This article mentions an aspect of the art which contributes to the success of the story “Khong At
Ky”. Unlike other narrative works with the first person narrator in Chiness traditional literature in
general and in Lu Xun’s short stories in particular, Khong At Ky has an outstanding narration
style: one narrator with two views. The narrator in the story does not only appear as an outsider,
but also has a direct relationship with main characters and participates in that story’s events. The
narrator’s view is not fixed but flexible. Two views of the same narrator have a connection with
each other, creating various meanings for the story.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 562 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tự sự một người kể mang hai điểm nhìn qua truyện ngắn Khổng Ất Kỷ của Lỗ Tấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Mai Chanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 13 - 17
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
TỰ SỰ MỘT NGƯỜI KỂ MANG HAI ĐIỂM NHÌN QUA TRUYỆN NGẮN
KHỔNG ẤT KỶ CỦA LỖ TẤN
Nguyễn Thị Mai Chanh
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài viết đề cập tới một phương diện nghệ thuật đã góp phần làm nên thành công của truyện ngắn
Khổng Ất Kỷ. Khác với các tác phẩm tự sự theo ngôi thứ nhất trong văn học truyền thống Trung
Quốc nói chung và trong truyện ngắn Lỗ Tấn nói riêng, KhổngẤt Kỷ có lối tự sự độc đáo: một
người kể mang hai điểm nhìn. Người kể chuyện trong tác phẩm không xuất hiện với tư cách một
người đứng ngoài chứng kiến và kể chuyện mà có mối giao lưu trực tiếp với nhân vật chính và
tham gia trực tiếp vào câu chuyện. Góc độ quan sát của người kể không cố định mà có sự tự do
biến hóa. Hai điểm nhìn của cùng một người kể đan lồng, liên kết, soi chiếu lẫn nhau tạo cho tác
phẩm tính chất đa thanh, phức điệu.
Từ khóa: Lỗ Tấn, Khổng Ất Kỷ, tự sự, điểm nhìn, người kể chuyện
1Truyện ngắn Khổng Ất Kỷ giữ vị trí quan
trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Lỗ Tấn (1881 - 1936) - nhà văn có vai trò
khai sáng nền văn học hiện đại Trung Quốc.
Đây là tác phẩm đứng ở vị trí thứ hai trong
tập truyện Gào thét - tác phẩm mà sinh thời
nhà văn yêu thích nhất. Đề cập tới Khổng Ất
Kỷ, các nhà nghiên cứu lâu nay chủ yếu đi
sâu phân tích làm nổi bật giá trị nội dung:
vấn đề số phận của người trí thức hủ nho
nghèo trong xã hội phong kiến Trung Quốc.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy một trong những phương diện nghệ
thuật góp phần làm nên thành công của thiên
truyện là nghệ thuật tự sự. Do mục đích và
giới hạn phạm vi nghiên cứu, trong các công
trình đề cập tới truyện ngắn Lỗ Tấn nói
chung, chưa có công trình nào đi sâu vào
phương diện nghệ thuật này.
