Triết học Mác khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa con người và giới tự nhiên. Tác giả phân
tích vai trò của tự nhiên đối với con người - xã hội cùng với sự tác động của con người lên tự
nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của mình. C.Mác - Ph.Ăngghen đưa ra một triết lý về chinh
phục tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của tự nhiên và con người.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 421 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết học Mác về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trịnh Thị Nghĩa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 133 - 138
133
TRIẾT HỌC MÁC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI TỰ NHIÊN
Trịnh Thị Nghĩa*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Triết học Mác khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa con người và giới tự nhiên. Tác giả phân
tích vai trò của tự nhiên đối với con người - xã hội cùng với sự tác động của con người lên tự
nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của mình. C.Mác - Ph.Ăngghen đưa ra một triết lý về chinh
phục tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của tự nhiên và con người.
Từ khóa:
Lịch sử loài người đã cho thấy, ngay từ khi
các khoa học cơ bản sơ khai được hình thành
cũng như triết học xuất hiện thì con người đã
trở thành đối tượng nghiên cứu đặc biệt. Con
người với tất cả những lát cắt của nó dưới góc
độ của nhiều phân ngành khoa học dường như
vẫn chứa đựng nhiều bí ẩn mà nhân loại khát
khao khám phá, tìm hiểu. Tựu trung lại, các
khoa học đều gặp nhau ở một điểm, làm sao
để con người có thể hiểu về bản thân mình
ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn, làm sao có
thể đưa nhân loại - nói như Ph.Ăngghen - đi
từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc
của tự do. Triết học Mác lấy con người làm
điểm xuất phát cho việc nghiên cứu và lấy sự
nghiệp giải phóng con người làm mục tiêu
cao nhất của mình. Trong hệ thống những tư
tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về con người
thì tư tưởng về mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên mang nhiều giá trị nhân văn sâu
sắc và ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong
thời đại ngày nay.*
Con người - tự nhiên là vấn đề muôn thuở của
triết học. Ngay từ khi triết học ra đời thì mối
tương quan giữa con người với phần còn lại
của thế giới trên cả hai phương diện, vai trò
của tự nhiên đối với con người và thái độ của
con người với tự nhiên đều được triết học
quan tâm giải quyết ở các mức độ khác nhau.
Do hạn chế bởi điều kiện lịch sử nhất định mà
các nhà triết học trước Mác chưa thấy được
mối quan hệ biện chứng giữa con người với
tự nhiên, đặc biệt chưa thấy được vai trò chủ
thể của con người trong hoạt động thực tiễn.
Sự ra đời của triết học Mác với một thế giới
*
Tel: 0915 300512
quan khoa học và phương pháp luận biện
chứng đã luận giải một cách đúng đắn về con
người và lịch sử xã hội. Dựa trên những thành
tựu của khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX,
C.Mác - Ph.Ăngghen đã chứng minh sự hình
thành và tiến triển của thế giới vật chất,
những mắt xích gắn kết các sự vật với nhau.
Nếu so với lịch sử hình thành của trái đất mất
hàng triệu triệu năm, thì lịch sử của xã hội
loài người thực ra còn rất mới mẻ. Nhưng kể
từ khi con người xuất hiện, các nhà kinh điển
của triết học Mác đã khẳng định, con người là
sản phẩm tiến hóa cao nhất của giới tự nhiên.
Bản thân giới tự nhiên - con người và xã hội
đều thống nhất với nhau ở tính vật chất và sự
phát triển không ngừng của nó trong lịch sử.
Trong "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác -
Ph.Ăngghen đã viết: “Có thể chia lịch sử ra
thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời nhau.
Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch
sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn
nhau” [2,10].
Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế triết học
1844”, C.Mác đã phân tích vai trò, tầm quan
trọng của tự nhiên đối với cuộc sống của con
người. Ông viết: “Thứ nhất, giới tự nhiên là
tư liệu sinh sống trực tiếp đối với con nguời,
và thứ hai, giới tự nhiên là vật liệu, đối tượng
và công cụ của hoạt động sinh sống của con
người” [1,135]. Điều đó tức là con người
sống dựa vào giới tự nhiên, giới tự nhiên cung
cấp cho con người cả phương tiện lao động
lẫn đối tượng tác động để đáp ứng nhu cầu
sinh tồn của con người. Tư tưởng mang tính
đột phá trong triết học Mác ở góc độ này, đó
là C.Mác đã khẳng định giới tự nhiên là thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trịnh Thị Nghĩa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 133 - 138
134
thể vô cơ của con người. “Giới tự nhiên - cụ
thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản
thân nó không phải là thân thể của con người
- là thân thể vô cơ của con người. Con người
sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là
giới tự nhiên là thân thể của con người, thân
thể mà với nó con người phải ở lại trong quá
trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại”
[1,135]. C.Mác - Ph.Ăngghen đều cho rằng,
giới tự nhiên không chỉ là môi sinh, là kho tài
nguyên mà nó còn là cơ thể của chính con
người. Điều đó cũng cho thấy, con người
không đứng đối lập với tự nhiên, mà là một
bộ phận trong cái chỉnh thể rộng lớn đó. Do
vậy, những tác động lên tự nhiên cũng gây ra
những biến đổi trong chính đời sống con người
xét cả về phương diện sinh học và xã hội.
Khi mới thoát thai từ động vật, con người gần
như phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Lúc
đó, tự nhiên “đối lập với con người như một
sức mạnh hoàn toàn xa lạ, vạn năng và không
thể đụng tới được; tức là cái mà với nó, con
người quan hệ một cách hoàn toàn động vật,
cái mà trước nó con người phải khuất phục
giống như con vật; do đó là ý thức hoàn toàn
động vật về tự nhiên ” [2,38]. Những thiên tai
mà tự nhiên gây ra từng là sự đe dọa và gây
kinh hãi đối với con người. Đứng trước thiên
nhiên rộng lớn con người thấy mình thật nhỏ
bé và bất lực. Sự hình thành và phát triển của
giới tự nhiên cũng tuân theo những quy luật
khách quan mà con người không thể can thiệp
hay thủ tiêu bằng ý muốn chủ quan của mình.
Khi con người chưa nắm bắt được những quy
luật đó, thì những sức mạnh trong tự nhiên sẽ
trở thành siêu nhiên chi phối con người và
biến con người thành nô lệ cho chúng. Tuy
nhiên, lịch sử nhân loại cũng cho thấy bằng
hoạt động thực tiễn con người dần nắm bắt
được những thông tin và từng bước đi vào
bản chất của sự vật hiện tượng. Con người
dần tách mình ra khỏi sự thống trị của tự
nhiên và tạo những điều kiện, những tiền đề
vật chất nâng mình lên trên tự nhiên mà
không mất đi sự gắn bó máu thịt với cái nôi
sinh học của mình. C.Mác khẳng định: “Giới
tự nhiên cũng không phải là người chủ. Nhờ
lao động, con người chinh phục giới tự nhiên
càng triệt để hơn và nhờ những kỳ tích của
công nghiệp mà những kỳ tích của thần thánh
càng trở nên thừa” [1,140].
