Nhiều tổ chức cho rằng họ bán sản phẩm và dịch vụ cốt là để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Song, các tổ chức càng thành công, họ càng có thể vượt lên trên những đối thủ khác vì họ hiểu rõ điều gì diễn đang ra trong tâm trí khách hàng, điều gì khiến khách hàng hành xử đối với sản phẩm và dịch vụ của tổ chức và điều gì khiến họ trung thành. Những tổ chức lớn nhất có khả năng sử dụng sự hiểu biết đó để truyền thông một cách
hiệu quả và, nếu có thể, truyền thông một cách trực tiếp tới cá nhân khách hàng của mình, qua đó giải thích rõ ràng sứ mệnh khai thác các nguồn lực của chính mình và các đối tác phân phối nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Thông qua việc quản trị quan hệ, tổ chức phấn đấu không mệt mỏi để phát triển các mối quan hệ có ý nghĩa với những khách hàng có lợi nh
23 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1919 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Truyền thông tích hợp nhằm xây dựng quan hệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng.
Khái niệm về marketing quan hệ đảm nhận mức độ ý nghĩa ngày càng tăng trong việc cải
thiện thông tin và công nghệ truyền thông để tổ chức có thể truyền thông theo một cách
thức thông minh hơn bằng cách tạo các thông điệp dựa trên sự hiểu biết tốt hơn về các
đặc tính và các đáp ứng của các khách hàng hiện tại và tiềm năng và một sự hiểu biết tốt
hơn về những gì họ xem là có lợi ích.
Challenge (Thách thức) 10.1 : Bia nhẹ - một giấc mơ marketing?
Cùng với những nhãn hiệu bia nhẹ ít danh tiếng, như Kestrel và McEwans,
Scottish và Newcastle (S&N) đã cắt bớt Hofmeister. Để hiểu được lý do của
quyết định này, cần thiết phải hiểu vai trò của marketing trong sự phát triển bia
nhẹ ở UK từ khi nó mới được đưa ra thị trường.
Hofmeister là một loại bia nhẹ chuẩn với 3.2% rượu ở UK được sáng tạo một các
đặc trưng và chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố văn hóa và kinh tế. Sản phẩm đã
được thích nghi với thị trường nước Anh.
Hàng triệu kỳ nghỉ trọn gói ở nước ngoài của người Anh trong thập niên 60 và
đầu thập niên 70 thích hương vị của bia nhẹ, nhưng bia nhẹ được bán với lượng
nhỏ hơn chai một panh truyền thống ở Anh và với nồng độ 5%. Ngành bia rượu ở
Anh thích bán bia nhẹ, đặc biệt là bia đóng chai, dễ phục vụ hơn, nhưng họ nhận
thấy rằng người uống bia Anh không thể tiêu thụ bia nhẹ nồng độ 5% trong chai
dung lượng đang sử dụng. Do vậy, nồng độ tiêu chuẩn 3.2% được sản xuất bằng
việc làm bia trong một thời gian ngắn hơn.
Tuy nhiên điều này cũng tạo ra một thách thức marketing, mặc dầu một ***
Thành công và thất bại trong truyền thông marketing
Các lý do của sự không hiệu quả của truyền thông marketing
Tất cả các hình thức truyền thông marketing có một mục tiêu căn bản là đảm bảo chuyển
tải một cách chính xác các thông điệp có chủ đích giữa người gửi và người nhận, và giảm
thiểu tác động của các thông điệp không chủ đích (thường có hiệu ứng bất lợi đến năng
lực thị trường và danh tiếng của công ty).
Tuy nhiên, ở mỗi bước của quá trình truyền thông có chủ đích thường nảy sinh các vấn
đề (hình 10.3). Bất cứ khi nào trong quá trình truyền thông các thông điệp được sẽ có
hiện tượng nhiễu do các truyền thông khác có thể can thiệp vào quá trình truyền thông có
chủ đích. Hiện tượng nhiễu này có thể làm mất giá trị hoặc làm mất uy tín của thông điệp
có chủ đích hoặc đơn thuần làm mất đi số lượng truyền thông khi công chúng mục tiêu bị
thu hút tập trung vào những truyền thông được xem là thú vị hơn. Vấn đề đặt ra cho các
công ty là quyết định xem liệu họ có tạo ra sự nhận biết một cách chân thật, thu hút sự
chú ý của khách hàng và thuyết phục họ hành động hay nói chung chỉ làm gia tăng vào số
lượng khổng lồ các truyền thông bị lãng quên.
Họ cũng phải quyết định liệu tiến trình truyền thông của họ có thật sự là hai chiều và liệu
rằng sự các phản hồi có đảm bảo rằng những người nhận đã hiểu thông điệp theo đúng
chủ đích và đáp ứng lại một cách tích cực.
Truyền thông marketing quốc tế lại đặc biệt có vấn đề, như thường thấy trong các ấn
phẩm thương mại, bao gồm nhiều huyền thoại nghiêm trọng mà cũng thường hài hước về
những trải nghiệm thất bại của các công ty lớn trong truyền thông ở các thị trường toàn
cầu. Sai lầm trong sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt sử dụng thông điệp không dịch tương
đương hoặc dịch sai, là một vấn đề đặc biệt. Nhưng vấn đề nghiêm trọng hơn là thiếu độ
nhạy cảm đối với các văn hóa khác nhau giữa các nhà truyền thông toàn cầu. Rõ ràng sau
những thất bại, công ty sẽ được xem như kém năng lực, không nhạy cảm và làm giảm giá
trị thương hiệu.
Các cản trở đối với truyền thông hiệu quả có thể nằm trong tầm kiểm soát hoặc ngoài tầm
kiểm soát của tổ chức.
Sau đây là một số vấn đề nằm trong tầm kiểm soát của tổ chức:
• Sự không nhất quán trong thông điệp chuyển tải đến khách hàng mà đội ngũ nhân
viên ở các cấp độ khác nhau, ở các khu vực khác nhau và về các đề tài khác nhau
có liên quan đã thực hiện.
• Các phong cách khác nhau trong giới thiệu diện mạo tổ chức, nhãn hiệu và hình
ảnh sản phẩm của các bộ phận khác nhau và các đơn vị kinh doanh ở các quốc gia
khác nhau có thể khiến khách hàng nhầm lẫn
• Thiếu sự phối hợp giữa các thông điệp, ví dụ như báo chí, các chiến dịch quảng
cáo và thay đổi của sản phẩm về đặc tính, giá cả không ăn khớp với nhau.
• Sai lầm trong việc đánh giá sự khác nhau của các phạm vi nhận thức (cách thức
thông điệp được hiểu) của người gửi và người nhận. Phạm vi nhận thức bị tác
động một cách mạnh mẽ bởi các tiêu chuẩn tự tham chiếu của cả hai bên. Có lẽ,
đây là nơi mà vấn đề quan trọng nhất phát sinh vì, như chúng ta đã thảo luận, để
tránh điều này đòi hỏi sự hiểu biết về các môi trường khác nhau, sự thấu hiểu về
văn hóa và mong muốn để làm cho các chương trình và các tiến trình truyền
thông thích nghi với các đòi hỏi của địa phương.
• Bỏ qua các nhu cầu của các đối tượng công chúng khác nhau
• Đạt được tầm ảnh hưởng thấp từ chỉ một thông điệp
• Thiếu sự hợp lực và tăng cường từ các thông điệp đa chiều
• Nhiều hơn một thông điệp được truyền thông cùng một lúc, do vậy làm người
nhận rối loạn
• Đặt ra các mục tiêu không rõ ràng và thực hiện các đo lường không ý nghĩa
• Cố gắng đạt được quá nhiều với một thông điệp nhằm điều chỉnh chi phí cao.
• Không nhất quan với kênh phân phối
• Các hãng truyền thông quá tập trung vào tính sáng tạo thay vì là để bán sản phẩm.