Có thể thấy, các hình thức tự sự trong truyện
ngắn Lỗ Tấn hết sức đa dạng. Mỗi hình thức
thể hiện rõ tinh thần kế thừa nghệ thuật tự
sự truyền thống Trung Quốc cũng như tinh
thần học hỏi một cách sáng tạo nghệ thuật tự
sự phương Tây hiện đại. Tìm hiểu truyện Lỗ
Tấn, nhà nghiên cứu Lâm Chí Hạo viết:
“Truyện ngắn Trung Quốc ra đời khá sớm,
nhưng về mặt bút pháp rất ít biến hoá, chủ
1
Tel: 0912899619
yếu dựa vào tình tiết, thường sắp xếp theo
thứ tự từ đầu đến cuối, thực chất cũng giống
như một truyện dài rút gọn lại. Trong quá
trình sáng tác, Lỗ Tấn không sử dụng cách
viết này, ông tìm kiếm con đường sáng tác
mới” [1.134]. Hình thức tự sự theo ngôi thứ
nhất đến Lỗ Tấn không hoàn toàn còn là
mới lạ. Nhưng với nhà văn, hình thức tự sự
này đã được vận dụng một cách thường
xuyên (tỉ lệ chiếm 12/25 truyện, tức khoảng
50% trên tổng số tác phẩm được kể ở ngôi
thứ nhất), thành thục và đầy sáng tạo. Chúng
có sự khác biệt lớn so với các tác phẩm tự
sự theo ngôi thứ nhất truyền thống. Người
kể chuyện ở đây không phải chỉ xuất hiện
với tư cách của một người đứng ngoài câu
chuyện, mục kích và ghi lại sự kiện theo
kiểu nghe nhìn - ghi chép lại, mà còn
thường xuyên có sự tham dự trực tiếp vào
tình tiết tác phẩm với mức độ nông sâu khác
nhau. Anh ta có thể đảm nhiệm nhiều chức
năng: hoặc là người dẫn truyện, chứng kiến
câu chuyện (“tôi” - trong phần đề từ Nhật ký
người điên, “tôi” - trong phần đầu Chuyện
cái đầu tóc); hoặc là người tham gia thứ yếu
vào hành động của truyện (“tôi” - Thỏ và
Mèo, “tôi” - Kịch vui về đàn vịt); hoặc là
người tham gia ở mức độ sâu vào các tình
tiết của câu chuyện (“tôi” - Mẩu chuyện
nhỏ, Tường Lâm - Lễ cầu phúc, “người
điên” - Nhật ký người điên, ông N - Chuyện
Nguyễn Thị Mai Chanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 13 - 17
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cái đầu tóc, Lã Vi Phủ - Trong quán rượu);
hoặc kể lại câu chuyện về người khác (“tôi”
- Con người cô độc, “tôi” - Trong quán
rượu, “tôi” - Lễ cầu phúc), hoặc kể lại câu
chuyện liên quan trực tiếp tới chính bản thân
mình (Mẩu chuyện nhỏ, Tiếc thương những
ngày đã mất) hay gắn với những kỉ niệm của
cuộc đời mình (Cố hương, Hát tuồng ngày
rước thần) Nhưng cho dù hiện ra với dáng
vẻ, vai trò nào chăng nữa thì người kể chuyện
trong truyện ngắn Lỗ Tấn bao giờ cũng là con
người hiện hữu, cụ thể, xác định: một đứa trẻ
làm công nơi quán rượu (“tôi” - Khổng Ất Kỷ),
một người con xa quê bao năm trở lại (“tôi” -
Cố hương), một trí thức goá vợ (Quyên Sinh -
Tiếc thương những ngày đã mất), một phụ nữ
quê mùa goá bụa (Tường Lâm - Lễ cầu
phúc) Họ có quan điểm, tư tưởng và thái
độ đạo đức riêng. Họ là một nhân vật trong
tác phẩm và có quan hệ ở mức độ khác nhau
với những nhân vật khác. Họ tuy không
được vẽ lên quá lớn, làm che mờ, lấn át các
nhân vật khác nhưng cũng không phải chỉ là
những cái bóng mờ nhạt.
Dùng hình thức người kể chuyện xưng “tôi”
tìm kiếm hồi ức từ quá khứ, tác phẩm
Khổng Ất Kỷ kể về người nho sĩ cuối mùa
họ Khổng - kẻ suốt đời vương vít nợ công
danh, để rồi bị chính chế độ khoa cử phong
kiến đầu độc, vùi dập một cách thảm hại.
Khác với một số tác phẩm kể theo ngôi thứ
nhất của nhà văn như: Thỏ và Mèo, Kịch vui
về đàn vịt, người kể chuyện trong Khổng Ất
Kỷ có mối giao lưu trực tiếp với nhân vật
chính và tham gia trực tiếp vào câu chuyện.