Trong quá trình sinh tồn, để duy trì sự sống
và thỏa mãn những nhu cầu của cá nhân và
cộng đồng, con người đã từng bước tác động
lên tự nhiên và biến đổi chúng theo mục đích
của mình. Cố nhiên, ở con vật cũng có những
nhu cầu ăn, uống, song nó chỉ biết kiếm tìm
những vật có sẵn trong tự nhiên mà không thể
tạo ra thêm một cái gì mới. Những sự tác
động của con vật lên tự nhiên gây ra những
biến đổi trong chừng mực nhất định hoàn toàn
mang tính chất bản năng, nó không hề ý thức
được điều đó. Còn con người, trong mỗi hoạt
động vật chất của mình đều ghi dấu lên tự
nhiên và xã hội bằng tính có ý thức và mục
đích của mình. Nếu loài vật tàn phá một vùng
nào đó mà chúng không hề hiểu việc làm của
chính mình, thì con người khi dọn sạch dải
đất trống gieo trồng ngũ cốc thì đã có sự tính
toán được sản lượng thu hoạch được cuối mùa
vụ là bao nhiêu. Hơn nữa, con người có khả
năng nắm bắt được các nguyên lý vận hành
của thế giới vật chất và biết vận dụng, sử
dụng nó ngày một đúng đắn hơn, mang lại lợi
ích nhiều hơn. Ph.Ăngghen viết: “Loài vật
chỉ lợi dụng tự nhiên bên ngoài và gây ra
những biến đổi trong giới tự nhiên đơn thuần
do sự có mặt của nó thôi; còn con người thì
do đã tạo ra những biến đổi đó, mà bắt giới
tự nhiên phải phục vụ cho những mục đích
của mình, mà thống trị tự nhiên” [3,654]. Lao
động là hoạt động đầu tiên mang bản chất loài
của con người, là cách thức con người thỏa
mãn các nhu cầu của bản thân và xã hội. Sự
phát triển của xã hội suy đến cùng là do
những thành tựu mà con người và loài người
đạt được trong lĩnh vực kinh tế thông qua
hành vi lao động sản xuất của chính mình.
Những giá trị văn minh mà con người và loài
người đạt được bao chứa trong nó cả những
kết quả chinh phục tự nhiên. Ở đây, chinh
phục tự nhiên không mang nghĩa tiêu cực khi
nó là phương tiện để con người từng bước
giải phóng bản thân mình ra khỏi sự phụ
thuộc, lệ thuộc tuyệt đối vào những sức mạnh
của thiên nhiên. Cùng với quá trình lao động
mà những tri thức của con người về thế giới
ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn, đồng thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trịnh Thị Nghĩa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 133 - 138
135
những nghiên cứu của khoa học công nghệ
làm cho giới tự nhiên ngày càng phong phú
và đa dạng hơn. Nhìn vào lịch sử hình thành
nhân loại thì cũng chính thông qua lao động
mà các giác quan của con người ngày càng
hoàn thiện, cấu trúc sinh học của cơ thể ngày
càng phát triển. Như vậy, lao động không chỉ
sáng tạo ra giới tự nhiên mà còn sáng tạo ra
chính con người và lịch sử xã hội.
Do đó, “toàn bộ cái gọi là lịch sử toàn thế
giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con người
kinh qua lao động của con người, sự sinh
thành của tự nhiên con người” [1,182]. Có
thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
C.Mác - Ph.Ăngghen đã xây dựng nên phạm
trù con người thực tiễn. Nó vượt qua con
người ý thức của chủ nghĩa duy tâm. Nó cũng
khắc phục được mặt hạn chế, phiến diện của
chủ nghĩa duy vật siêu hình nhân bản với
phạm trù con người sinh vật. Con người trong
chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác -
Ph.Ăngghen biểu hiện ra vừa là một thực thể
tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Quan hệ
song trùng ấy vừa chỉ ra cơ sở sinh học của
con người, vừa khẳng định bản chất đặc thù
của con người so với các loài khác.
Lịch sử văn hóa – văn minh, trong bản chất
của nó là lịch sử phát triển của con người, mà
trong đó chinh phục tự nhiên cũng là một
phương tiện của sự phát triển [6]. Những
thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp
thế kỷ XIX đã thực tiễn hóa những tri thức
khoa học vào cuộc sống mang lại năng suất
lao động cao hơn; đồng thời từng bước giải
phóng con người khỏi lao động cơ bắp nặng
nhọc, nguy hiểm, khỏi sức mạnh mù quáng
của tự nhiên. Con người càng chinh phục tự
nhiên được bao nhiêu thì sự phụ thuộc của
con người vào các thế lực siêu nhiên càng
giảm đi bấy nhiêu. Đó là sự thắng lợi biểu thị
sức mạnh và trí tuệ của con người, là sự thắng
lợi của nền văn minh nhân loại. Tri thức khoa
học, sự tôn trọng đối với tự nhiên đã đưa con
người đi vào thế giới như một chủ thể tích
cực và sáng tạo.
