàn đến trong thuyết Hội tụ (ra đời từ những năm 50 – 60, phổ biến trở lại vào những thập niên 90 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI). Một số công trình dự báo gần đã trở nên lạc hậu, mãi mãi vẫn chỉ là bài ca lãng mạn về tương lai tươi sáng của nhân loại, hoặc sự cảnh báo tích cực về trách nhiệm của con người trước hiểm họa sinh thái, môi trường, chiến tranh, bùng nổ dân số, xung đột sắc tộc, tôn giáo v.v Những tác phẩm thuộc dạng khơi gợi, thông điệp loại đó khá nhiều, và sau vài năm thì dự báo đã trở thành một phần hiện thực hoặc rơi vào sự lãng quên, có thể kể đến: Trái đất tổ quốc chung – Tuyên ngôn cho thiên niên kỷ mới (E. Morin, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000), Tám xu hướng phát triển của châu Á đang làm thay đổi thế giới (J.Naisbitt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998), Bước vào thế kỷ XXI (David C.Korten, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996), Chuẩn bị cho thế kỷ XXI (Paul Kennedy, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995), Con đường đi đến năm 2015 (J.L.Petersen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000), v.v.. Vào năm 2003, trong dự báo về tương lai nhân loại nổi bật thảm họa sinh thái, cũng như tương lai không tưởng, ở đó những người nghèo nhất sẽ sống trong những điều kiện mà hôm nay chúng ta có thể xem là giàu có và tiện nghi, cũng như sự biến đổi loài người thành hình thức hậu nhân loại của cuộc sống, và sự thủ tiêu toàn bộ sự sống trên hành tinh trong thảm họa công nghệ nano.
Các học thuyết dự báo tương lai trên cơ sở thuyết kỹ trị, tức xem xét sự phát triển xã hội từ bình diện kinh tế – kỹ thuật. Những luận điểm cơ bản của trào lưu này chứa đựng một số điểm hợp lý, trong đó có cả những nội dung sau vài năm đã trở thành hiện thực. Sức thuyết phục nhất định của những dự báo tạo nên sức hấp dẫn của chúng.
Luận điểm phổ biến đầu tiên của thuyết kỹ trị, thông qua phương án “Thiên đường công nghệ”, nằm ở sự tôn vinh vai trò của thông tin và những đột phá trong tổ chức, quản lý dưới tác động của nó. Khoa học, công nghê tiến bộ nhanh chóng, dần dần tạo nên trục chính của tiến bộ xã hội, thành chỉ số quan trọng, nếu không nói là quyết định, trong việc đánh giá trình độ phát triển của mỗi quốc gia, tính ưu việt của chế độ chính trị.
Các tác giả Mỹ nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Mỹ đối với phần còn lại của thế giới trong kỷ nguyên công nghệ điện tử. Họ cho rằng, những nước công nghiệp phát triển nhất, trước tiên là Mỹ, bắt đầu chuyển từ thời kỳ công nghiệp của sự phát triển, sang thời đại mới, khi mà công nghệ điện tử, tin học trở thành nhân tố chủ yếu, quy định những chuyển biến xã hội, sự thay đổi phong hoá, cơ cấu xã hội, giá trị, sự thay đổi toàn bộ đời sống xã hội nói chung.
Theo D.Bell Daniel Bell (1919 – 2011) nhà xã hội học và nhà chính luận người Mỹ, người sáng lập học thuyết xã hội hậu công nghiệp (xã hội thông tin). Có lần ông mô tả mình như người xã hội chủ nghĩa trong kinh tế, theo chủ nghĩa tự do trong chính trị, và người bảo thủ trong văn hóa”.
, các khái niệm “chế độ phong kiến”, “chủ nghĩa tư bản” và “chủ nghĩa xã hội” là hệ quả của đồ thức luận mácxít, lấy quan hệ sở hữu làm tọa độ ... Việc nhấn mạnh vai trò quyết định của quan hệ sở hữu so với các quan hệ khác trong hoạt động kinh tế tạo nên sự khác biệt căn bản giữa Mỹ và Liên Xô. Ngược lại, các nhà tương lai học có khuynh hướng kỹ trị lại thiên về khía cạnh sản xuất và kỹ thuật, do đó đánh giá tiến trình vận động của xã hội dựa trên tiến bộ này. Khái niệm “xã hội hậu công nghiệp” nhấn mạnh vị trí trung tâm của tri thức kỹ thuật, là cái trục mà quanh nó tập trung những kỹ thuật mới, sự tăng trưởng kinh tế và sự phân tầng xã hội”.
Theo Bell, không nên xác định diện mạo tổng thể của xã hội mà chỉ xuất phát từ một đặc trưng điển hình nào đó. Ông cho rằng, việc Marx xuất phát từ cơ sở hạ tầng của xã hội để rút ra những quan hệ khác - văn hoá, tôn giáo, chính trị - là thiếu thuyết phục, rằng cần xem xét bức tranh xã hội từ nhiều cách tiếp cận, với những cách thức đo lường khác nhau.
Bell lấy cách tiếp cận phi hình thái, cách tiếp cận “công nghiệp” thay cho cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội. Toàn bộ lịch sử nhân loại hình thành theo đồ thức sau: tiền công nghiệp - công nghiệp - hậu công nghiệp.
Luận điểm tiếp theo nhấn mạnh vai trò của cách mạng khoa học - kỹ thuật trong việc thúc đẩy nhanh hơn quá trình biến khả năng thành hiện thực. Chính cách mạng khoa học – kỹ thuật đã đưa đến sự thay đổi sâu sắc trong cơ cấu sản xuất và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội, chuyển trọng tâm từ sản xuất hàng hoá sang sản xuất phương tiện dịch vụ.