Một vài vấn đề này trong số này là do sự thiếu hiểu biết, thái độ không đúng đắn và
thiếu sự thấu hiểu, còn những vấn đề khác lại do sự thất bại liên quan đến sự không
hiệu quả của chiến lược của công ty, của việc hoạch định và thực hiện và mức độ hiểu
biết rõ ràng của đội ngũ nhân viên khi tổ chức không và không lôi kéo họ một cách
hoàn toàn vào tiến trình hoạch định truyền thông. Không thể tránh khỏi thất bại trong
truyền thông theo thời gian và điều quan trọng là tổ chức phải học từ những sai lầm
của mình. Để đảm bảo thành công điều quan trọng là phải thực hiện một tiến trình
kiểm tra hiệu quả.
Mặc dù có thể lập luận rằng đa số những thất bại cuối cùng cũng nằm trong tầm kiểm
soát của tổ chức, thì một số tình huống xuất hiện trong truyền thông của công ty có
thể bị ảnh hưởng bởi các nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của tổ chức hoặc quá khó
để kiểm soát chúng. Ví dụ như những tình huống sau đây:
• Giả mạo hoặc những sự xâm phạm bản quyền. Những vấn đề này không chỉ làm
tổ chức mất thu nhập mà còn phải gánh chịu những thiệt hại đến hình ảnh nếu
người tiêu lầm tưởng rằng những sản phẩm kém chất lượng giả mạo là thật
• Nhập khẩu song song hoặc marketing lậu, là việc phân phối thông qua những
kênh không được sự cho phép của tổ chức, truyền thông các thông điệp trái
ngược, không phản ánh được hình ảnh nhãn hiệu và do vậy làm rối trí khách
hàng. Điều này đặc biệt nghiêm trọng nếu những nhà nhập khẩu song song giảm
giá quá nhiều so với giá trên những kênh phân phối chính thức, trong trường hợp
đó khách hàng có thể tin rằng họ các kênh chính thức lừa.
• Các đối thủ cạnh tranh, chính phủ hoặc các nhóm ảnh hưởng chính trị tấn công
những chuẩn mực và những giá trị của tổ chức bằng cách lên án, một cách công
bằng hoặc không công bằng, rằng tổ chức là một kinh doanh không tốt. Có thể
gây ngạc nhiên, nhưng mặc dù với nguồn lực to lớn, một số công ty lớn đã phản
ứng một cách không hiệu quả lại sự lên án từ những bên hữu quan ít mạnh hơn.
Chẳng hạn, các công ty như Shell, Exxon và McDonald’s đã gặp nạn khi bị chỉ
trích là thiếu quan tâm đến môi trường. Sự thiếu các chuẩn mực và kiểm soát
mạng internet cũng gây ra nhiều vấn đề. Ví dụ như website chống lại Coca-cola
đã chuyển tải các truyền thông tin bất lợi mà không cần phải chứng minh cho
thông điệp đó.
Tích hợp các truyền thông
Các bên hữu quan nhận các thông điệp, có thể là có chủ đích hoặc không có chủ đích,
từ nhiều nguồn của các hoạt động của tổ chức, từ áo quần mà khách hàng nhìn thấy
nhân viên công ty mặc, từ thiết kế bao bì sản phẩm, từ sự chậm trễ trả lời điện thoại
tại trung tâm điện dịch vụ khách hàng đến câu chuyện trong tạp chí về giai thoại của
nhà quản trị điều hành của công ty. Khi mà số lượng các truyền thông ngày càng tăng
một cách mạnh mẽ và khách hàng trở nên ngày càng có óc phê phán và nghi ngờ, tầm
quan trọng của truyền thông marketing tích hợp (IMC) ngày càng được nhấn mạnh
nhằm tránh những thông điệp mâu thuẫn và thay vào đó là truyền thông một cách
nhất quán với các thông điệp hỗ trợ lẫn nhau. Fill (1999) đã chỉ ra rằng chiến lược
truyền thông đại chúng truyền thống đã được cá nhân hóa hơn, hướng vào khách hàng
và cách tiếp cận theo công nghệ. Để thành công đòi hỏi một cách tiếp cận hoàn toàn
khác, tập trung và khách hàng cá nhân và Kotler (2003) đã phát biểu rằng “Một tổ
chức cần phối hợp một tập hợp nhất quán các ấn tượng từ đội ngũ nhân viên của công
ty, từ cơ sở vật chất đến các hành động trong việc chuyển tải ý nghĩa thương hiệu của
công ty và cam kết với các đối tượng công chúng khác nhau của tổ chức”
Shrimp (2003) đưa ra một khái niệm về truyền thông marketing tích hợp tập trung
vào năm đặc tính sau:
• Bắt đầu với khách hàng hoặc viễn cảnh
• Sử dụng bất kỳ hình thức tiếp xúc nào phù hợp
• Đạt được sự hợp lực thông qua sự nhất quá xuyên suốt các yếu tố truyền thông
• Xây dựng các mối quan hệ
• Tác động đến hành vi
Truyền thông cũng là một phần của hoạt động marketing và hoạt động của tổ chức,
các quyết định truyền thông phải tính đến và bổ sung cho hoạt động của các bộ phận
khác. Chiến lược truyền thông phải phù hợp với sự phân quyền chiến lược trong tổ
chức và các hoạt động chung. Khách hàng nhận nhiều thông điệp từ nhiều nguồn
khác nhau trong tổ chức, và những thông điệp này cũng phải tích hợp với nhau.
Các lợi của sự tích hợp
Thật ra các thông điệp riêng lẻ có rất ít ảnh hưởng lên khách hàng, truyền thông sẽ có
ý nghĩa và hiệu quả hơn rất nhiều nếu nhiều thông điệp nhất quán, chuẩn mực và hỗ
trợ lẫn nhau phù hợp với cách thức tạo dựng hình ảnh của nhãn hiệu, sản phẩm và
dịch vụ và nhấn mạnh các chuẩn mực và giá trị của tổ chức.
Chúng ta sẽ rất dễ điều chỉnh chi phí và kiểm soát các hoạt động truyền thông, nếu
chúng được tích hợp lại và việc đánh giá hiệu quả tích lũy cũng dễ dàng hơn sơ với
các hiệu quả riêng lẻ. Đo lường các hoạt động riêng lẻ rất kho khăn, chẳng hạn khi có
quá nhiều biến số gây nhiễu vì thê đo lường hiệu quả của của hoạt động kết hợp sẽ
nhạy cảm.
Chiến lược của công ty
Mặc dầu thường được xem là một phần của marketing mix, trong nhiều tổ chức
truyền thông đóng một vai trò quan trọng hơn nhiều so với những gì chúng ta gán cho
nó, bởi vì nhu cầu truyền thông các mục tiêu, chiến lược và năng lực đến các bên hữu
quan bên ngoài và nội bộ, bao gồm các cổ đông và đội ngũ nhân viên rất lớn. Quan
trọng là chỉ cần duy trì việc trình bày rõ ràng trong thông điệp của truyền thông tổ
chức cũng như truyền thông marketing.
Nhiều phương diện của hành vi tập thể trong tổ chức có thể tác động và bị tác động
bởi chiến lược truyền thông. Chẳng hạn phong cách quản trị, văn hóa tổ chức, các
nguồn nhân lực và chính sách tuyển dụng sẽ chuyển tải các thông điệp quan trọng
đến nhiều bên hữu quan và đặc biệt quan trọng, đến khách hàng. Chẳng hạn, Asda
Wal-Mart ở Anh luôn đạt điểm cao trong các cuộc thăm dò sự hài lòng của nhân viên.
Phong cách quản trị của tổ chức và văn hóa bên bên trong tổ chức có thể có một ảnh
hưởng quan trọng lên mức độ tin cậy vào các mối liên hệ với các đối tác kinh doanh,
như các nhà cung ứng và các nhà phân phối. Đặc biệt quan trọng trong thị trường
quốc tế, và nhất là ở Châu Á nơi mà các mối quan hệ sẽ sụp đổ nếu không được củng
cố bằng các quan hệ chặt chẽ và niềm tin cá nhân giữa các nhà quản trị trong các tổ
chức đối tác.