Góc độ quan sát của người kể không cố định
mà có sự tự do biến hoá. Tác phẩm từ đầu
đến cuối đều được dẫn dắt bởi lời của người
kể xưng “tôi” đã thành niên, và trong quá
trình kể, có sự kết hợp với điểm nhìn của
“tôi” thời niên thiếu. Người kể, khi thì thể
hiện sắc thái cảm nhận của anh ta trong thời
điểm hiện tại, khi lại xuất phát từ góc nhìn
của “tôi” thuở mười hai tuổi. Hai điểm nhìn
khác nhau của cùng một người kể đan lồng
vào nhau, liên kết với nhau, soi chiếu nhau,
cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn diện
về số phận bi thảm của người trí thức hủ nho
Khổng Ất Kỷ, đồng thời cũng cho thấy cả
hành trình nhận thức của chính bản thân
nhân vật người kể chuyện xưng “tôi”. Lối tự
sự một người kể mang hai điểm nhìn đã đưa
đến cho tác phẩm này hiệu quả bất ngờ: điều
độc giả thâu nhận được nhiều hơn tất cả mọi
thông tin mà người kể truyền đạt.
Xét về hình thức tự sự, Khổng Ất Kỷ có
điểm gần gũi với truyện ngắn Hát tuồng
ngày rước thần của Lỗ Tấn. Hát tuồng ngày
rước thần cũng được kể theo phương thức
thời gian tâm lý gắn với quá trình hồi tưởng
quá khứ của nhân vật “tôi”. Người kể
chuyện xưng “tôi” vẫn bắt đầu câu chuyện
từ điểm nhìn hiện tại, nhưng anh ta lại sống
với quá khứ nhiều hơn. Câu chuyện là ấn
tượng, cảm nghĩ của “tôi” về ba lần đi xem
hát tuồng, hai lần vào khoảng mười năm trở
lại đây, và một lần vào khoảng hai mươi
năm trước, hồi “tôi mới mười một mười hai
tuổi”. Quá khứ hiện về trong hồi ức của
“tôi” không được kể theo trật tự thời gian
xuôi chảy một chiều, mà đi từ quá khứ gần
lùi về quá khứ xa. Được cấu trúc cũng chỉ
bởi một người kể chuyện xưng “tôi”, Hát
tuồng ngày rước thần tồn tại hai điểm nhìn
khác biệt (hai “tiêu điểm hoá”). Câu chuyện
được dẫn dắt bởi người kể ở tuổi thành niên,
song phần lớn quá khứ xa xôi lại được sống
dậy gắn với điểm nhìn của “tôi” thời thơ
bé Nhưng, khác với Hát tuồng ngày rước
thần, người kể chuyện trong Khổng Ất Kỷ
không phải là một trí thức. Nếu như ở Hát
tuồng ngày rước thần, giữa “tôi” thành niên
và “tôi” trẻ thơ có một khoảng cách khá xa về
tâm lý (song về qui phạm tư tưởng lại tương
đối thống nhất với nhau); thì ở Khổng Ất Kỷ,
về qui phạm tư tưởng, hai cái “tôi” này cũng
có khoảng cách, sự vênh lệch tương đối lớn.
Khoảng cách ấy phản ánh quá trình tự nhận
thức về mình của “tôi” - nhân vật người kể
chuyện. Có điều như đã nói, cái “tôi’ ở đây
không phải là cái “tôi” trí thức nên quá trình
tự nhận thức của anh ta chưa đạt đến sự tự ý
thức của người trí thức như trong các tác
phẩm viết về đề tài trí thức nói chung của Lỗ
Tấn.