Lĩnh vực dịch vụ dần dần được mở rộng do sự phát triển của y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học, quản lý, nghĩa là về thực chất toàn bộ công việc xã hội mà ở đó không sản xuất của cải vật chất, mặc dầu gián tiếp, nhưng thông qua các yếu tố trung gian nó tác động rất tích cực đến sản xuất vật chất.
Từ thực tế trên các nhà tương lai học đưa ra hai kết luận:
Thứ nhất, với sự mở rộng không ngừng của mình, lĩnh vực dịch vụ nắm bắt nhu cầu công ăn việc làm đang tăng lên, và bằng cách đó nó có khả năng thu hút toàn bộ lao động dư thừa do quá trình tự động hoá trong công nghiệp và ứng dụng các phát minh công nghệ - kỹ thuật vào nông nghiệp. Điều này có nghĩa bài toán về thất nghiệp và các vấn đề an sinh xã hội có thể được giải quyết từng bước từ sự mở rộng này.
Thứ hai, cơ chế kinh tế, được xác lập trong điều kiện cách mạng khoa học – kỹ thuật, tự nó điều hoà thu nhập và dần dần đưa đến sự quân bình tăng trưởng trong thu nhập của người dân, nghĩa là làm cho dân cùng giàu lên.
Luận điểm thứ ba liên quan đến vấn đề sở hữu trong điều kiện của xã hội “hậu công nghiệp”. Theo các nhà lý luận của phương án “thiên đường công nghệ”, do chỗ chức năng quản lý sản xuất có ý nghĩa ngày càng lớn hơn so với chiếm hữu tư bản trong thời kỳ cạnh tranh tự do, và nhờ sự “khuếch tán” của cái cuối cùng, tức việc phân ra nhừng xí nghiệp vừa và nhỏ gắn với sự phổ biến tư bản cổ phần, vấn đề sở hữu mất đi tính chất gay gắt vốn có và tác động ngày càng ít hơn đến quá trình phát triển xã hội.
Ngay từ giữa những năm 50 của thế kỷ XX giới xã hội học phương Tây đã đưa ra luận điểm cho rằng sự kiểm soát tư bản và gắn với nó là chức năng thống trị kinh tế đã chuyển sang tay các nhà kỹ trị. Một số nhà nghiên cứu như J. Fourastié Jean Fourastié (1907 – 1990) là nhà kinh tế học người Pháp. Ngoài lĩnh vực kinh tế, ông còn nghiên cứu các vấn đề đạo đức, chính trị.
, R.Aron cho rằng, quần chúng ngày càng ý thức được vai trò quyết định của khoa học, kỹ thuật đối với nền văn minh, lấn át cả pháp luật và chính trị, sở hữu, quan hệ sản xuất. Theo họ, cuộc tranh luận về vấn đề sở hữu chỉ có ý nghĩa tư tưởng, không phản ánh đúng quy luật vận động của nền kinh tế, với sự đa dạng các hình thức sở hữu trong những điều kiện cụ thể. Họ cũng khẳng định ưu thế của sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế tại các nước phương Tây, hay “kế hoạch hoá không cực quyền”, khác với ảo tưởng về kế hoạch hoá toàn diện kiểu Liên Xô.
Luận điểm thứ tư đề cập quá trình thay đổi cơ cấu xã hội, theo đó kết quả của những biến đổi do cách mạng khoa học – kỹ thuật mang lại là trong cơ cấu xã hội những người lao động trí óc, hay “những chiếc cổ áo trắng”, “những chiếc cổ cồn” bắt đầu chiếm ưu thế.
Bell phân chia các tầng lớp xã hội theo đường trục tri thức, bao gồm bốn nhóm. Nhóm “tinh hoa” quy tụ những chuyên gia trình độ cao, trong đó có các nhà bác học; các chuyên gia (kỹ sư, nhà kinh tế, bác sỹ), các nhà quản lý, các nhà hoạt động văn hoá; nhóm chuyên môn, gồm kỹ thuật viên trung cấp và công nhân lành nghề; nhóm giao dịch, trong đó có nhân viên văn phòng và thương mại; nhóm lao động giản đơn, gồm thợ thủ công và công nhân “áo xanh”. Đó là xu thế vận động của xã hội, đang thể hiện dần dần trong “xã hội hậu công nghiệp”. Trong bảng phân tầng ấy không thấy bóng dáng nhà tư sản, hay nhà chính trị nào, mặc dù ai cũng thấy rõ là trên 55% sản phẩm quốc dân tại các nước đang bước vào “xã hội hậu công nghiệp” tập trung vào trong tay các tập đoàn tư bản lớn. Việc chi tiết hoá sự phân tầng như vậy mà không nhắc đên nhà chính trị là một sự thụt lùi so với bảng phân tầng của Hegel vào đầu thế kỷ XIX.
Đồ thức xã hội của “xã hội hậu công nghiệp” nhấn mạnh sự hiện diện của kinh doanh, nhưng không dành chỗ cho nhà kinh doanh, và gạt các nhà chính trị ra ngoài bảng phân tầng xã hội. Đồ thức luận ấy chỉ là bài ca “điền viên” trong không gian lãng mạn của những suy tưởng vượt qua những mâu thuẫn xã hội bằng những thành quả khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Quan trọng hơn là đồ thức này không đem đến lời đáp cho vấn đề mà bất kỳ sự phân tích xã hội nào cũng phải trả lời, đó là vấn đề về nguyên tắc quan hệ lẫn nhau giữa các tầng lớp xã hội.