Marketing và chiến lược thương hiệu
Đó là vài trò của chiến lược truyền thông trong việc chuyển tải các hoạt động cụ thể
do vậy, theo định hướng của chiến lược marketing của tổ chức hoặc chiến lược
thương hiệu. Tuy nhiên, nó cũng có thể đóng vai trò dẫn đạo trong việc xác định
đường hướng mà chiến lược marketing hoặc chiến lược thương hiệu. Ví dụ, có nhiều
ví dụ về quảng cáo sáng tạo và khác biệt của các sản phẩm xác định cốt lõi của sản
phẩm và dịch vụ và do vậy dẫn dắt chiến lược marketing và thương hiệu tổng thể.
Cũng có nhiều ví dụ các tổ chức thất bại trong việc tìm ra một chiến dịch ấn tượng để
duy trì động lực và mối quan tâm của khách hàng. Mặc dầu những yếu tố khác của
chiến lược rất tốt nhưng việc thực hiện đôi khi lại tồi tệ.
Tích hợp toàn cầu
Khi tổ chức vận hành toàn cầu, du lịch và truyền thông trở nên càng toàn cầu hơn bởi
vì internet và truyền hình cáp, do vậy sự nhất quán của truyền thông quốc tế trở nên
thiết yếu. Điều này có nghĩa là tổ chức phải quyết định mức độ chuẩn hóa của các
chương trình và tiến trình truyền thông. Doole và Lowe (2004) giải thích các lợi ích
của hiệu quả kinh tế theo qui mô và đường cong kinh nghiệm theo mà sự tiêu chuẩn
hóa đem lại cũng như những bất lợi và những cạm bẫy gắn liền với sự tiêu chuẩn hóa
tòan cầu trong truyền thông.Do vậy, họ lập luận rằng việc tiếp nhận một tiến trình
như nhau trong quảng cáo hoặc đưa ra các sản phẩm mới ở các quốc gia khác nhau
thay vì sử dụng cùng một chiến dịch sẽ hiệu quả hơn nhiều cho hầu hết các kinh
doanh.
Chiến lược marketing đơn vị kinh doanh
Càng ở cấp địa phương, cấp đơn vị kinh doanh, các nhà quản trị truyền thông phải làm
việc chặt chẽ với các đồng nghiệp phụ trách phát triển, sản xuất, các nhà quản trị khách
ahngf, bán ahngf và các trung tâm dịch vụ khách hàng nhằm phát triển một cách tiếp cận
tích hợp cung cấp một dịch vụ liên hoàn đến khách hàng. Tuy nhiên, nó không diễn ra
một cách tự động và tiến trình ra quyết định marketing chiến lược phải được thiết lập một
cách thận trọng để đạt được sự tích hợp như mong muốn.
Tích hợp phối thức marketing
Khách hàng tiếp nhận một cách thường xuyên các truyền thông của tổ chức từ các hoạt
động của phối thức marketing. Mỗi yếu tố của phối thức marketing giao tiếp với khách
hàng, như được thể hiện trong Figure 10.4. Một số truyền thông có chủ định và một số
không có chủ định nhưng tất cả phải được tích hợp. Nghiên cứu của ngành kinh doanh
mỹ phẩm toàn cầu đã tìm ra rằng đối với bao bì sử dụng đa ngôn ngữ của các hàng hóa,
các khách hàng anh chống đối việc phần thông tin tiếng anh nằm ở dưới phần tiếng Pháp
và Đức.
Rất quan trọng phải nhớ rằng trong nhiều thị trường, truyền thông không sử dụng ngôn
ngữ có một tác động rất lớn lên truyền thông ngôn ngữ, đặc biệt là với một thời lượng
nhất định mà khách hàng phải đầu tư trong một truyền thông. Chẳng hạn, nét đặc trưng
và phong cách sử dụng trong truyền thông không sử dụng ngôn ngữ sáng tạo với khách
hàng, nhấn mạnh các hình ảnh và nhận thức của khách hàng. Các tổ chức, như Marks &
Spencer, đã sử dụng thiết kế bao bì phù hợp đối với một số sản phẩm mà khách hàng có
thể nhận ra ngay lập tức sản phẩm của công ty, thậm chí khi đã loại bỏ những gì liên quan
đến công ty và nhãn hiệu. Khách hàng có thể tìm ra các sai lầm nhỏ trong thiết kế và phối
màu, do vậy tính kỷ luật trong sử dụng nhận diện tổ chức là rất cốt lõi. Trong các văn hóa
khác nhau, ý nghĩa của màu sắc, biểu tượng và các con số là rất quan trọng vì nó có thể
ngăn cản khách hàng mua sản phẩm.
Ra quyết định về kế hoạch truyền thông marketing
Trong khi luận về việc thực hiện chiến lược truyền thông marketing, việc phản ánh các
khái niệm cốt lõi tạo cơ sở cho các quyết định cần thiết trong mỗi bước rất hữu ích. Table
10.1 chỉ ra khuôn khổ đặc trưng, các thành tố chủ chốt của kế hoạch truyền thông tích
hợp và các lĩnh vực phân tích hoặc các lựa chọn quyết định.
Chúng ta biết rằng phân tích tình huống cần tạo ra một định vị mong muốn và hiện tại rõ
ràng cho tổ chức trong bối cảnh môi trường thị trường của mình. Việc phân tích cũng cần
khẳng định hoạt động kinh doanh hiện tại và năng lực chiến lược marketing trong lĩnh
vực kinh doanh của tổ chức. Từ đó, có thể thiết lập khả năng của tổ chức nhằm ảnh
hưởng và thuyết phục khách hàng thông qua chiến lược truyền thông tích hợp. Do vậy
cũng rất quan trọng trong quyết định kích cỡ và bản chất của độ lệch phải phủ kín giữa vị
trí hiện tại và mong muốn của tổ chức khi nó sẽ thiết lập trình tự của các nhiệm vụ truyền
thông.
Nó cũng cho phép các quyết định về các mục tiêu truyền thông được thiết lập, những mục
tiêu này phải khác so với các mục tiêu chiến lược về marketing chung. Có vẻ ngạc nhiên,
nhưng nhiều tổ chức vẫn xem quảng cáo và các mục tiêu marketing là một và là một thứ
và không biết đến vấn đề như chúng ta đã bàn trước đây, rằng truyền thông có phạm vi
lớn lao nhưng cuối cùng hạn chế trong việc tác động lên thành tích marketing chung.
Cùng một cách như vậy, chiến lược truyền thông là một phần của chiến lược marketing
và nó phải cung cấp một sự giải thích rõ ràng làm thế nào các mục tiêu sẽ được chuyển
tải. Điểm bắt đầu thường là việclại bắt đầu chiến lược phân đoạn, lựa chọn thị trường
mục tiêu và định vị và vai trò của truyền thông trong chiến thuật và hành động.
Trong thảo luận về các hoạt động truyền thông, chúng ta đã tập trung vào các lĩnh vực ra
quyết định quan trọng về công chúng mục tiêu, các công cụ và phương tiện, thông điệp
và ngân sách.
Công chúng
Một sự hiểu biết rõ ràng về khách hàng mục tiêu, tiền sử của họ, kinh nghiệm và các
nguồn thông tin yêu thích sẽ cung cấp cho tổ chức diện mạo của khách hàng giúp cho
việc sáng tạo thông điệp cũng như lựa chọn các công cụ marketing và phương tiện truyền
thông phù hợp. Các phân đoạn khác nhau và các thế hệ mới đáp ứng rất khác nhau đối
với truyền thông marketing. Chẳng hạn, trong thị trường B2B, việc mua hàng của tổ chức
là một tiến trình có tính chính thức hơn và liên quan đến trung tâm mua hàng bao gồm
một số nhân viên, mỗi người với trách nhiệm và động cơ mua hàng khác nhau giữa các
công ty. Các tổ chức thường có một quan điểm rập khuôn về cách thức khách hàng ra
quyết định. Các nhà cung ứng công nghệ thông tin sẽ nhắm đến các nhà quản trị công
nghệ thông tin và các công ty dược phẩm sẽ nhắm đến các những người có khả năng cho
toa thuốc với hy vọng họ là những người ra quyết định. Trong thực tế việc ra quyết định
phân tán và liên quan đến nhiều người. Vì thế các người làm marketing cần phải thiết kế
các truyền thông đặc biệt, khác nhau cho mỗi thành viên của trung tâm mua hàng.
