MỤC LỤC
Trang
1. CÁC NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG TRONG QUAN HỆ KTQT 2
2. BÁN PHÁ GIÁ (BẢN 1) 6
3. BÁN PHÁ GIÁ (BẢN 2) 10
4. LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 16
5. TÀI TRỢ XUẤT KHẨU 20
6. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ (BẢN 1) 29
7. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ (BẢN 2) 38
8. RÀO CẢN KỸ THUẬT (BẢN 1) 49
9. RÀO CẢN KỸ THUẬT (BẢN 2) 57
10. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 1) 68
11. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 2) 77
12. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 3) 89
13. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 4) 100
14. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 5) 109
15. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO (BẢN 6) 118
127 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng hợp Quan hệ kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất của nhà nước đối với giáo dục và đào tạo, phát huy tính tự chủ, bản sắc riêng và tính cạnh tranh trong đào tạo đại học và dạy nghề. Nhà nước sẽ đầu tư nhiều hơn cho những ngành nghề cần thiết nhưng tính cạnh tranh thấp.
Khẩn trương xây dựng chiến lược cải cách giáo dục từ nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, chế độ thi cử ở tất cả các cấp đào tạo.
4. Phát triển các loại hình dịch vụ:
Lĩnh vực dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nền kinh tế. Các nước công nghiệp phát triển trình độ cao, dịch vụ chiếm từ 60 - 70%. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá và sự phân công lao động gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa đặt ra nhu cầu vừa tạo khả năng phát triển dịch vụ. Ngược lại sự phát triển dịch vụ sẽ làm giảm chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, phải hết sức coi trọng phát triển tất cả các ngành dịch vụ.
Tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao: dịch vụ tài chính, ngân hàng với nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ du lịch, các loại dịch vụ tư vấn để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân lập doanh nghiệp, lựa chọn phương án kinh doanh, các dịch vụ nghề nghiệp như kế toán, kiểm toán để đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm công khai, minh bạch về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán. Nhanh chóng xây dựng hệ thống mã số các loại dịch vụ theo phân loại của Tổ chức thương mại thế giới. Trên cơ sở đó, có định hướng đúng đắn chiến lược phát triển dịch vụ.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, thế giới đã diễn ra hai mô hình công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đi liền với chế độ bảo hộ mậu dịch. Mô hình này khá phổ biến và đã thành công trước những năm 80. Khi chế độ bảo hộ mậu dịch giảm dần, sự phân công lao động quốc tế sâu rộng hơn, các nước chuyển sang mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu trên cơ sở lợi thế so sánh.
Từ nửa sau thập kỷ 90 của thế kỷ trước, toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu thế. Hàng rào bảo hộ bị cắt giảm thông qua việc ký kết các hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực và việc hình thành Tổ chức thương mại thế giới, ranh giới kinh tế giữa các quốc gia bị giảm thiểu; sự phát triển của vận tải đa phương thức và dịch vụ logistic đã làm chi phí lưu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia giảm mạnh, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài gần như thông nhau.
Đi đôi với việc phát triển một số ngành, sản phẩm theo các tiêu chí nêu trên cần hết sức coi trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp nền tảng cho công nghiệp hoá.
5. Tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng:
Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã và sẽ hạn chế thu hút đầu tư làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa các nước về cơ sở hạ tầng sẽ là sự cạnh tranh dài hạn, nhất là trong điều kiện các hình thức ưu đãi trái với quy định của Tổ chức thương mại thế giới sẽ bị loại bỏ. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng sự phát triển cơ sở hạ tầng.
Lâu nay nhà nước đã rất chú ý phát triển cơ sở hạ tầng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn ngân sách, vốn ODA, vốn của doanh nghiệp đầu tư theo phương thức BOT, BT,…, vốn của dân. Khuyết điểm ở đây là tình trạng đầu tư từ nguồn vốn nhà nước phân tán, kéo dài chậm được khắc phục.
Phát triển cơ sở hạ tầng là yêu cầu bức xúc của các địa phương, các vùng kinh tế. Khi nhu cầu lớn, nguồn lực có hạn, để thoả mãn được nhiều đối tượng dễ dẫn đến cách phân bổ phân tán, dàn trải. Kết quả là thời gian thi công kéo dài, nợ đọng lớn, không ít công trình hiệu suất sử dụng thấp, hiệu quả không cao xét trên yêu cầu phát triển tổng thể của nền kinh tế.