Luận điểm thứ năm đề cập sự chuyển đổi chủ thể quyền lực: các nhà chuyên môn, giới “thượng lưu xã hội” trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị.
Nguồn gốc của luận điểm này là thuyết “cách mạng của những nhà quản lý” do J.Burnham James Burnham (1905 – 1987), nhà triết học và nhà lý luận chính trị người Mỹ, tác giả cuốn The Managerial Revolution, xuất bản vào năm 1941.
tham gia đề xướng ngay từ những năm 40 của thế kỷ XX, theo đó, trong xã hội hiện đại, khi mà những thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật được vận dụng thành công vào việc quản lý nền kinh tế, từ đó quyền lực cũng dần dần chuyển vào tay các chuyên gia, các nhà quản lý, theo nghĩa rộng là các nhà kỹ trị См. Г. Х. Шахназаров. Фиаско футурологии. Изд. Политической литературы; Москва, 1979, стр. 18 – 37 (Xem G. Kh. Sakhnazarov. Đại bại của tương lai học. Nxb Sách chính trị, Moskva, 1979, tr. 18 – 37)
.
Burnham khẳng định rằng cũng như trong thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ nông nô sang chủ nghĩa tư bản, không phải giai cấp nông dân bị áp bức, mà một giai cấp hoàn toàn mới, thay thế cho tầng lớp quý tộc phong kiến. Giai cấp vô sản không thay thế giai cấp tư sản, mà nó sẽ buộc phải cùng với giai cấp tư sản nhường quyền lực cho những nhà quản lý. Cách tiếp cận này được các nhà tương lai học phương Tây đón nhận ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên những đại diện “tả khuynh mới” đã phê phán quan điểm mà họ cho là sặc mùi quân chủ trong khoa học. D.Bell giải thích thêm rằng xu hướng chung trong “xã hội hậu công nghiệp” không phải là kỹ trị, mà thượng lưu trí thức trị. Điều hành xã hội là những người tài trí, có phẩm chất đạo đức tốt và có năng lực tổ chức cao. Họ là hình ảnh của xã hội tương lai.
Như thế là lý luận “thiên đường công nghệ”, mà “xã hội hậu công nghiệp” là phương án cụ thể, đã được xác lập, gồm 5 luận điểm chính. Ngoài ra, có thể cô đọng các thành tố của khái niệm “xã hội hậu công nghiệp”: trong lĩnh vực kinh tế diễn ra bước chuyển từ sản xuất hàng hoá sang sản xuất dịch vụ; trong nhân khẩu lao động những người lao động trí óc chiếm ưu thế; nguyên tắc xuyên suốt – vị trí trung tâm của tri thức lý thuyết như nguồn gốc của việc thực hiện những cải cách xã hội và của quyết sách chính trị; định hướng tương lai – kiểm soát kỹ thuật và đánh giá những hậu quả của ứng dụng kỹ thuật.
Thông qua các quyết định trên cơ sở “công nghệ trí tuệ” và sử dụng các phương pháp của nó trong lý luận quản lý, trong việc xây dựng các mô hình kinh tế và triển vọng tương lai, xã hội vững bước đi lên với nhịp độ nhanh chóng hơn nhiều thế kỷ trước cộng lại.
Các nhà lý luận của phương án “Thiên đường công nghệ” cho rằng, nếu chủ nghĩa Mác lấy giai cấp vô sản, tập hợp từ những người nghèo và ít học, hoặc thất học, bị bần cùng hoá, làm chỗ dựa, thì thuyết “Thiên đường công nghệ” lấy tri thức và giới học thức cao làm cơ sở. Nhận định ấy một lần nữa lại rơi vào tính chủ quan, một chiều.
Để chứng minh quan điểm của mình, những người chủ trương khuynh hướng kỹ trị đi đến xác lập mô hình phân tầng xã hội và sự biến đổi quyền lực qua các thời đại lịch sử.
Vấn đề phân tầng xã hội không hề xa lạ với chúng ta. Tại Hy Lạp, Platon đưa ra quan điểm phân tầng theo các cấp độ của linh hồn, ở đó các triết gia chiếm vị trí cao nhất, vì họ đại diện cho trí tuệ xã hội, sử dụng quyền lực một cách tinh tế và không ngoan. Vào thời Trung cổ, Tertullian theo tinh thần của Kitô giáo nói về hai đẳng cấp trong xã hội – những người vô thần (phe quỷ) và những tín đồ (phe thần), còn St. Augustine thì phân biệt “đô thành của Chúa” và “đô thành trần gian”. Con người lúc được sinh ra chưa biết thuộc về vương quốc (đô thành trong nguyên tác) nào; cuộc sống tiếp theo sẽ xác định các loại người tương ứng với từng vương quốc. Tương tự Platon, trong bảng phân tầng của mình Hegel dành cho tri thức lý tính vị trí danh dự, còn triết gia đứng ở đỉnh chóp của kim tự tháp, theo sau là thần học, chính trị, nghệ sĩ, khoa học, thương gia và kỹ nghệ gia, tầng lớp bình dân.
Dưới đây là bảng phân tầng của học thuyết “Thiên đường công nghệ” Г. Х. Шахназаров. Фиаско футурологии. Изд. Политической литературы; Москва, 1979, стр. 45 – 47 (G. Kh. Sakhnazarov. Đại bại của tương lai học. Nxb Sách chính trị, Moskva, 1979, tr. 45 – 47)
(mô hình chung)
Các chỉ số
Xã hội
tiền công nghiệp
Xã hội
công nghiệp
Xã hội
hậu công nghiệp
Tài nguyên
Đất đai
Máy móc
Tri thức
Thiết chế xã hội chủ yếu
Trang trại, đồn điền
Các công ty tư nhân
Trường Đại học, Viện nghiên cứu
Nhân vật chiếm ưu thế
Chủ đất – nhà binh
Nhà kinh doanh
Bác học, cán bộ khoa học
Phương thức quyền lực
Kiểm soát trực tiếp bằng bạo lực
Tác động gián tiếp bằng chính trị
Cân bằng các lực lượng kỹ thuật - chính trị, quyền lựa chọn
Cơ sở giai cấp
Sở hữu.