Các công cụ và phương tiện truyền thông
Các quyết định then chốt trong khi hoạch định là lựa chọn phương tiện được làm bởi
khách hàng và phương tiện đến đó của họ. Các đặc tính then chốt là:
- Tầm với: tỷ lệ phần trăm công chúng mục tiêu tiếp cận với thông điệp tối thiểu
một lần trong thời kỳ nhất định
- Độ phủ: qui mô công chúng tiềm tàng có thể chịu ảnh hưởng của một phương tiện
truyền thông – Tần số: chu kỳ lặp lại của truyền thông.
− Điểm đánh giá gộp( GRP):nhân tầm với với tần số và một công cụ đo lường số thông
điệp của truyền thông
− Hiệu quả: một đại lượng then chốt hưon trong khi làm quyết định, nói rõ việc đạt đến
nhiều khách hàng nhất có thể được với một ngân sách cho trước.
Các quyết định trong khi hoạch định bao gồm sự đánh đổi giữa tầm với, tần số và sự tác
động đến khách hàng đang được tìm đến thông qua truyền thông. Kinh nghiệm chỉ ra
rằng các tình thế mua khác nhau yêu cầu các mô thức lập kế hoạch quảng cáo khác
nhau(Shrimp 2003).
Bảng 10.2 Các vai trong việc mua hàng
Những người sử dụng Thường khởi xướng việc mua sắm và xác định đặc tính
Những người ảnh hưởng Giúp xác định sản phẩm và đánh giá các phương án
Những người quyết định Quyết định các yêu cầu sản phẩm và các nhà cung cấp
Những người phê chuẩn Cho phép các đề nghị của những người quyết định và người mua
Những người mua Có quyền lực chính thức trong việc lựa chọn các nhà cung cấp và thương lượng các điều khoản
Những người bảo vệ Có thể ngăn chặn những người bán tiếp cận với trung tâm mua
Chuyển biến
Một vấn đề nữa là các quyết định mua hiện tại có phải là do quảng cáo hay không. Khái
niệm chuyển biến hàm ý rằng điều quan trọng để lập kế hoạch truyền thông là nắm được
những người sẵn sàng mua. Một số cho thấy rằng những kích thích mua sắm chính lại
xuất hiện khi dùng sản phẩm, như vậy ý nghĩa quảng cáo có thể ít có ý nghĩa ở những
thời điểm khác.
Các công cụ truyền thông
Các công cụ truyền thông chính được liệt kê trong bảng 10.3 cùng với một diễn giải
chung về hiệu lực tương đối của nó. Trên thực tế việc lựa các công cụ được xác định bởi
bốn tiêu chuẩn sau: chi phí, hiệu lực truyền thông, sự tin cậy và kiểm soát trong bối cảnh
cụ thể. Ví dụ, Wilson và Gilligan (2004) giải thích rằng hiệu lực chi phí của các cong cụ
marketing biến đổi theo các giai đoạn khác nhau của chu kỳ sống.
Bảng 10.3 Các công cụ truyền thông marketing chủ yếu
Quảng cáo
− Hợp pháp hóa
thương hiệu
− Biểu lộ sự sáng
tạo
− Tạo dựng hìnhảnh
− Tiết kiệm
− Cam kết và tin cậy
− Trình bày một cách sáng tạo các lợi ích vận hành và cảm xúc
− Xây dựng tính cách riêng lâu dài
− Chi phí quản cáo thấp tới đông đảo công chúng nhưng mức tác động
thấp
Khuyến mãi
− Ảnh hưởng
− Thử
− Đắt đỏ
− Sói mòn hình ảnh
− Tác động nhanh và mạnh tới lượng bán
− Khuyến khích dùng thử trong các thị trường ít quan tâm
− Khi chúng liên quan đến giảm giá, tăng chi phí và có thể ảnh hưởng
đến việc bán hàng bình thường
− Xúc tiến thường xuyên có thể làm sói mòn hình hảnh
Quan hệ công
chúng
− Tin cậy
− Mơ hồ
− Chi phí thấp
− Khó khăn
− Các bài phóng sự đáng tin cậy hơn là quảng cáo và xúc tiến
− Mức kiểm soát ít trên các các thông điệp và công chúng
− Có thể nhận được đáng kể quảng cáo miễn phí
− Tùy thuộc vào tầm quan trọng được cảm nhận và sự hấp dẫn trong
thông điệp
Bán hàng cá
nhân
− Hai chiều
− Closure
− Các quan hệ
− Đắt đỏ
− Cơ động hơn và các cung cấp có thể sửa đổi
− Có thể thỏa thuận và người mua kỳ vọng được đáp ứng
− Thân thiện khuyến khích lòng trung thành và làm liên tục
− Chi phí giao dịch có thể cao
Marketing trực
tiếp
− Cá nhân hóa
− Đáp ứng
− Tương tác
− Hướng đích
− Cụ thể và theo cá biệt theo từng khách hàng
− Đáp ứng trực tiếp và có thể tăng doanh số nhanh
− Chuẩn bị nhanh các thông điệp và thay đổi dễ dàng
− Hướng vào phân đoạn cụ thể một cách chính xác
Source: adapted from Doyle, P. (2000)
B2B
Với hầu hết các quyết định truyền thông B2B là hướng tới công chúng mục tiêu nhỏ và
do đó các công cụ thị trường khối lượng lớn chẳng hạn như quảng cáo (từ các quảng cáo
qua ấn phẩm thương mại) xúc tiến bán thường không nên sử dụng. Marketing trực tiếp,
PR và bán hàng cá nhân dường như là phương tiện hữu hiệu hơn.
Quảng cáo
Vai trò của quảng là quảng bá, thuyết phục, nhắc nhở, củng cố. Nó vốn là phương pháp
truyền thông khối lượng lớn cho B2C trong những thập kỷ qua, nhưng nó là một cách
thức truyền thông và là cách truyền thông khó hướng đích hơn các công cụ truyền thông
tương tác khác, chẳng hạn như internet marketing. Hơn nữa, các quảng cáo bằng TV nói
chung ngắn hơn và thường đặt với các chương trình khác, người xem rất dễ chuyển giữa
các kênh, do vậy làm giảm tác động của nó. Kotler (2003) cho rằng một số quảng cáo
dường như chỉ là để bù đắp phần chi phí làm doanh số tăng lên và rằng chúng không đáp
ứng kỳ vọng tăng doanh số cho các sản phẩm thông thường. Quảng cáo không nên là một
thay thế cho thiết kế thích hợp và hiệu suất của sản phẩm hay dịch vụ.
Khuyến mãi
Kotler cho rằng khuyến mãi là một thủ thuật ngắn hạn liên quan đến marketing giao dịch,
không tạo dựng các quan hệ, tác động đến lượng bán hơn là tạo dựng thương hiệu. Thực
vậy, doanh số có thể tăng trong ngắn hạn nhưng khả năng sinh lợi trong dài hạn có thể bị
tổn thương. Khuyến mãi thường được sử dụng với các thương hiệu yếu hơn và lôi kéo
những người chuyển đổi. Các doanh nghiệp cần quyết định về tần suất khuyến mãi có
thực sự cần thiết hay hữu ích để tăng doanh số hay không bởi vì nó sẽ không giúp tạo
dựng giá trị thương hiệu.
PR
PR thường ít được các doanh nghiệp khai thác và đầu tư. Khách hàng cảm nhận về PR
như biểu thị chính thức hơn và đáng tin cậy hơn là các truyền thông như quảng cáo mà
biểu hiện một cách rõ ràng là đi từ phía doanh nghiệp. Giới báo chí luôn đói các câu
chuyện cho các chương trình triển khai và tờ báo của họ, và họ rất quan tâm đến các câu
chuyện nóng hổi và thú vị mà lại rẻ tiền. Các doanh nghiệp có thể thương lượng với các
biên tập viên báo chí thương mại để phô trương các sản phẩm của họ với chi phí thấp. Tất
nhiên, bất lợi của PR là khó kiểm soát. Ví dụ, một câu chuyện có thể được xuất bản phần
nào khác so với ý định ban đầu, nhưng điều này có thể khắc phục bằng việc tạo dựng và
quản trị quan hệ với các phương tiện đại chúng.