Tuy nhiên, các nhà kinh điển của triết học
Mác luôn nhấn mạnh đến thái độ, mức độ,
mục đích và tầm nhìn của con người khi khai
phá tự nhiên. Chinh phục tự nhiên là một
thước đo trong sự giải phóng con người, song
điều đó không đồng nghĩa với việc coi con
người là chúa tể của vũ trụ, chinh phục tự
nhiên không đồng nghĩa với việc tàn phá tự
nhiên. Mỗi sự tác động của con người lên tự
nhiên đều để lại những dấu ấn riêng và tự
nhiên sẽ có sự biến đổi theo những hình thù
mà con người đã tác động vào nó. Về điều
này, Ph.Ăngghen viết: “Chúng ta hoàn toàn
không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ
xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một
người sống bên ngoài giới tự nhiên mà trái
lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu
mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự
nhiên, chúng ta nằm trong lòng tự nhiên, và
tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự
nhiên là ở chỗ là chúng ta khác tất cả các
sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy
luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được
những quy luật đó một cách chính xác”
[3,655]. Nếu những biến đổi trong tự nhiên
mang tính tự phát, nếu những tác động của
loài vật lên môi sinh hoàn toàn mang tính bản
năng thì hoạt động của con người là hoạt
động có ý thức, có mục đích và mang tính
sáng tạo. Chúng ta không thể đối xử với tự
nhiên theo kiểu nền “kinh tế cướp đoạt”, bởi
như vậy tự nhiên sẽ “trả thù” lại chúng ta và
đó sẽ là một thảm họa không chỉ gây ra đối
với một vài thế hệ. Ph.Ăngghen viết: “Chúng
ta cũng không nên quá tự hào về những thắng
lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi cứ
mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần
tự nhiên trả thù lại chúng ta” [3,284]. Khi
con người càng khẳng định vai trò chủ thể của
mình trước tự nhiên bao nhiêu thì mức độ tự
do của con người càng được nới rộng bấy
nhiêu. Nhưng nếu con người khai thác tự
nhiên như một tên độc tài, thì cái tưởng như
là tự do khi con người đạt được những thắng
lợi trong quá trình chinh phục tự nhiên lại trở
thành nguyên nhân đẩy con người rơi vào tình
trạng nô lệ. Tất yếu và tự do sẽ còn song hành
với nhau, con người sẽ không bao giờ đạt đến
chỗ hiểu cái tất yếu một cách tuyệt đối, không
bao giờ có thể thực hiện quyền hành với tự
nhiên một cách tuyệt đối. Tự do của con
người không thể là sự cắt đứt sợi dây liên hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trịnh Thị Nghĩa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 133 - 138
136
với tự nhiên. Tự do là sự nhận thức và làm
theo những quy luật tất yếu khách quan. Nhận
thức là một quá trình lâu dài và liên tục. Bản
thân một cá nhân, một thế hệ người ở một giai
đoạn lịch sử nhất định không thể nhận thức
được đầy đủ, toàn diện và chính xác toàn bộ
giới tự nhiên. Đây là quá trình của các thế hệ
người nối tiếp nhau trong lịch sử. Mỗi thành
tựu mà thế hệ trước đạt được là cơ sở để thế
hệ sau tiếp tục tìm tòi, phát triển. Đó cũng là
quá trình khám phá ra con đường đưa nhân
loại từng bước tiến tới tự do, thoát khỏi sự
thống trị của cái tất yếu.
Từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được xác lập cho đến nay đã hơn năm thế kỷ.