Nguyễn Thị Mai Chanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 13 - 17
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phần đầu tác phẩm Khổng Ất Kỷ là sự giới
thiệu bối cảnh xuất hiện của nhân vật. Trong
ký ức “tôi” thành niên, khung cảnh quán
rượu Hàm Hanh, hình ảnh các vị khách và
cả “tôi” của hai mươi năm về trước như vẫn
còn dấu in đậm nét. Ngày ấy, “tôi” vì “dáng
người đần độn quá, e không hầu nổi các vị
khách áo dài” ở phòng trong, nên được chủ
quán cho “ra đứng ngoài làm việc vặt”,
phục vụ các khách áo cộc - các bác thợ
nghèo “đi làm về đến bỏ ra năm đồng
chinh mua một bát rượu rồi đứng tựa vào
quày, vừa uống vừa nghỉ cho đỡ mệt”
[2.33]. Song, có lẽ cũng bởi “tôi” là cậu bé
ngây thơ, chân thật, chưa biết tới những thủ
đoạn dối gian (như pha nước vào rượu) dưới
tầm “kiểm soát chặt chẽ” của các khách
hàng “đáo để”, nên cuối cùng bị “điều” giữ
một công việc “hết sức tẻ nhạt”: chuyên
trông coi việc hâm rượu. Với công việc này,
“tôi” luôn “thấy buồn và chán”, tuy nhiên
“tôi” lại có nhiều cơ hội quan sát kĩ lưỡng
các khách rượu ra vào trong quán. Trong số
những “khách hàng chẳng ai dễ thương” mà
“tôi” thường xuyên tiếp xúc, đọng lại rõ nhất
trong tâm trí “tôi” là hình ảnh bác Khổng Ất
Kỷ. Nguyên do khiến “tôi” “mãi đến nay vẫn
còn nhớ bác ta” trước hết là bởi ấn tượng từ
ngày ấy: “Chỉ khi nào có bác Khổng Ất Kỷ
đến thì mới có thể cười được ít tiếng”.
Để độc giả tiếp cận gần hơn với nhân vật
chính, cũng là để tạo tính chân thực cho câu
chuyện, ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ
giới thiệu nhân vật, người kể chuyện xưng
“tôi” thành niên đã trao điểm nhìn cho “tôi”
niên thiếu. Người đọc từ đây tiếp xúc với
nhân vật chủ yếu qua cái nhìn của cái “tôi”
này. Trong con mắt người kể chuyện nhỏ
tuổi, Khổng Ất Kỷ xem ra là một người gàn
dở, rất đáng khinh và đáng cười. Bị dẫn theo
cái nhìn ấy, người đọc ban đầu cũng có
chung ấn tượng như người kể chuyện.
Nhưng xem xong tác phẩm, độc giả nhận
thấy, người kể chuyện nhỏ tuổi này không
phải là “người kể đáng tin cậy”. Độc giả
không thể một chiều đi theo quy phạm đạo
đức của nó để nhìn nhận về nhân vật. Ngữ
điệu lời kể và thái độ của người kể trong quá
trình giao lưu với nhân vật đã khiến cho độc
giả có lý do để hoài nghi. Khổng Ất Kỷ
không chỉ đáng cười mà còn rất đáng thương
và đáng giận. Ai dù chỉ một lần đến với nhân
vật, hẳn không thể không bị ám ảnh bởi cái
hình ảnh nhếch nhác, tàn tạ, tiều tuỵ đến thảm
hại: “ một bộ râu hoa râm lồm xồm, rối như
mớ bòng bong. Áo tuy là áo dài, nhưng vừa
bẩn lại vừa rách, hình như hơn mươi năm
nay chưa hề vá mà cũng chưa hề giặt”
[2.35]. Tâm hồn người đọc càng không thể
yên được trước hình ảnh con người khốn
cùng ấy: “ngồi trệt dưới quày”, “trông không
ra hồn người”, “chống tay lết đi giữa tiếng nói
tiếng cười của những người xung quanh”, và
rồi sau đó chết đi tự lúc nào cũng không ai
thèm để ý.