PR bao gồm các hoạt động như từ thiện, sử dụng miễn phí và một trong vai trò chính của
PR là quản trị các khủng hoảng, đó là những điều mà đôi khi tác động xấu đến giá trị
thương hiệu hay công ty
Tài trợ
Chúng ta biết rằng nhiều doanh nghiệp sử dụng công cụ tài trợ cho các sự kiện hay các cá
nhân. Quyết định sử dụng công cụ tài trợ nên được xem như một chi phí hay một đầu tư.
Tài trợ (Shrimp 2003) gồm sự trao đổi sự kiện không phải trả tiền liên quan đến sự kiện
hay marketing của một công ty bởi người tài trợ. Để nhận được lợi ích cực đại tới hai hay
ba lần chi phí tài trợ cần tạo sự kiện trước và hành động sau. Thành công toàn bộ dường
như sẽ lớn hơn khi có sự phù hợp giữa công chúng của sự kiện và khách hàng mục tiêu.
Tài trợ của các cá nhân, như các ngôi sao thể thao, có thể có rủi ro rất cao nhưng lợi ích
đôi khi cũng rất lớn. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp ý tưởng tài trợ bị thất bại bởi những
liên tưởng không hay, ví dụ như với Michael Jackson và Mike Tyson, nhưng có nhiều ý
tưởng lại rất thành công như David Beckham, Tiger Woods, Venus Williams.
Bán hàng cá nhân
Trước đây, nhiều tổ chức đã quản trị bán hàng cá nhân không hữu hiệu và túng túng trong
việc bán cho các đơn đặt hàng. Ngày nay, bán hàng cá nhân đang trở nên đắt đỏ hơn và
các tổ chức có những cách thức khác để truyền thông với khách hàng nhằm thu nhận đơn
hàng, chẳng hạn như bán hàng qua điện thoại, các đại diện bán hàng và marketing điện tử
trực tiếp. Do đó, bán hàng cá nhân đang được sử dụng có chọn lọc hơn và thường được
quản trị tốt hơn, với trọng tâm điểm là động viên người bán hàng, định hướng và kiểm
soát. Nó vẫn cần thiết ở nơi nào phải thương lượng phức tạp cần có sự thuyết phục và ở
những nơi mà có thể đủ khả năng để trang trải được cho 4 hay 5 lần lui tới cho một giao
dịch bán hàng.
Marketing trực tiếp
Marketing trực tiếp thực hiện các dạng truyền thống như gởi thư trực tiếp và bán hàng
qua điện thoại được hỗ trợ bởi việc quản trị hệ thông tin dữ liệu, nhưng thay đổi cơ bản
đã xuất hiện cùng với việc phát triển kinh doanh điện tử. Trong nhiều doanh nghiệp chiến
lược marketing trực tiếp nghĩa là sử dụng một tập hợp các kỹ thuật marketing tạo ra sự
cân bằng giữa các cách tiếp cận thị trường, và tích hợp các khởi sự và đáp ứng thông qua
quản trị dữ liệu.
Các thông điệp
Chúng ta biết rằng điều khó khăn là làm sao cho các thông điệp nổi bật trước đám đông.
Để làm được điều này, các thông điệp phải đơn giản và theo Kotler (2003) ích lợi, câu
chuyện, hay đặc tính nên đặt ở nơi khách hàng có thể biết có thể liên tưởng nhiều nhất
đến định đề. Thông điệp trùng với và phản ánh ước vọng của khách hàng và gợi lại định
kỳ.
Tuy nhiên, Ries (2004, www.adage.com) cảnh báo rằng sẽ rất lãng phí tiền bạc vào
những khẩu hiệu marketing kém.
Do chi phí truyền thông cao và sức ép để đạt được các kết quả ngắn hạn có thể khiến cho
người ta cố đưa mọi thứ mà tổ chức muốn nói với khách hàng vào một thông điệp hơi dài
và phức tạp để thuyết phục mua. Thực ra, khách hàng không sẵn lòng bỏ phần thu nhập
tiền bạc khó khăn của họ cho một sản phẩm hay dịch vụ mà họ mới chỉ nghe về nó.
Trong thị trường B2B ngay cả người bán hàng giỏi thuyết phục nhất có thể phải mất 3-4
lần đến gặp trực tiếp trước khi thuyết phục được khách hàng.
Thực tế, quá trình chuyển biến của khách hàng cần chia thành 3 giai đoạn, như bảng 10.4.
Để đạt được hiệu lực tốt nhất, các thông điệp, các công cụ truyền thông và những đóng
góp khác nhau từ hỗn hợp marketing tổng thể cần phải thực hiện tương ứng ở mỗi giai
đoạn của quá trình này. Thậm chí, trong tình huống B2B, mỗi giai đoạn có thể còn cần
hướng tới cả các thành viên khác nhau của trung tâm mua. Có một loạt các mô hình
truyền thông mà tương ứng với kết quả tương tự và mỗi mô hình trong đó được mô tả
trong hình 10.5
Có thể nói rằng, các mô hình như vậy có thể thích hợp, và gắn với các quyết định như
mua xe ô tô, nhưng lại không nhất thiết với các qui trình mua thay thế định kỳ
Các giai đoạn truyền thông thuyết phục
Nhận thức
Khách hàng cần nhận thức trước về sản phẩm sao cho họ có thể
hiểu các lợi ích của nó.
Tác động
Cần thiết để tạo ra thái độ tích cực hướng khách hàng vào sản phẩm
chẳng hạn như mong muốn và ưa thích so với các sản phẩm cạnh
tranh
Xử sự Khách hàng đến giai đoạn họ sẽ hành động và mua lần đầu, mua lại hay đề xuất quá trình mua của tổ chức
Ngân sách
Wilson và Gilligan (2004) nhận dạng các cách tiếp cận khác nhau khi lập ngân sách:
١. Tổ chức có thể chu cấp bao nhiêu
٢. Phù hợp với chi tiêu của các đối thủ hay chuẩn mực ngành
٣. Tỷ lệ % cố định so với doanh số quá khứ
٤. Tỷ lệ % nhất định so với lợi nhuận quá khứ
٥. Giá trị cố định để thực hiện một mục tiêu hay nhiệm vụ cụ thể
Mỗi cách tiếp cận có những lợi ích và bất lợi riêng và quyết định cách tiếp cận nào sẽ tùy
thuộc bối cảnh của tổ chức. Trên thực tế cách tiếp cận hoạch định ngân sách biểu thị quan
điểm của công ty về ngân sách truyền thông marketing và nó xem đây là khoản chi phí
hay đầu tư, và mức độ đo lường, phân tích với những cam kết để đánh giá tính hiệu quả.
Các ngân sách của nhiều doanh nghiệp được quyết định không theo thể thức dự định. Có
thế có các tranh luận đối với phần ngân sách của mỗi thương hiệu hay sản phẩm và phần
được của một nhà quản trị này có thể là phần mất đi của nhà quản trị khác. Mặt khác,
trong một môi trường “marketing trừu tương” có thể có khuynh hướng các doanh nghiệp
cố khắc phục khó khăn của việc đo lường điều không thể đo lường đơn giản là bằng cách
lựa chọn các công cụ truyền thông có thể đo lường được. Điều này giải thích vì sao
khuyến mãi và marketing trực tiếp chẳng hạn có thể bị lạm dụng trong khi đó PR ít được
sử dụng hơn và giành ít giá trị hơn. Các công cụ có tác động rõ ràng và có thể đo lường
phần lớn lại cung cấp các lợi ích ngắn hạn, trong khi các công cụ như quảng cáo hay PR
thường cung cấp các hiệu ứng dài hạn có giá trị nhất như tăng nhận thức, củng cố thương
hiệu lại thường khó đo lường hơn. Giá trị của đa số các thương hiệu lớn nhất hiện nay đã
được tạo dựng hỗn hợp marketing hỗ trợ nhau, nhất quán và việc quảng cáo khối lượng
lớn.