Những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới
chủ nghĩa tư bản là vô cùng to lớn. Song quan
điểm duy kinh tế, quan điểm coi con người là
kẻ thống trị muôn loài của một thời kỳ lịch sử
đã gây ra những hậu quả khôn lường đối với
tự nhiên cũng đồng thời là hậu quả khôn
lường đối với xã hội, với đời sống của con
người. Ngay từ thế kỷ XIX, Ph.Ăngghen đã
nói: “Trong phương thức sản xuất hiện nay,
người ta chỉ chú trọng chủ yếu đến việc làm
thế nào cho giới tự nhiên và xã hội đem lại
những kết quả gần nhất, rõ ràng nhất”
[3,658] - tức là lợi nhuận, mà không cần quan
tâm đến hậu quả do những hành động đó gây
ra. Ph.Ăngghen đã luận giải điều này, khi nói
về việc đốt rừng của những người chủ đồn
điền Tây Ban Nha ở Cu Ba trên những triền
núi và lấy số phân tro đủ để bón cho cả một
loạt cây cà phê, đem lại một số thu hoạch lớn;
thì họ không nghĩ đến việc, sau này những
trận mưa rào ở vùng nhiệt đới sẽ cuốn sạch
lớp đất trên mà không có gì che chở và hậu
quả là để lại những lớp đất đá trơ trụi, khô
cằn. Hay những người miền núi nước Ý, khi
họ phá hoại các đám rừng thông trên sườn
phía Nam dải Anpơ thì họ không biết rằng, họ
đã phá hoại việc chăn nuôi của người dân trên
núi cao; và họ càng không thể biết như thế là
làm cho các con suối trên núi bị khô cạn suốt
một phần lớn thời gian trong năm. Khi mùa
mưa đến, nước lũ của các khe suối lại tràn
xuống dữ dội, làm ngập cả đồng bằng Ở
đây, Ăngghen muốn nói đến mối quan hệ biện
chứng của các sự vật hiện tượng, các quá
trình diễn ra trong tự nhiên. Trong thế giới
thực tại, không có gì là diễn ra một cách đơn
độc mà chúng luôn có sự ảnh hưởng, tác động
lẫn nhau. Sự đa dạng sinh học là cái nôi bền
vững cho sự phát triển của môi sinh. Hoạt
động của con người sẽ làm cho giới tự nhiên
phong phú hơn, đa dạng hơn hoặc sẽ làm cho
giới tự nhiên cạn kiệt và suy thoái. Điều đó
tuỳ thuộc vào mục tiêu phát triển của xã hội
và mức độ nắm bắt các quy luật tự nhiên của
con người. Con người càng thu hẹp và tách
mình ra khỏi tự nhiên thì con người lại càng
đẩy mình vào sự nguy hiểm của một môi
trường sống mất cân bằng. Năm 1854, Tổng
thống thứ 14 của nước Mĩ là Phrank-Klin Pi-
ơ-xơ tỏ ý muốn mua đất của người da đỏ. Thủ
lĩnh Xi-át-tơn đã gửi một bức thư trả lời,
trong đó có đoạn: “Con người là gì, nếu cuộc
sống thiếu những con thú? Và nếu chúng ra
đi, thì con người cũng sẽ chết dần chết mòn vì
nỗi buồn cô đơn về tinh thần, bởi lẽ điều gì sẽ
xảy đến với con thú thì cũng chính xảy ra đối
với con người. Mọi vật trên đời đều có sự
ràng buộc”. “Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với
đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con
của đất. Con người chưa biết làm tổ để sống,
con người giản đơn là một sợi tơ trong cái tổ
sống đó mà thôi. Điều gì con người làm cho
tổ sống đó, tức là làm cho chính mình” [7].
Con người, cây cỏ, muông thú, đất đai, ánh
sáng, dòng nước đều nằm trong một chỉnh
thể thống nhất. Con người sẽ mất dần đi sự an
toàn về môi trường sống nếu con người cố
tình phá hủy những sợi dây ràng buộc với nó.