Thi mãi “mà đến một chút tú tài cũng không
gỡ được”, ê chề ôm nỗi nhục thất bại, Khổng
Ất Kỷ vẫn một mực bảo thủ, không chịu
thừa nhận thất bại. Hễ mở miệng, ông ta
tuôn ra toàn những “chi hồ giả dã”, “quân
tử cố cùng” - những ngôn từ sách vở tỏ ra có
học hơn người, trong khi người nghe chẳng
ai hiểu gì. Tài hèn, “lại không biết làm gì mà
ăn”, phải bán rẻ cả nhân phẩm của mình (trở
thành kẻ trộm cắp) để mưu sinh, vậy mà ông
ta vẫn không chịu cởi bỏ chiếc áo dài rách
tượng trưng cho thân phận kẻ hủ nho bất tài.
Dẫu đến chết, nho sĩ họ Khổng vẫn khư khư
giữ lấy quan niệm cổ hủ “Vạn ban giai hạ
phẩm, duy hữu độc thư cao” (Trăm nghề
đều hèn hạ, chỉ có sách đèn là cao quý). Cái
quan niệm gàn dở ăn sâu trong tiềm thức
Khổng Ất Kỷ đã biến con người này trở
thành kẻ lười nhác, mất hết tinh thần chống
chọi với khó khăn, tự vươn lên trong cuộc
sống. Kẻ trí thức “rởm đời” ấy đã bị “đánh
cắp” danh giá tự bao giờ, vẫn cứ luôn miệng
nói tới “danh giá”, không còn chút liêm sỉ
nào, vẫn cứ luôn tỏ ra sĩ diện. Giở thói
“xoáy của nhà người ta” nên bị đánh, bị
châm chọc, ông ta “trừng mắt lên cự: - Sao
khi không các người lại bịa chuyện làm mất
danh giá người ta đi thế?”. Ăn cắp sách, bị
treo ngược lên đánh, bị cười nhạo, ông ta
vẫn miễn cưỡng biện hộ cho bản thân, ra sức
bảo vệ sự “tôn nghiêm” của người đọc sách:
Nguyễn Thị Mai Chanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 13 - 17
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
“- Lấy sách không phải là ăn cắp! Có biết
chữ mới lấy sách chứ? Thế mà bảo là ăn
cắp được à ?”. Rõ ràng không thể ngồi
chung cùng những khách áo dài có địa vị,
nhưng nhất quyết không chịu đứng vào hàng
những người áo ngắn bên ngoài, cái con
người “độc nhất mặc áo dài lại đứng trước
quày uống rượu” đó, lẽ đương nhiên, bị xã
hội thượng lưu cự tuyệt, cũng không được
xã hội hạ lưu chấp nhận. Đau đớn thay, sống
giữa mọi người, bị biến thành trò cười, biến
thành thằng hề mua vui không mất tiền cho
thiên hạ, nhưng nho sĩ họ Khổng không chịu
tỉnh ngộ! Bi kịch của Khổng Ất Kỷ chính là
bi kịch tất yếu của lớp trí thức nhu nhược,
yếu hèn, không xác định được vị trí của
mình nên bị cả xã hội bỏ rơi. Ông ta là con
người vừa đáng thương, vừa đáng giận là vì
lẽ đó.