Kiểm soát
Mặc dù, có những e ngại về công dụng không thích hợp của chúng, song một loạt các
phương pháp dưới đây vẫn được để nghị sử dụng trong việc ra quyết định:
• Kiểm tra sổ sách thường xuyên
• Nghiên cứu và đo lường trước khi thực hiện
• Nghiên cứu và đo lường liên tục
• Nghiên cứu và đo lường sau khi thực hiện
• Nghiên cứu theo dõi
• Định chuẩn
Các đo lường có thể bao gồm đóng góp từ cán bộ trong công ty, khách hàng và các
chuyên gia các đại diện bên ngoài khác. Quan trọng là nhấn mạnh vào một số điểm trong
quyết định về việc đánh giá truyền thông.
• Có mối liên hệ chặt giữa thước đo và các mục tiêu được thiết lập và điều này có
nghĩa là thước đo nên gắn với lợi ích lô gic có thể nhận được từ truyền thông
marketing tích hợp.
• Mục đích chính của đánh giá có thể được xem là kiểm soát để sửa chữa các lệch
lạc ngắn hạn so với hiệu suất dự định, nhưng quan trọng hơn là dùng cho việc
phát triển chiến lược.
• Điểm ích lợi nhất của việc đánh giá là học tập từ các sai lầm và thực hiện tốt, Việc
học tập này nên được chia sẻ với các đồng nghiệp thông qua hệ dữ liệu thích hợp.
Bảng câu hỏi để xem xét tính hiệu quả của một chiến dịch cụ thể và các kế hoạch truyền thông.
Các mục tiêu truyền thông ccó được giao hay không?
Đóng góp đối với chiến lược marketing là gì?
Giá trị và hiệu quả của chương trình có thể hiện bằng tiền bạc không?
Thông điệp có hữu hiệu không- nó được cảm nhận như thế nào?
Chương trình có thành công với công chúng mục tiêu hay không?
Nó các tác động đến các công chúng hữu quan khác hay không
Công cụ và các phương tiện truyền thông có được sử dựng hữu hiệu và hiệu quả không?
Quá trình và kế hoạch tổng thể có hữu hiệu và hiệu quả không?
Nó có được thực hiện với cách thức khác biệt và tốt hơn không?
Có thể rút ra bài học gì?
PHÁT TRIỂN CÁC QUAN HỆ MARKETING LÂU DÀI VÀ CÓ LỢI
Chúng ta đã tập trung vào các chiến lược truyền thông được sử dụng để bảo đảm rằng các
bên hữu quan của doanh nghiệp trên khắp thế giới nhận thức được các chuẩn mực, các
giá trị, tính khác biệt và chất lượng của các thương hiệu, các sản phẩm và dịch vụ rằng
các khách hàng bị các thông điệp cổ vũ họ mua các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
chứ không phải là của đối thủ cạnh tranh và nhận được các sản phẩm, dịch vụ ở những
địa điểm thích hợp, thông qua các đối tác và trung gian thích hợp. Một khi các khách
hàng bị lôi kéo, thường là với một chi phí đáng kể, doanh nghiệp ngày càng nhận ra rằng
sẽ không phải là tốn kém nếu doanh nghiệp có thể thuyết phục khách hàng duy trì lòng
trung thành với doanh nghiệp hơn là để họ chuyển sang với đối thủ cạnh tranh và lại phải
tốn kém lần nữa để lôi kéo. Giá phải trả cho sự không thỏa mãn được cho khách hàng có
thể rất cao trong toàn thu nhập tiềm tàng của vòng đời.
Giữ được khách hàng là điều cực kỳ quan trọng trong marketing B2B, bơie số lượng các
cơ hội để lôi kéo khách hàng mới rất hạn chế và mất một khách hàng lớn có thể là một
thảm họa nghiệp. Giá trị vòng đời của khách hàng là đáng kể, nhưng chi phí để khách
hàng thay đổi tới một nhà cung cấp mới cũng rất lớn. Cả nhà cung cấp và khách hàng đều
có lợi ích nào đó từ quan niệm marketing quan hệ, dựa trên ý tưởng “đôi bên cùng có lợi”
và cùng hưởng lợi ích, nhưng lợi ích thực tế của việc giữ chân khách hàng là đáng kể
nhất.
Chính vì vậy, tầm quan trọng của marketing quan hệ (RM- relationship marketing)
(RM) bắt đầu được nhận thức từ những năm 1970, và marketing quan hệ đã được giải
thích như một lý thuyết và thực hành mới trong những năm (Groonroos 1996). Tất nhiên
các nhà marketing đã luôn nhận thức rằng việc tạo dựng các quan hệ chính là bộ phận
chính yếu của quan hệ nhà cung cấp-khách hàng, đặc biệt khi cung vượt quá cầu.
Marketing quan hệ liên quan đến việc phát triển và duy trì các mối quan hệ lợi ích qua
lại. Các quan hệ giữa doanh nghiệp trong chuỗi cung cấp và việc sử dụng các khả năng và
nguồn lực kết hợp để cung câp giá trị tăng thêm cực đại cho khách hàng cuối cùng. Nó
bao gồm một cách tiếp cận lô gíc hơn để hiểu các động lực thị truờng và phát triển các
chiến lược ứng dụng để đáp ứng các thay đổi nhu cầu thị trường đã được nhận diện.
Như với nhiều quan niệm khác, các tổ chức cố gắng áp dụng marketing quan hệ một cách
phổ biến thường là trong các tình thế không thích hợp.
Điều đáng quan tâm là khách hàng tiêu dùng hàng thay đổi nhanh (fmcg) có thể có lợi ích
gì từ marketing quan hệ.
Khái niệm marketing quan hệ
Có những khác biệt đáng kể giữa việc chấp thuận một cách tiếp cận marketing truyền
thống dựa trên các giao dịch cá nhân, trong đó nhấn mạnh vào 4P của hỗn hợp marketing
sản phẩm (đặc biệt là sản phẩm Product), và một các tiếp cận dựa trên việc tạo dựng các
quan hệ với nhấn mạnh đặt vào ba chữ P tăng thêm của hỗn hợp dịch vụ ( đặc biệt là con
người (People). Hạt nhân của marketing quan hệ là ý tưởng cho rằng thay vì cố gắng một
cách giản đơn tăng thêm dịch vụ khách hàng vào một giải pháp sản phẩm đã xác định
trước dựa trên một hỗn hợp marketing cứng nhắc, doanh nghiệp nên cung cấp cho khách
hàng sự thỏa mãn bằng việc cung cấp một giải pháp hỗn hợp marketing linh hoạt để đáp
ứng các nhu cầu đang tiến triển của khách hàng, nhờ việc đặt các nhóm xuyên chức năng
lại với nhau. Rõ ràng ý tưởng này có ý nghĩa với các mua sắm có tính bao hàm cao và ít
có ý nghĩa với các mau sắm có tính bao hàm thấp hay các sản phẩm dịch vụ gần như
thông thường. Horovitz (2000) cho rằng trong marketing quan hệ hỗn hợp marketing
truyền thống 4P bị thay đổi hoàn toàn, và thay thế bằng 4C của marketing quan hệ: Nhu
cầu khách hàng (Customer needs); chi phí (Costs); tiện lợi (Convenience); và truyền
thông (Communication).
Có các cấp độ khách hàng và trung gian khác nhau có thể ngày càng được đối xử như các
khách hàng, ít ra trong quan niệm tạo dựng các quan hệ. Có một số tranh luận về việc
quan niệm marketing quan hệ có thể và nên được áp dụng cho tất cả các trường hợp
marketing hay không. Groonroos (1994) đã chỉ ra rằng marketing quan hệ sẽ càng tương
thích khi có sự dịch chuyển sang phí phải của chuỗi liên tục trong hình 10-7
Với mọi doanh nghiệp các mục tiêu của marketing quan hệ là để:
• Duy trì và tạo dựng các khách hàng hiện tại bằng việc cung cấp các giải pháp kinh
doanh phù hợp và chi phí hiệu quả hơn.