Từ khi triết học Mác ra đời đến nay cũng đã
hơn 150 năm. Thế giới đã xảy ra biết bao sự
kiện; những đổi thay về lịch sử xã hội khác
rất nhiều so với thời C.Mác - Ph.Ăngghen còn
sống. Thời đại của C.Mác - Ph.Ăngghen sống,
những vấn đề về môi trường chưa được đặt ra
một cách cấp bách, bức xúc như hiện nay.
Các ông chưa biết đến hiệu ứng nhà kính, lỗ
thủng tầng ôzôn, mưa axít, sa mạc hóa,
nhưng các ông đã đưa ra những nguyên tắc
phương pháp luận chỉ dẫn cách ứng xử cho
con người trong mối quan hệ với tự nhiên - đó
là mối quan hệ hài hòa, bình đẳng, là mối
quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Mỗi khi
con người tàn phá tự nhiên cũng là khi con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trịnh Thị Nghĩa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 133 - 138
137
người tàn phá chính bản thân mình; mỗi khi
con người phá hoại sự cân bằng sinh thái là
lúc con người tự huỷ hoại sự sống của mình.
Đó là sự thật hiển nhiên.
Tuy nhiên, ở đây cần chú ý một vài điểm về
sự nhận thức của con người đối với sự thật
trên như sau:
Thứ nhất, ngày nay khoa học công nghệ đang
dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nó
đang tạo ra những biến đổi to lớn, tích cực
trong đời sống xã hội. Xét trên phương diện
nhận thức, nó đã cũng cấp cho con người một
lượng thông tin sâu rộng về sự vận động, phát
triển của thế giới vật chất, mang lại cho con
người một công cụ hữu hiệu để thích ứng với
những sự thay đổi của tự nhiên. Nhưng thực
tế cho thấy, dường như con người vẫn còn thờ
ơ trước những thông tin mà khoa học mang
lại về những biến đổi của trái đất do ảnh
hưởng khí hậu gây ra. Xin được trích ra đây
một ví dụ về một trong những thảm họa
khủng khiếp nhất của tự nhiên ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống con người, đó là
động đất. Với một công cụ rất nhạy bén là
máy đo địa chấn, các nhà khoa học có thể
thăm dò thông qua toàn bộ bề mặt trái đất. Vụ
phun trào núi lửa Nevado del Ruiz tại
Colombia vào ngày 13/11/1985 đã trở thành
thảm họa núi lửa giết chết nhiều người nhất
trong thế kỷ XX. Trước khi núi lửa phun trào,
Cục địa chất Hoa Kỳ đã đưa ra dự báo căn cứ
trên những dấu hiệu về địa chất và đề nghị di
tản khu dân cư khoảng hai mươi chín ngàn
người xung quanh. Nhưng sự liên lạc giữa các
nhà khoa học và chính quyền địa phương thất
bại, người ta không tin núi lửa có thể phun
trào khi họ nhìn thấy bề ngoài là không có gì
khả nghi. Thiệt hại về vật chất vào khoảng
một tỷ USD – tương đương 20% tổng sản
phẩm quốc dân của Colombia vào thời điểm
đó và với 22000 người bị thiệt mạng là một
nỗi ám ảnh đối với con người trong một thời
kỳ dài sau đó. [5]. Sự hoạt động của núi lửa
hay sóng thần sẽ còn tồn tại cũng như rất
nhiều những hiện tượng tự nhiên khủng khiếp
khác do chính những kiến tạo địa chất quy
định không mất đi. Chúng ta không thể làm
biến mất nhưng chúng ta sở hữu những kiến
thức cần thiết, cảnh báo khi thiên tai xảy ra.
Nhưng chỉ có một câu hỏi chưa có câu trả lời là
người ta có tin những cảnh báo đó hay không?