Dù nói thế nào cũng phải thấy rằng, thân
phận Khổng Ất Kỷ thật thương tâm. Người
kể chuyện tuổi thơ - vốn là đứa trẻ chưa có
kinh nghiệm sống, chưa có năng lực lý giải
các vấn đề xã hội, con mắt nhìn đời, nhìn
người còn hết sức giản đơn - đã nhìn nhân
vật Khổng Ất Kỷ với một thái độ bàng quan,
thản nhiên đến dễ sợ. Lời kể tỏ ra khách
quan “thấy sao nói vậy”, không có lời bình
luận, không biểu lộ chút gì gọi là tình
thương hay ghét giận, nhưng qua đó, độc giả
tinh tường vẫn có thể nhận thấy rất rõ thái
độ giễu cợt, khinh miệt của người đời đối
với người trí thức khốn khổ ấy. Chỉ trong
vài trang sách, mà có tới bốn lần người kể
tái hiện cảnh Khổng Ất Kỷ “bước chân đến
quán là bao nhiêu khách đều nhìn bác ta mà
cười dậy lên hết. Trong quán ngoài quán
không khí nhộn hẳn”. Và không ít lần, sau
khi trở thành tâm điểm của những tiếng cười
nhạo, Khổng Ất Kỷ biết là khó có thể tìm
được sự cảm thông ở thế giới những người
lớn tuổi, nên đã hi vọng tìm chút an ủi nơi
tâm hồn vô tư, trong sáng của thế giới trẻ thơ,
bèn quay sang “nói chuyện với bọn trẻ con”.
Nhưng lần nào cũng vậy, kết quả ông ta nhận
lại không có gì khác biệt, vẫn là thái độ: “thờ
ơ”, “khó chịu”, “bĩu môi bỏ đi”, “không buồn
trả lời” Như vậy, đẩy Khổng Ất Kỷ tiến
nhanh đến bờ huỷ diệt, không chỉ có vô số
những bàn tay tham dự của người lớn tuổi,
còn có cả những đôi tay non nớt trẻ thơ, cho
dù bọn trẻ chưa ý thức được hành động của
chúng. Điều này càng khiến cho độc giả thêm
rùng mình khiếp sợ trước hiện thực xã hội
Trung Quốc đương thời- cái xã hội lạnh lùng,
khăm ác, mà những thói tật của nó như một
thứ ôn dịch đã lan nhiễm đến hầu khắp mọi
nơi, mọi đối tượng.
Có thể nói, việc sắp xếp để câu chuyện về
Khổng Ất Kỷ được tiến hành kể từ điểm nhìn
của người kể xưng “tôi” nhỏ tuổi đã tạo nên
giá trị đặc biệt. Với tư cách là người phục vụ
trong quán rượu, từ một vị trí gần, người kể
có thể quan sát nhân vật chính một cách kĩ
càng, tỉ mỉ, khiến nhân vật hiện lên trước mắt
độc giả hết sức sống động với đầy đủ các
phương diện: ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ,
thậm chí cả những biến thái tinh vi trong thế
giới nội tâm (sắc mặt, thần thái). Ngay khi
nhân vật không có mặt, người kể cũng có thể
lợi dụng các “trung tâm phát tán thông tin” là
những người xung quanh để bổ sung những
tin tức cần thiết về quá khứ và hiện tại của
nhân vật, giúp cho việc cắt nghĩa về số phận
và bi kịch cuộc đời nhân vật được hoàn thiện.
Mặt khác, sự quan sát nhân vật từ góc độ này
không những tạo được tính chân thực và độ
tin cậy cho hình tượng nhân vật chính, mà
còn khắc hoạ, làm nổi bật được cả hình tượng
nhân vật người kể chuyện xưng “tôi” một
cách tự nhiên.
Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm tới nhân vật
người kể chuyện xưng “tôi” nhỏ tuổi thì chưa
thể làm nổi rõ tính chất “phức điệu” của thiên
truyện. Khổng Ất Kỷ chủ yếu được kể theo
điểm nhìn của “tôi” nhỏ tuổi, giọng điệu toàn
tác phẩm về cơ bản mang giọng điệu khách
quan, lạnh lùng của cái “tôi” này. Nhưng
trùm lên cái “tôi” ấy là cái “tôi” khác - cái
“tôi” đang kể lại toàn bộ câu chuyện- có phần
xót thương cho số phận nhân vật, có ý bất
bình đối với cái “tôi” bàng quan, vô tâm ngày
bé. Nhìn trên bề mặt câu chữ, người dẫn dắt
câu chuyện là một người trưởng thành, trải
Nguyễn Thị Mai Chanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 13 - 17
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đời. Anh ta đem chuyện nhân sinh từng được
chứng kiến thời niên thiếu để nghiền ngẫm
lại, và chắc chắn đã “ngộ” ra được mùi vị
đắng chát của cuộc đời ghẻ lạnh. Thiên
truyện, bên cạnh giọng điệu chủ đạo lạnh
lùng, khách quan, còn phảng phất chất giọng
châm biếm, xót thương, phê phán. Khổng Ất
Kỷ khép lại bằng điểm nhìn của người kể
xưng “tôi” trưởng thành với tâm trạng bùi
ngùi, day dứt, thể hiện sự đồng cảm, tiếc
thương đối với thân phận của con người bất
hạnh: “Cho đến bây giờ tôi chẳng hề gặp lại,
có lẽ bác Khổng Ất Kỷ chết thật rồi chăng?”
[2.42]. Về cơ bản, cái “tôi” trưởng thành có
khoảng cách khá xa với cái “tôi” nhỏ tuổi và
ít nhiều có qui phạm tư tưởng, tình cảm gần
gũi với nhà văn.
Chúng ta đều biết, ưu điểm nổi bật của tự sự
theo ngôi thứ nhất là cho nhân vật khả năng
tự bộc lộ nhiều hơn, bởi người kể chuyện
xuất hiện trong tác phẩm bao giờ cũng dưới
hình thức một cái “tôi” nào đó. Thêm nữa,
câu chuyện được kể ở ngôi thứ nhất với
người kể xưng “tôi” thường tạo cảm giác
đáng tin cậy hơn vì có thể tránh đến mức tối
đa sự can thiệp của vai trò trung gian. Người
kể không phải “kẻ xa lạ” núp khuất ở đâu
đó, tách ra ngoài câu chuyện, mà thường
hoà mình tham gia vào các biến cố của
truyện, nhất là khi người kể chuyện đóng vai
nhân vật chính.Bởi, còn ai có thể hiểu “tôi”
hơn chính bản thân “tôi”. Nếu như ở tự sự
theo ngôi thứ ba, người kể chuyện đứng
ngoài câu chuyện; thì ở tự sự theo ngôi thứ
nhất, người kể chuyện luôn đồng thời là
nhân vật trong truyện, nói cách khác, người
kể chuyện được “nhân vật hoá”. Người kể
ngôi thứ nhất cũng có thể đứng ngoài câu
chuyện, nhưng xét đến cùng, vẫn ít nhiều
gắn với các sự kiện hoặc liên quan tới các
nhân vật trong truyện. Ở tự sự theo ngôi thứ
ba, lời kể chủ yếu là lời người kể chuyện
hoặc lời nửa trực tiếp (lời người kể trà trộn
với lời nội tâm nhân vật); còn ở tự sự theo
ngôi thứ nhất, lời kể chính là lời nhân vật.
Lời văn trong tác phẩm kể theo ngôi thứ
nhất thuộc phạm vi lời trực tiếp của nhân
vật. Đó trước hết như là lời bên trong của
nhân vật, mang tính chất “hướng nội”, nhân
vật nói ra như thể nói với chính mình. Nhưng
vì nó đồng thời là lời kể chuyện, hướng tới
quá trình giao tiếp với người đọc nên nó cũng
mang tính chất “hướng ngoại”. Hai bình diện
này luôn hoà quyện vào nhau tạo cho lời văn
có thể vang lên những thanh âm nhiều chiều
đa nghĩa. Mang đặc điểm của truyện ngắn Lỗ
Tấn nói chung, Khổng Ất Kỷ cũng không lấy
tình tiết làm chính, mà chú tâm thể hiện
những “bí mật” nội tâm của nhân vật. Vẫn
nằm trong khung truyện ngắn “hạn chế sự
kiện”, tác phẩm thể hiện sự nghiêm ngặt
trong lựa chọn chi tiết, thiên về nêu lên, kể
ra, tức là gợi ý, đề xuất, đặt vấn đề, kiệm lời
đến mức có thể. Thủ pháp “nghệ thuật gián
tiếp”, đề cao chất trí tuệ, chú trọng khả năng
tìm tòi từ phía độc giả tiếp tục được phát huy.