Sức mạnh quân sự
Sở hữu tổ chức chính trị, trình độ chuyên môn kỹ thuật
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Phương thức (con đường) tạo nghiệp
Thừa kế.
Chiếm đoạt bằng quân sự
Thừa kế.
Tạo dựng
Học vấn
Tổ chức chính trị, trình độ học vấn kỹ thuật, động viên, trau dồi.
Từ mô hình chung vừa nêu, có thể rút ra một số nhận định:
Thứ nhất, bảng phân tầng vừa nêu quan điểm “Thiên đường công nghệ” mang tính cục bộ. Quan điểm này không xem xét các quá trình phát triển của thế giới, dù chỉ với tính cách là phần liên hệ. Bức tranh tương lai đầy lãng mạn chỉ dành cho phần phương Tây, ba phần tư còn lại của nhân loại không được tính đến trong cái gọi là bức tranh tổng thể về thực trạng và triển vọng của lịch sử. Các thông số ở đây dù có sức hấp dẫn nhất định, nhưng vẫn quá đơn giản và phần nào thiếu thực tế, nếu đối chiếu với hiện thực. Bảng phân tầng chứa đựng những yếu tố ước định. Nhưng yếu tố này, không cần bàn cãi nữa, đáng được xem là một trong những phương án tich cực về mục tiêu của nhân loại, song nếu chỉ dừng lại ở khía cạnh kinh tế - kỹ thuật thì tính thuyết phục chưa cao.
Thứ hai, vấn đề hệ quả của tiến bộ khoa học – công nghệ cần xem xét một toàn diện. Thế giới hôm nay chứng kiến hàng loạt những thay đổi bi kịch trong bức tranh sự sống toàn cầu do tình trạng thiếu kiểm soát quá trình ứng dụng thành quả khoa học và công nghệ, sự bất đồng quan điểm giữa các cường quốc về bảo vệ hành tinh xanh. Giá phải trả cho tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ là gì? Danh sách những biểu hiện thảm họa toàn cầu ngày càng dài thêm, từ hiệu ứng nhà kính đến mất cân bằng sinh thái, từ sự sa mạc hoá đến nạn ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, các bệnh mới xuất hiện, và thủ phạm gây ra chúng không khó nhận biết.
Thứ ba, quan điểm “Thiên đường công nghệ” lấy Mỹ làm mẫu mực. Brzezinski Zbigniew Kazimierz Brzezinski (sinh năm 1928) – nhà chính trị học, xã hội học, nhà hoạt động xã hội người Mỹ gốc Ba Lan, suốt thời gian dài là một trong những kiến trúc sư của chính sách đối ngoại Mỹ, 4 năm làm cố vấn an ninh trong chính quyền Jimmy Carter, dưới thời tổng thống Bill Clinton đóng vai trò lớn trong chính sách mở rộng NATO sang phía Đông.
cho rằng, nếu La Mã đem đến cho thế giới nền luật pháp, nước Anh đại diện cho nền dân chủ đại nghị, nước Pháp đại diện cho nền văn hoá và chủ nghĩa dân tộc cộng hoà, thì nước Mỹ hiện đại đem đến sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn hoá đại chúng với trình độ sử dụng cao. Nhưng nước Mỹ chắc hẳn không phải là toàn bộ thế giới. Nước Mỹ trở nên cường quốc có nền kinh tế lớn nhất hiện nay, nhưng nước Mỹ không thể ổn định nếu đứng bên ngoài những chuyển biến mang tính quy luật của tiến trình lịch sử. Mọi so sánh đều trở nên khập khiễng, mọi toan tính cá biệt hoá và đơn giản hoá cái đang vận động phức tạp trở nên chủ quan.
Đồ thức luận của “xã hội hậu công nghiệp” với ước muốn thay học thuyết mácxít bằng “Thiên đường công nghệ” vấp phải mâu thuẫn khó vượt qua. Về mặt thực tiễn, thật khó tưởng tượng rằng, trong thời đại chúng ta quyền lực chính trị được thâu tóm trong tay một tầng lớp chuyên gia. Các lực lượng xã hội hùng mạnh khác ở đâu trong bảng phân tầng kia? Platon tôn vinh triết gia, F.Bacon tôn vinh nhà khoa học, nhưng các quan điểm đó đã được xem là không tưởng, có sức hút nhưng còn xa với nhu cầu thực tiễn và xu hướng vận động của xã hội. Có lẽ nên đọc lại N. Machiavelli, người từng tuyên bố về sự cần thiết tách đạo đức khỏi chính trị, tách lòng tốt ra khỏi nghệ thuật quyền lực. Suy tôn các chuyên gia kỹ thuật về cơ bản là đúng, xét ở phương diện gia tăng vai trò của họ trong đời sống xã hội, cùng với sự gia tăng sức mạnh của tri thức khoa học, nhưng suy tôn khoa học khác với tuyệt đối hoá vai trò của nó trong đời sống xã hội, bỏ qua các yêu tố văn hoá, chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống.... Về mặt lý luận, phương án “Thiên đường công nghệ”, do cách đặt vấn đề mang tính một chiều, nên không tránh khỏi sự tuỳ tiện và chủ quan, thiếu tính hợp lý lôgic ngay cả trong lôgíc của sự trình bày. Đó cũng là thứ đồ thức luận mang hình thức, với cách tiếp cận lịch sử - cụ thể ở bình diện toàn cầu.