• Sử dụng các quan hệ để hướng tới các đơn vị kinh doanh và các thành viên khác
trong chuỗi cung cấp có lẽ ở trong các bộ phận khác của thế giới và không phải là
khách hàng hiện tại.
• Tăng thu nhập từ các khách hàng bằng việc cung cấp các giải pháp kết hợp sản
phẩm và dịch vụ.
• Giảm chi phí hoạt động và truyền thông của việc phục vụ khách hàng, bao gồm
hành động trước một quan hệ truyền thống.
Các khó khăn khi áp dụng chiến lược marketing quan hệ
Hàng tiêu dùng
đã đóng gói
Marketing
dịch vụ
Hàng tiêu dùng
lâu bền
Marketing
Kỹ nghệ
Marketing
giao dịch
Marketing
quan hệ
Hình 10.7 Dải biến thiên marketing giao dịch –Marketing giao dịch
Nguồn: Groonor (1994)
Marketing quan hệ không thể tránh khỏi yêu cầu một triết lý khác hẳn ở trong doanh
nghiệp và các thay đổi các mục tiêu chiến lược truyền thông và marketing, các ngân sách
và các thước đo hiệu suất. Groonroos (1996) cho rằng marketing quan hệ có hay chiều
khác nhau như hình 10-8: Marketing quan hệ chiến lược và marketing quan hệ tác nghiệp
(chiến thuật).
Bảng 10-8 Marketing quan hệ chiến lược và marketing quan hệ tác nghiệp
Các vấn đề có tính chiến lược của marketing quan hệ:
Định nghĩa kinh doanh như một hoạt động kinh doanh dịch vụ
Nhận thức rằng các yếu tố cạnh tranh then chốn liên quan đến việc cung cấp dịch
vụ tổng thể chứ không phải đơn thuần là bán sản phẩm
Quản trị doanh nghiệp theo quan niệm quản trị quá trình chứa không hải là quản trị
chức năng ( quá trình tạo giá trị cho khách hàng chứ không phải đơn thuần quản trị
sản xuất, marketing một cách hiệu quả)
Phát triển các quan hệ đối tác và các mạng lưới để xử lý toàn bộ quá trình phục vụ
… bằng cách tạo ra các cuộc tiếp xúc với các nhà cung cấp, các trung gian được
nhiều người biết đến
Các vấn đề chiến thuật hay tác nghiệp:
Tìm các cuộc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và các bên hữu quan khác
Xây dựng cơ sở dữ liệu chứa các thông tin cần thiết về khách nhàng và các bên hữu
quan khác
Phát triển hệ thống quản trị quan hệ khách hàng để quản trị các quá trình thông tin
khách hàng, đặt hàng sản phẩm và dịch vụ, giao hàng và các dịch vụ hậu mãi.
Tìm kiếm các tiếp xúc trực tiếp
Một hàm ý xa hơn của marketing quan hệ đó là cần phải tạo dựng các mối liên hệ không
chỉ với khách hàng cuối cùng mà còn với các bên hữu quan khác có khả năng ảnh hưởng
đến việc mua sắm cuối cùng. Payne và các cộng sự (1995) cho rằng điều này bao gồm
các cán bộ bên trong như các nhóm và các cá nhân, các nhà chuyên nghiệp và các khách
hàng đã được thỏa mãn có thể giúp tạo dựng các quan hệ thông truyền miệng các lời giới
thiệu, các cá nhân và các tổ chức có ảnh hưởng đến môi trường marketing, các nhân viên
mới được tuyển dụng, được giữ lại và giúp tạo dựng sự tôn trọng trong cộng đồng rộng
rãi hơn, các nhà cung cấp và khách hàng. Các tiếp xúc này phải được hướng đích vào
marketing quan hệ để được sử dụng một ccáh hữu hiệu, khẳng định tầm quan trọng của
các truyền thông tích hợp.
Tuy nhiên, năng lực và ảnh hưởng của tổ chức đến các thị trường này sẽ biến đổi đáng kể
trên thế giới, và tầm quan trọng tương đối của chúng tùy thuộc và bối cảnh cụ thể diễn ra
hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn, trong lĩnh vực công nghệ, những người ảnh
hưởng chính và các khách hàng dẫn đầu có thể ở trong một thị trường quốc gia cụ thể,
nhưng các quyết định của họ có thể ảnh hưởng tới quyết định mua sắm trong toàn ngành.
Phát triển cơ sở dữ liệu
Điểm khởi đầu là để tạo dựng một hệ thống công nghệ thông tin sẽ tích hợp các hoạt
động marketing quan hệ. Trung tâm của hệ thống là một cơ sở dữ liệu nhận diện các
khách hàng mà sẽ phát triển các quan hệ với họ. Cơ sở dữ liệu tốt nhất có thể xây dựng từ
các số liệu về các tương tác với khách hàng và sau đó được bổ sung với các danh mụ mua
sắm của khách hàng có thể có. Chaffey và các cộng sự (2003) giải thích rằng các chi tiết
về khách hàng nên bao gồm:
• Dữ liệu tiểu sử và cá nhân, bao gồm các chi tiết tiếp xúc
• Dữ liệu giao dịch bao gồm số lượng mua sắm, các kênh, định thời hạn, và vị trí
• Dữ liệu truyền thông bao gồm việc đáp ứng với các chiến dịch
Shrimp (2003) giải thích rằng giá trị mua sắm, tần suất, và lần mua sắm gần đây có thể
được sử dụng để nhận diện các khách hàng ưu tiên, ai là đáng giá nhất với doanh ngiệp
trong quan niệm marketing quan hệ.
Wasserman et al. (2000) giải thích rằng Việc khai thác dữ liệu được sử dụng để “khám
phá các hiện thực ẩn được chứa trong cơ sở dữ liệu”. Việc nhân diện các quan hệ giữa dữ
chứa trong cơ sở dữ liệu cho ra một cơ sở để định hướng một cách có lợi đến các khách
hàng tương lai, phát triển các quan hẹ hợp tác với các công ty khác và hiểu sâu sắc hơn
mô thức hành vi mua sắm của khách hàng.
Chaffey và các cộng sự (2003) giải thích rằng các mục tiêu then chốt là: Giữa khách
hàng, mở rộng khách hàng (tăng chiều sâu và phạm vi), lựa chọn khách hàng( phân đoạn
và chọn khách hàng mục tiêu). Chaffey và Smith (2001) chỉ ra rằng “nhất thiết phải chọn
ra các khách hàng tốt nhất và mà không phải là các khách hàng xấu những người hay
tranh cãi về giá, thanh toán chậm trễ, hay phàn nàn, vơ vét mọi thứ khuyến mãi và bỏ
công ty ngay khi có công ty khác tới”.
Trong khi nhiều dữ liệu có thể thu thập được bằng những hoạt động tiến hành trong tổ
chức, điều quan trọng phải nhận thấy rằng phải có một lượng đầu tư lớn để thiết lập các
cơ sở dữ liệu và cũng phải nhận thấy rằng việc duy trì nó cũng cần những cam kết tài
chính lớn, biết rằng khoảng hơn 20% dữ liệu sẽ bị lỗi thời sau một năm. Do vậy, các nhà
tư vấn Peppers và Rogers của 1to1.com kết luận rằng nó không dành cho các nhà
marketing khối lượng lớn hay các doanh nghiệm như vậy với ngân sách hạn chế.
Quản trị quan hệ khách hàng
Thị trường người tiêu dùng quốc tế có đặc tính qui mô nhỏ và tương đối nặc danh. Thậm
chí cả những người bán lẻ cũng không thể biết hành vi cá nhân, thái độ, dự định mua sắm
các trải nghiệm (tốt hay xấu) của khách hàng trong quan hệ với doanh nghiệp, ngược lại
với một người làm marketing kỹ nghệ với chỉ một vài khách hàng có thể. Như chúng ta
đã thảo luận trong phần cơ sở dữ liệu, công nghệ đã phát triển để cố gắng tích hợp hoạt
động marketing quan hệ và quản trị khối lượng lớn thông tin hỗ trợ. Quản trị quan hệ
khách hàng (CRM) là phần mềm máy tính hữu hiệu kết hợp với các quá trình và các thủ
tục quản trị đã được xác định cho phép nhân viên trong toàn bộ tổ chức nắm bắt và sử
dụng thông tin về khách hàng của họ để duy trì và tạo dựng quan hệ. Các công ty như.