Bởi vậy, ý nghĩa của tác phẩm này phụ thuộc
nhiều vào người đọc. Người đọc quen thú
“nhởn nhơ” giải trí, hưởng thụ những gì bày
đặt sẵn trong tác phẩm sẽ không thể tiếp cận
tới được chiều sâu của nó.
Thông thường, ở một tài năng nghệ thuật,
sức mạnh tư duy tập trung ở hình tượng
nhân vật. Qua nhân vật Khổng Ất Kỷ, người
đọc không chỉ có được ấn tượng rõ rệt về
nhân vật đó, mà đồng thời cảm nhận được
sâu sắc cái nhìn của nhà văn đối với cuộc
sống, tấm lòng của nhà văn đối với con
người. Nâng tầm bút tạo dựng một thế giới
nghệ thuật sống động về những tấn bi kịch
tinh thần của những kiếp người đau khổ, nhà
văn đã vươn tới một tầm nhìn cao về một
thế giới mà ông hằng quen thuộc. Đi sâu
khai thác các căn bệnh ẩn khuất nơi tận cùng
ngõ ngách tâm hồn con người, Lỗ Tấn
không chỉ mục đích phơi bày những số phận
bi đát, sâu xa hơn, ông còn muốn cắt nghĩa
nguyên nhân, lý giải nỗi đau tâm hồn của
họ. Bi kịch của Khổng Ất Kỷ là bi kịch xã
hội, và cũng là bi kịch của tính cách. Cái
nhìn của Lỗ Tấn, do vậy, là cái nhìn nghệ
thuật có chiều sâu nhân bản. Bên trong cái
giọng lạnh lùng đến thản nhiên, người đọc
luôn nhận thấy một tấm lòng thiết tha nhân
hậu, vừa ân tình, xót thương trước nỗi khổ
đau, bất hạnh; vừa chua chát, đắng cay trước
Nguyễn Thị Mai Chanh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 13 - 17
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
sự nhu nhược, lệch lạc, yếu hèn của con
người trong thời kỳ lịch sử đặc biệt ấy của
xã hội Trung Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lâm Chí Hạo (2002), Truyện Lỗ Tấn
(Lương Duy Thứ, Nguyễn Thị Minh Hồng dịch),
Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.
[2]. Lỗ Tấn (2000), Truyện ngắn Lỗ Tấn
(Trương Chính dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
[3]. Lỗ Tấn (2007), Lỗ Tấn kinh điển toàn tập,
Nxb Bắc Kinh.
SUMMARY
NARRATION WITH TWO VIEWS IN THE SHORT STORY KHONG AT KY BY LU XUN
Nguyen Thi Mai Chanh
2
College of Education – Thai Nguyen University
This article mentions an aspect of the art which contributes to the success of the story “Khong At
Ky”. Unlike other narrative works with the first person narrator in Chiness traditional literature in
general and in Lu Xun’s short stories in particular, Khong At Ky has an outstanding narration
style: one narrator with two views. The narrator in the story does not only appear as an outsider,
but also has a direct relationship with main characters and participates in that story’s events. The
narrator’s view is not fixed but flexible. Two views of the same narrator have a connection with
each other, creating various meanings for the story.
Key words: Luxun, Kong Yiji, self - narrative, view, narrator.
2
Tel: 0912899619
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_3741_9759_tusu1nguoikemang2diemnhinquatruyenngankhongatkycualotan_5446_2052875.pdf