Nhà xã hội học người Mỹ B.Cochran đánh giá quan điểm hậu công nghiệp của Bell như sau: “Bell tạo nên một cuốn sách chứng minh rằng để tiến đến xã hội mới đòi hỏi hệ tư tưởng và tâm thức xã hội không nhiều hơn chi phí cho việc sắm chiếc ô tô đời mới ... Nếu lý tưởng kỹ trị của Saint Simon là cách mạng, thì ngược lại, thuyết kỹ trị của Bell là buồn chán và vô bổ” B.Cochran. Paradise, dystopia, or just more of the Same – The Nation, New York.Vol.217, No 3, July 30, 1973, p.86-87.
.
Từ những năm 80 - 90 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI đã có những điều chỉnh trong phương án dự báo tương lai, xuất phát từ những biến đổi mang tính toàn cầu. Sự đối đầu chủ nghĩa tư bản – chủ nghĩa xã hội như hai hệ thống không còn diễn ra như trước, hệ thống chủ nghĩa xã hội do Liên Xô đứng đầu đã không còn tồn tại, xu thế hội nhập và toàn cầu hoá tăng lên, và trở thành tất yếu, lợi ích nhân loại chung và những mối quan tâm chung được nhắc đến ngày càng nhiều; xung đột dân tộc, tôn giáo, những toan tính biến thế giới đa cực thành đơn cực... – từng ấy sự việc và sự kiện đòi hỏi các nhà nghiên cứu đưa ra những dự báo thiết thực hơn, gắn liền với những vấn đề cụ thể mà con người quan tâm.
Thế giới hôm nay dường như bớt dần sự đối đầu quyết liệt về hệ tư tưởng, nhưng vẫn tiềm ẩn những xung đột thế giới quan, nhân sinh quan.
Bên cạnh những điểm cần tranh luận, phương án “Thiên đường công nghệ” đã tiên liệu được xu thế của hôm nay, đó là xu thế kinh tế tri thức. Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, sự nhận thức lại chủ nghĩa xã hội đòi hỏi chúng ta có thái độ đúng mực hơn với các trào lưu triết học – xã hội học ngoài mácxít, trong đó có cả các trào lưu thuộc khuynh hướng kỹ trị.
Một trong những nhân vật nổi tiếng hiện nay của tương lai học theo khuynh hướng kỹ trị là Alvin Toffler Alvin Toffler (sinh năm 1928) – nhà xã hội học và tương lai học người Mỹ, một trong những đại biểu của quan điểm xã hội hậu công nghiệp. Cùng với thuyết ba làn sóng văn minh, Toffler cảnh báo về những phức tạp mới, những xung đột xã hội những vấn đề toàn cầu mà nhân loại phải đối mặt ở buổi giao thời giữa thế kỷ XX và thế kỷ XXI, cũng như trong các thời kỳ tiếp theo.
với thuyết Ba làn sóng văn minh. Một số nội dung của thuyết này, tập trung trong bộ ba tác phẩm Cú sốc tương lai, Làn sóng thứ ba và Thăng trầm quyền lực. Bộ ba tác phẩm này gây nên những đánh giá trái ngược nhau.
Tác phẩm Cú sốc tương lai (Future Shock, 1970) ngụ ý về cú sốc của tương lai, sự phản ứng tâm lý của cá nhân và xã hội đối với những thay đổi dồn dập và căn bản trong môi trường sinh tồn do sự đẩy nhanh tốc độ tiến bộ kỹ thuật và xã hội.
Cú sốc hiện tại gây ra bởi sự không tương thích giữa hiện thực và bức tranh về hiện thực trong ý thức, nghĩa là con người không kịp thích nghi với cái đang diễn ra và biến đổi quá nhanh. Sự không tương thích sinh ra do những biến đổi không lường trước, quá dồn dập, ngày càng tăng bởi áp lực của các sự kiện, dòng chảy của tri thức, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thông tin đa chiều. Cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của tương lai học và chủ nghĩa nhân văn biến hoá (transhumanism) đã xuất hiện hàng loạt dự báo về tương lai của cái đang ập đến, nhiều hơn so với trước. Trước xã hội và con người nổi lên nhiệm vụ thích ứng không chỉ với những biến đổi đang diễn ra, mà cả khả năng chịu đựng. Xã hội nhìn chung hiểu biết về những triển vọng của mình, nhưng một số người hiểu biết về triển vọng của sự phát triển công nghệ nhiều hơn những người khác. Sự va chạm với công nghệ đang tăng trưởng nhanh hơn điều mà con người hình dung đã tạo ra cú sốc.
Cuốn sách gồm 6 phần, 20 chương xuyên suốt và kết nối các phần, mỗi phần thể hiện một chủ đề khác nhau nhưng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Phần 1 – Cái chết của sự vĩnh cửu (3 chương); Phần 2 – Tính nhất thời (5 chương); Phần 3 – Những việc mới lạ (3 chương); Phần 4 – Sự đa dạng (3 chương); Phần 5 – Những giới hạn của khả năng thích nghi (2 chương); Phần 6 – Chiến lược tồn tại (4 chương).