O’Malley (2003) cho rằng cải thiện quan hệ khách hàng cần một cách tiếp cận có hệ
thống:
• Đánh giá bản chất của các quan hệ với tất cả các bên hữu quan
• Cân nhắc mức độ quan hệ cần thiết và thích hợp, trong bối cảnh cụ thể của doanh
nghiệp, sản phẩm, dịch vụ và nguồn lực sẵn có.
• Phát triển chiến lược, tính đến nhu cầu phát triển nhân viên, các thay đổi cần thiết
với hệ thống tổ chức, chẳng hạn dịch vụ khách hàng, quảng cáo, và tác động đến
các chiến lược marketing chẳng hạn quảng cáo hay marketing trực tiếp.
• Đánh giá nhu cầu về công nghệ tăng thêm để hỗ trợ cho CRM
• Tính toán chi phí áp dụng chiến lược.
Mặc dù, CRM đóng vai trò quyết định trong truyền thông tích hợp và phát triển các quan
hệ với khách hàng như là tâm điểm. Kotler (2003) chỉ ra rằng trên thực tế nhiều doanh
nghiệp đã nắm được quan niệm và bỏ ra từ 5-10 triệu USD cho hệ thống CRM nhưng vấn
chưa hài lòng về kết quả thu được. Ông dẫn chứng nghiên cứu của Forum CRM rằng
chưa tới 30% các công ty thỏa mãn, với công ty có vấn đề, các sự cố phần mềm (2%)
thay đổi tổ chức (29%), tính ỳ/chính kiến công ty (22%), thiếu hiểu biết về CRM (20%),
hoạch định kém (12%), thiếu kỹ năng CRM (6%) gặp khó khăn về ngân sách(4%) và lời
khuyên không tốt (1%), khác 4%. Các vấn đề phát sinh khi các doanh nghiệp xem hệ
thống CRM như một sắp đặt nhanh chóng để cố gắng quản trị khối lượng lớn dữ liệu. Họ
khái quát hóa chung chung về các phân đoạn khách hàng và thường quá vô tình với
những khác biệt về văn hóa và các quan tâm của khách hàng.
Thực vậy, O’Malley (2003) cho rằng trong nhiều trường công nghệ được sử dụng nhưng
không hiểu về quá trình quản trị khách hàng vốn các nhân viên chưa quen thuộc. Quá
hiều trường hợp hệ thống CRM được dẫn dắt bởi những yêu cầu công nghệ thông tin và
do đó công nghệ dẫn đạo. Hậu quả là họ có thể theo dõi và đáp ứng với hành vi nhưng
không tính đến phân biệt các thái độ khách hàng vốn lại là tâm điểm của marketing quốc
tế. Cũng vậy CRM không được chấp thuận trong một nền tảng rộng khắp tổ chức và thay
vì nó được chấp nhận bởi từng bộ phận riêng lẻ vì những lý do cụ thể. Điều này cũng dấn
được điều chỉnh bởi vì nhu cầu giao diện nó với các hệ thống kế thừa vá nó trở nên bị
phân mảnh và thay vì phải giảm chi phí nó lại làm tăng chi phí. Việc ứng dụng CRM dẫn
đến các kỳ vọng tăng lên về mức độ phục vụ, giữa khách hàng và nhân viên và nếu điều
này không thực hiện được thì CRM có thể có một hiệu ứng bất lợi đối bới doanh nhiệp.
các cơ hội cho marketing quan hệ cung cấo các lợi ích đang tăng lên bởi vì những cải
thiện về công nghệ thông tin và truyền thông, và việc mua sắm xuyên biên giới. Tuy
nhiên, Christy và các cộng sự (1996) cho rằng việc thiết lập marketing quan hệ thành
công tùy thuộc vào mức độ hiểu của mỗi đối tác về lợi ích tiềm tàng và những bổn phận
đôi bên cần thiết để làm cho nó hoạt động. Tuy nhiên, Fournier và các cộng sự (1998)
nhấn mạnh rằng khách hàng không nhất thiết là một người tham gia tự nguyện trong sứ
mệnh quan hệ, nếu điều này không được nhận thức thì marketing quan hệ cũng chứng tỏ
giá trị hạn chế. Thật vậy, câu hỏi cần được trả lời là đa số khách hàng có nhận được lợi
ích nào từ quan hệ với một MNE١ hay – các lợi ích chủ yếu sẽ là của doanh nghiệp
Với các mặt hàng giá mua tương có một nguy hiểm đó là chi phí để doanh nghiệp tạo
dựng lòng trung thành của khách hàng có thể nặng hơn ci phí của cách tiếp cận truyền
thống hơn để marketing các sản phẩm và dịch vụ. Khó có thể đo lường các lợi íc của các
chi phí ngắn hạn với thu nhập dài hạn và một vài công ti đang sẵn lòng đặt quan điểm dài
hạn trên các giả thiết về những gì có thể xảy ra trong tương lai.
Trong thực tế, các phương pháp của marketing quan hệ trong thị trường tiêu dùng đang
phân kỳ với marketing qua hệ trong lĩnh vực kinh doanh. Trong các thị trường tiêu dùng
marketing quan hệ sẽ dần đề cập đến tạo dựng các liên kết 1-1 với các khách hàng thông
qua tương tác và việc khuyến mãi và phân phối các sản phẩm dịch vụ theo một phương
tiện thích hợp chỉ là thời điểm
Marketing quan hệ trong kinh doanh đang dẫn đến các quan hệ và sự cộng tác chặt chẽ
hơn ngay cả với các quan hệ mua sắm nhất thời các mặt hàng thông thường.
Permission marketing
١ MNE is a computer consulting firm specializing in HTML/PHP/MySQL web database application
programming, including e-commerce
Godin (2002) đã giải thích rằng trong quá khứ các khách hàng bị bỏ bom đến 500 thông
điệp marketing mỗi ngày từ các nguồn truyền thông truyền thống, nhưng ngày nay, khách
hàng có thể gặp đến 3000 thông điệp bởi vì sự hiện diện của các công nghệ truyền thông
mới. Điều này nghĩa là hiệu ứng của các thông điệp riêng bị nhạt nhòa trong khối lượng
mà ông ám chỉ như là marketing gián đoạn. Ông đưa ra thuật ngữ marketing chấp nhận
để chỉ các truyền thông càng có hiệu quả khi khách hàng càng đồng ý nhận các truyền
thông từ doanh nghiệp. Cách tiếp cận hướng hút này thích hợp hơn với cách tiếp cận đẩy
nghĩa là khách hàng phải khởi xướng yêu cầu một doanh nghiệp đừng gởi các thông điệp.
Bảo vệ sự riêng tư
Có một mâu thuẫn giữa các lợi ích của doanh nghiệp và các lợi ích của khách hàng trong
việc phát triển cơ sở dữ liệu. Để đưa ra các truyền thông thích đáng, các nhân hóa và
hướng đích hơn doanh nghiệp cần các thông tin chi tiết hơn, nhạy cảm hơn về khách
hàng. Tuy nhiên, khách hàng lại không sẵn lòng cung cấp các thông tin riêng tư. Họ hiểu
rằng một số doanh nghiệp, chẳng hạn như các công ty bảo hiểm có thể cần thông tin để
xử lý một giao dịch có thể đáng tin cậy và phù hợp với luật bảo vệ sự riêng tư. Tuy nhiên,
họ cũng lo lắng rằng có thể do vô tình các doanh nghiệp lại chuyển các thông tin nhạy
cảm sang các doanh nghiệp khác mà không sử dụng chúng một cách hết sức cẩn thận, Rất
dễ chuyển dịch thông tin một cách điện tử cho các công ty hay quốc gia khác . However,.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xây dựng quan hệ.pdf