Thứ hai, Một nghịch lý là các nước tư bản
phát triển hiện nay là cái nôi của các thành
tựu khoa học công nghệ, mang lại những đột
phá trong sự phát triển của cả nhân loại nói
chung. Nhưng cũng chính ở các nước tư bản
này, lượng chất thải công nghiệp khổng lồ lại
là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng
đến khí hậu toàn cầu lớn nhất. Nhìn nhận,
đánh giá khách quan những giá trị mà văn
minh phương Tây mang lại, đồng thời khắc
phục những hạn chế, khiếm khuyết để tìm ra
triết lý phát triển bền vững đang là hướng đi
của rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó
có Việt Nam.
Thứ ba, Không thể phủ nhận vai trò to lớn của
khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin đã
cung cấp, phục vụ cho nhu cầu nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người trong mối
quan hệ hài hòa với tự nhiên. Song cần phải
khẳng định, để khai thác tài nguyên hợp lý, để
bảo vệ môi trường sống của con người, để
nâng cao ý thức và trách nhiệm của cá nhân
và cộng đồng với môi sinh của mình thì khoa
học công nghệ không phải là chìa khóa vạn
năng, là nhân tố duy nhất; mà cần chú ý đến
vấn đề đạo đức môi trường, đến thể chế chính
trị, đến văn hóa môi trường, Có như vậy,
mới tạo ra được những giải pháp đúng đắn,
hiệu quả, nhân văn mang lại những tác động
tích cực trong việc duy trì sự phát triển sự
sống một cách bền vững.
Từ khi con người xuất hiện, xã hội được hình
thành thì sự tồn tại và phát triển của các cộng
đồng dân cư đã gắn liền với giới tự nhiên, với
những điều kiện vật chất nhất định. Những
biến đổi khí hậu được cảnh báo trong những
năm gần đây như một lời kêu gọi con người
hãy cứu lấy trái đất, cứu lấy sự sống cho các
thế hệ mai sau. Đồng thời, nó cũng là sự cảnh
báo giới hạn chịu đựng của môi sinh dưới sự
tác động của con người. Tự nhiên - con người
- xã hội là một thể thống nhất không thể tách
rời. Triết học Mác đề cao mối quan hệ hài hòa
giữa con người và tự nhiên dựa trên thái độ
tôn trọng và sự hiểu biết của con người về
giới tự nhiên đó. Sự tiến bộ của xã hội phải
lấy phát triển con người làm mục tiêu; sự phát
triển bền vững của loài người phải lấy sự phát
triển đa dạng của giới tự nhiên làm nền tảng.
Chân lý đó sẽ còn giá trị cho đến mãi về sau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trịnh Thị Nghĩa Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 133 - 138
138
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t42,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2]. C.Mác - Ph.Ăngghen (1977), “Phoi-ơ-bắc sự
đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan
điểm duy tâm chủ nghĩa”, Nxb Sự thật, Hà Nội.
[3]. C.Mác - Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t20,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4]. GS.TS Phạm Xuân Nam (chủ biên) (2008),
“Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt
yếu”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[5]. Phương Nam Phim (2011), Trái đất nổi giận
(DVD), Cục điện ảnh
[6]. Hồ Sỹ Quý (2007), “Con người và phát triển
con người”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[7].
b%E1%BB%A9c-th%C6%B0-c%E1%BB%A7a
th%E1%BB%A7-l%C4%A9nh-da
%C4%91%E1%BB%8F?p=1
ABSTRACT
MARXIST PHILOSOPHY OF RELATIONS BETWEEN THE HUMAN
AND THE NATURE
Trinh Thi Nghia*
College of Sciences - TNU
Marxist philosophy affirms the dialectical relationship between humans and the nature. The author
analyzes the role of nature to men and society as well as the people’s impacts on the nature
through their own practical activities. K. Marx and F. Engels offered a philosophy of nature
conquering to ensure the sustainable development of the nature and humans.
Key words:
*
Tel: 0915 300512
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33439_37259_7920121088912012_split_21_656_2052325.pdf