Phần I của cuốn sách có tên gọi thể hiện tinh thần của sự thay đổi – Cái chết của sự vĩnh cửu. Trong chương 1 (Quảng đời thứ 800 của nhân loại) ngay trang đầu tiên A.Toffler viết: “Trong ba thập kỷ từ nay đến thế kỷ XXI hàng triệu người tâm lý bình thường sẽ đối diện sự xung đột thình lình với tương laiĐối với họ, tương lai đến quá sớmCuốn sách này nói về sự thay đổi và làm thế nào chúng ta thích nghi với nó. Nó cũng nói về những người dường như phát triển nhanh nhờ thay đổi, cũng như là về những người chống lại hoặc chạy trốn khỏi sự thay đổi” (21/2/2010), tr. 1
. Toffler gọi cú sốc tương lai là căn bệnh mới mà sự hiểu biết về nguồn gốc và triệu chứng của nó giúp giải thích được nhiều điều. Cú sốc văn hoá, theo Toffler, so với cú sốc tương lai còn quá nhẹ, dù nó có gây ra sự bối rối, tâm trọng thất vọng và sự mất phương hướng của con người và hệ thống ứng xử xã hội, vì cú sốc tương lai là sự mất phương hướng đến choáng váng khi tương lai đến quá sớm. Tương lai ập đến, biến hành hiện tại, cuốn phăng những cái mà hôm qua còn được coi là chuẩn mực, cái tất nhiên. Tương lai trở thành hiện tại – gia đình, tình bạn, quê hương, tổ quốc, nhà nước, nền giáo dục, cơ chế kinh tế – mọi quy ước cũ đều bị vượt qua, mọi định chế thông thường bị nghiền nát. Một bức tranh đúng là dễ gây sốc, nếu ta không lường trước và dành thế chủ động. Để thích nghi với những biến đổi đó mỗi cá nhân cần tạo cho mình một nghị lực thực sự mạnh mẽ. “Họ phải tìm ra những cách hoàn mới để bám chặt, vì tất cả những gốc rễ cũ như tôn giáo, quốc gia, cộng đồng, gia đình hoặc nghề nghiệp, tất cả đều bị lật tung dưới tác động bão táp của sức đẩy gia tăng và tính nhất thời” A. Toffler, Cú sốc tương lai, Nguyễn Văn Trung dịch. Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002, tr. 38.
.
Tác phẩm Làn sóng thứ ba (The third wave, 1980) chứa đựng tư tưởng cơ bản của tương lai học – kỹ trị Toffler.
A.Toffler từng là người mácxít, nhưng sau đó từ bỏ chủ nghĩa Marx để, theo cách nói của ông, xác lập cách hiểu mới về bức tranh lịch sử – xã hội, không như Marx hình dung, có tên gọi là thuyết Ba làn sóng văn minh. A.Toffler viết: “Khi tôi còn là môn đồ mác xít trước năm 20 tuổi, nghĩa là cách đây chỉ hơn ¼ thế kỷ, cũng như nhiều thanh niên khác tôi nghĩ rằng tôi có tất cả các câu trả lời. Sau đó tôi nhận thấy ngay rằng những câu trả lời của tôi chỉ là một phần, một mặt và lỗi thời. Hơn nữa tôi đã rất cảm kích về việc được biết rằng câu hỏi đúng là quan trọng hơn câu trả lời đúng cho câu hỏi sai.
Sự thừa nhận rằng không có nhận thức nào là hoàn hảo cả, không có phép ẩn dụ nào là toàn vẹn cả, tự nó là nhân đạo hoá. Nó chống lại sự cuồng tín” A. Toffler, Làn sóng thứ ba (Bản dịch của ), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 12.
.
Thế nào là ba làn sóng? Việc sử dụng hình ảnh làn sóng có ý nghĩa đặc biệt – sự “gối đầu” của các làn sóng; cái cũ chưa biến mất hoàn toàn, nhưng cái mới lại ập đến, thể hiện yếu tố kế thừa và lưu giữ, nếu ta soi vào sự phát triển các nền văn minh. Hơn nữa, hình ảnh làn sóng gợi nên sự lan tỏa trên diện rộng, nghĩa là có tính phổ biến. Nhân loại, theo Toffler, đã trải qua hai làn sóng văn minh và đang thực sự bước vào làn sóng thứ ba.
Làn sóng thứ nhất từ khoảng 8000 tr CN đến khoảng 1650 – 1750, gắn liền với những biến đổi có tính bước ngoặt trong nông nghiệp. Văn minh nông nghiệp cần hàng ngàn năm mới hoàn thành, nhưng trong quá trình tồn tại không có đối thủ. Biểu tượng của làn sóng văn minh nông nghiệp là cái cuốc. Mãi đến sau cách mạng tư sản Anh, làn sóng thứ nhất mới mất dần động lực khi làn sóng thứ hai dấy lên.
Làn sóng thứ hai chính là văn minh công nghiệp, tạo được dấu ấn của mình từ khoảng 1650 đến khoảng 1750 (thời kỳ hình thành). Suốt hai trăm năm sau những biến cố diễn ra dồn dập, tạo nên sự phồn thịnh của nó. Biểu tượng của nó là nhà máy. Đến thập niên 50 của thế kỷ XX, nền văn minh ấy đạt đến đỉnh cao. Cuộc cách mạng công nghiệp chỉ cần 300 năm là hoàn thành.
Làn sóng thứ ba, tức làn sóng của văn minh hậu công nghiệp, đang ngày càng chứng tỏ sức mạnh của mình. Năm 1955, khi làn sóng thứ hai đang ở đỉnh cao thì tại Mỹ, người ta thấy rằng lần đầu tiên số lượng người làm việc văn phòng và làm dịch vụ vượt hơn số lượng công nhân. Cũng thập kỷ này: máy tính, máy bay vận tải phản lực, thuốc ngừa thai, những phát minh có hiệu quả cao v.v Từ Mỹ làn sóng văn minh hậu công nghiệp lan sang Anh, Pháp, Thụy Điển, Đức, Nhật với những thời gian khác nhau. Trong cuốn Tạo dựng một nền văn minh mới, A.Toffler và H.Toffler dẫn lại câu chuyện thú vị: năm 1956, N.Khrushchev Nikita Khrushchev (1894 – 1971) – Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô (1953 – 1964), Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (1958 – 1964). Vào thời ông giữ chức vụ cao nhất của Đảng, Liên Xô đạt được những thành tựu rực rỡ, nhất là trong sự nghiệp chinh phục vũ trụ, “đứng trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa cộng sản”.
tuyên bố “chúng tôi sẽ chôn các ngài”, nhưng ông không biết rằng, trước đó một năm, những dấu hiệu của “làn sóng thứ ba” đã xuất hiện, nền kinh tế “ống khói” của làn sóng thứ hai đang lu mờ dần và một nền kinh tế mới mẻ của Làn sóng thứ ba đã bắt đầu ra đời” A. Toffler và H. Toffler, Tạo dựng một nền văn minh mới, Chu Tiến Anh dịch. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 83.
.
Làn sóng thứ ba diễn ra nhanh và mạnh hơn về cường độ so với hai nền văn minh đã qua; nó tỏ ra “nhanh hơn, sẽ tràn qua lịch sử và diễn ra trong vòng vài thập kỷ”. Làn sóng thứ ba “xé tan gia đình của chúng ta ra từng mảnh, làm rung chuyển nền kinh tế, làm tê liệt hệ thống chính trị, làm đảo lộn những giá trị , thách đố mọi quan hệ quyền lực cũ ”, “mang theo một kiểu sống mới dựa trên những nguồn năng lượng tái sinh đa dạng, trên những phương thức sản xuất sẽ làm cho những dây chuyền sản xuất trở thành lỗi thời, trên những gia đình mới không có hạt nhân , trên những thể chế mới có thể gọi là “nhà tranh điện tử”, và trên những trường học, công ty bị thay đổi cơ bản của tương lai đưa chúng ta vượt qua sự tiêu chuẩn hoá, tập quyền hoá gạt bỏ hệ thống quan liêu, hạ bớt vai trò quốc gia và làm tăng những nền kinh tế bán tự trị trong một thế giới hậu đế quốcbắt đầu hàn gắn mối bất hoà giữa người sản xuất và người tiêu thụ, làm nổi lên nền kinh tế “sản – tiêu” của ngày mai. Đây có thể là nền văn minh nhân đạo thực sự đầu tiên của lịch sử” A. Toffler, Làn sóng thứ ba (Bản dịch của ). Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 15 – 16.
.
A.Toffler gọi làn sóng thứ ba là một bước nhảy kỳ diệu, với sự biến đổi xã hội sâu sắc nhất và với sự cấu trúc lại rất sáng tạo của mọi thời đại. Một nền văn minh “rất cách mạng”, thách đố tất cả những gì chúng ta cho là đúng trong quá khứ, những suy nghĩ cũ, những công thức cũ, giáo điều A. Toffler, Làn sóng thứ ba (Bản dịch của ). Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 10,15.
.
Tổng hợp so sánh ba làn sóng Dẫn theo
:
Lĩnh vực
Dấu hiệu
Làn sóng 1
Làn sóng 2
Làn sóng 3
Công nghệ
Nguồn gốc năng lượng
Sức mạnh cơ bắp, Mặt trời, gió, nước. Tái tạo. Nhiều nguồn. Các nguồn được bố trí.
Nhiên liệu được khai thác.
Không tái chế
Không nhiều nguồn. Các nguồn lực được tập trung hoá.
Mặt trời, gió, nước,
Nhiệt năng.
Tái chế
Nhiều nguồn.
Các nguồn được phân phối.
Tính chất sinh thái lớn.
Sản xuất
Đơn lẻ, cá thể
Dành cho sử dụng cá nhân
Đại chúng
Phân chia ra người sản xuất và người tiêu dùng.
Phân mảnh, sản xuất phi đại chúng theo đơn đặt hàng
Công nghệ “thông minh”
Phát triển sản xuất cho bản thân
Hướng ngoại hoá giá trị của lao động.
Hệ thống phân phối
Cá thể.
Thương nghiệp đại chúng. Thị trường thế giới
Tính phức tạp ngày càng tăng của những mối liên kết kinh tế
Thay đổi vai trò của thị trường và thương nghiệp đại chúng dưới tác động của sự phát triển của nền sản xuất cho bản thân
Môi trường xã hội
Gia đình
Gia đình lớn
Gia đình hạt nhân
Tính đa dạng các kiểu gia đình
Giáo dục
Giáo dục tại gia chiếm ưu thế
Phổ cập giáo dục
Gia tăng tính tất yếu của cá thể hoá giáo dục
Tăng cường vai trò giáo dục gia đình.
Hình thức tổ chức kinh doanh
Cá thể.
Hiệp hội, công ty
Nghiệp đoàn, tập đoàn
Các tập đoàn luôn biến động với những mục tiêu khác nhau
Nghệ thuật
Chú trọng phục vụ tầng lớp thượng đẳng
Đại chúng
Phi chuẩn hoá và phi đại chúng hoá
Môi trường thông tin
Liên kết và trao đổi thông tin
Dành cho tầng lớp thượng đẳng
Dành cho đại chúng
Chuyên môn hoá và phi đại chúng hoá các phương tiện truyền thông.
Sản xuất thông tin gọn nhẹ bởi người tiêu dùng
Vận dụng rộng rãi phương tiện thông tin trong kinh doanh.
Phân tích sự vận động và “va chạm” của các làn sóng, Toffler nhận thấy, làn sóng thứ nhất chưa bị kiệt lực vào cuối thế kỷ XVII thì đã bùng nổ cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và mở ra một làn sóng thứ hai vì đã làm thay đổi nhanh chóng diện mạo hành tinh. Quy trình mới này, công nghiệp hoá bắt đầu di chuyển nhanh hơn, đi qua các quốc gia và lục địa. Như thế hai quy trình riêng biệt đã cuộn qua trái đất cùng một lúc với những tốc độ khác nhau. Ngày nay làn sóng thứ nhất hầu như đã lắng xuống, sức mạnh căn bản đã tiêu tan.
Chỉ trong vòng một, hai thế kỷ làn sóng thứ hai đã cách mạng hoá cuộc sống ở Châu Âu, Bắc Mỹ và một số nơi khác trên trái đất. Hiện nay động lực của công nghiệp hoá vẫn còn mạnh, làn sóng thứ hai chưa sử dụng hết năng lượng của nó. Tuy vậy, làn sóng thứ ba cũng đã bắt đầu những bước đầu tiên, vững chắc và tự tin.
Sự va chạm các làn sóng tạo ra những căng thẳng xã hội, những xung đột nguy hiểm và những mặt sóng chính trị mới kỳ lạ chia cắt sự phân hoá giai cấp, chủng tộc, giới tính và đảng phái. A.Toffler đề cập tình trạng “tan rã cá tính” do những vòng xoáy toàn cầu hoá, những mối liên kết đa quốc gia “nuốt chửng” cá nhân và làm xói mòn những đường nét của bản sắc dân tộc, cá nhân. Tuy nhiên, ông chưa nói đến sự va chạm hay xung đột các giá trị. Chính sự xung đột các giá trị đã dẫn đến những bất ổn triền miên trong đời sống chính trị, văn hoá của các quốc gia, các khu vực và toàn cầu.
Một số nhận định của Toffler từ quan điểm “ba làn sóng” mang tính chủ quan, gượng ép và phiến diện. Chẳng hạn ông xem các cuộc cách mạng như sự thay thế làn sóng văn minh này bằng làn sóng văn minh khác. Về cách mạng Tháng Mười 1917, Toffler viết: “Nó được thực hiện không phải chủ yếu do chủ nghĩa cộng sản mà là cho vấn đề công nghiệp. Khi những người Bônsêvich quét sạch những dấu vết cuối cùng của chế độ nông nô và nền quân chủ phong kiến, họ đẩy nông nghiệp ra phía sau và tăng tốc hệ thống công nghiệp quy mô lớn. Họ trở thành đảng của làn sóng thứ hai” A. Toffler, Làn sóng thứ ba (Bản dịch của ), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr.23
. Quan điểm mácxít xem xét cách mạng xã hội như sự thay thế phương thức sản xuất cũ, lạc hậu bằng phương thức sản xuất tiên tiến, nhưng chính điều đó cho thấy hạt nhân của sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội không bị quy về yếu tố thuần tuý kinh tế - kỹ thuật như cách giải thích của Toffler. Rõ ràng có sự tương đồng thuyết ba làn sóng với học thuyết hình thái của Marx, tuy nhiên các làn sóng, khác với các hình thái, thay thế nhau thông qua tiến hoá, chứ không phải cách mạng. Theo Marx, cách mạng là đầu tàu của lịch sử, nhưng từ quan điểm của thuyết tiến hoá cách mạng chỉ kìm hãm sự phát triển. Theo Toffler, ngược lại, động lực cơ bản của lịch sử là tiến bộ kỹ thuật, và cho dù từng đợt sóng lần lượt ập đến nhờ bước nhảy và là bước ngoặt khổng lồ của lịch sử và sự biến đổi to lớn các mặt của đời sống xã hội và cá nhân, những biến đổi này không đổ máu và mang tính tiến hoá.
Toffler tranh luận với Marx, cho rằng Marx nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, khiến cho các vấn đề thiết thực khác gắn với đời sống của con người, với nhu cầu và lợi ích kinh tế bị che khuất. Song đây lại là một nhận định chủ quan nữa, bởi lẽ việc giải quyết những mâu thuẫn giai cấp, xóa bỏ tình trạng bất công trong quan hệ giữa người với người không che khuất vấn đề nhu cầu và lợi ích, mà gắn vấn đề ấy với việc tạo dựng một không gian xã hội – văn hoá dân chủ, nhân văn.
A.Toffler viết thêm: “Marx đúng trong việc nhận ra sự làm mất tính người trong các mối quan hệ giữa cá nhân, tuy nhiên Marx không đúng trong việc gán điều đó cho chủ nghĩa tư bản” A. Toffler, Sđd, tr. 33.
. Nhận định này bị bác bỏ về mặt lý luận lẫn thực tiễn vận động của xã hội tư sản suốt hơn hai trăm qua. Chính J. Derrida trong Những bóng ma của Marx đã đánh giá cao tinh thần phê phán mácxít đối với cái gọi là “trật tự thế giới mới”. Kể từ khi Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được công bố, thế giới trải qua nhiều biến đổi tích cực, song tình trạng tha hoá và sự nghèo đói của con người vẫn chưa giảm nhiều, thậm chí ở một số phương diện tình trạng đó trở thêm trầm trọng thêm. Derrida chỉ ra 10 “vết loét” của “trật tự thế giới mới”, trong đó có những “vết loét” Marx chưa biết đến vào thời của ông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sv_ba_lan_song_6724.doc