Phải kiên quyết khắc phục tình trạng này. Nguyên tắc chỉ đạo ở đây là cái mà chúng ta lựa chọn và quyết định là cái tốt nhất có thể chứ chưa phải là cái mà chúng ta mong muốn. Cái tốt nhất có thể là cái mà nếu được lựa chọn sẽ có hiệu suất sử dụng cao nhất.
Trong phát triển cơ sở hạ tầng (các tuyến đường, bến cảng) đó là những vùng đã và sẽ có trong tương lai gần dung lượng lưu thông hàng hoá lớn, từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Từ yêu cầu này mà xử lý mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng về vốn. Điều chỉnh lại việc phân cấp đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung cao hơn. Người có quyền ra quyết định đầu tư phải kiên quyết thực hiện bằng được yêu cầu này.
Huy động mọi nguồn lực kể cả các nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng.
6. Về nông nghiệp, nông thôn:
- Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, từng bước chuyển lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ; đưa các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, yêu cầu đào tạo không cao về nông thôn; phát triển các làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Đây là hướng phát triển quan trọng nhất.
- Tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành toàn bộ các nguồn vốn hỗ trợ trước đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tư phát triển thuỷ lợi, giao thông nông thôn. Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho tàng, các cơ sở bảo quản, phơi sấy nhằm giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm sau thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường nhằm ổn định giá cả, phát triển chợ nông thôn. Giảm mạnh sự đóng góp của nông dân.
Đầu tư mạnh vào việc phát triển, cải tạo các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân có sự hỗ trợ giá từ ngân sách nhà nước. Phát triển và tổ chức lại hệ thống khuyến nông trên cả 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện, xã và hợp tác xã.
Phát triển các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản xuất nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn, thông qua đó mà thúc đẩy quá trình hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp, bảo đảm tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư cho nông dân.
Khuyến khích nông dân trở thành cổ đông của các doanh nghiệp và các hợp tác xã cổ phần, là đồng sở hữu các nhà máy chế biến nông sản, bảo đảm thu nhập của nông dân và cung cấp ổn định nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Nghiên cứu để hình thành cơ chế gắn việc thu hút lao động trong nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, xuất khẩu lao động với việc chuyển giao, cho thuê lại ruộng đất để đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất.
7. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích mọi người đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, phát triển các loại hình doanh nghiệp, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Việc sắp xếp lại, đổi mới và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua đã đem lại những kết quả tích cực. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đều có doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách cao hơn trước khi cổ phần hoá; việc làm và đời sống người lao động trong doanh nghiệp đã cổ phần hoá được bảo đảm, có phần được cải thiện; quyền làm chủ thực sự trong quản lý doanh nghiệp từng bước được xác lập.
Việc bán giá trị của doanh nghiệp thông qua đấu thầu trên thị trường chứng khoán đã khắc phục được tình trạng thất thoát vốn, tài sản của nhà nước. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp mà nhà nước có cổ phẩn hoặc cổ phần chi phối còn nhiều. Vốn của nhà nước trong doanh nghiệp còn lớn, tín dụng dành cho doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ cao.
Phải khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần, kể cả các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế.
Một nước ở trình độ phát triển thấp như nước ta, lại đang trong giai đoạn chuyển đổi, tuyệt đại bộ phận là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 95%), loại hình doanh nghiệp này thực sự đang là động lực của sự phát triển. Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ có hiệu quả hơn nữa các doanh nghiệp này.
So với dân số và nhu cầu tăng trưởng kinh tế, số lượng doanh nghiệp nước ta hiện rất thấp. Đây là hạn chế lớn trong việc phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, tạo ra thị trường cạnh tranh và huy động nguồn lực của xã hội. Vì vậy, khuyến khích người dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phát triển các loại hình doanh nghiệp.
Định hướng cơ bản để thực hiện việc này là tạo điều kiện để doanh nghiệp có môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi, giảm chi phí tham gia thị trường, miễn giảm thuế trong thời gian đầu lập nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo quản trị doanh nghiệp.
8. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam:
Vấn đề đặt ra là, để tranh thủ các cơ hội và điều kiện thuận lợi do việc tham gia WTO mang lại, đồng thời hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của quá trình này, các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị tốt các vấn đề sau:
Xây dựng và tuyên truyền phổ biến sâu rộng trong toàn doanh nghiệp nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vấn đề hội nhập quốc tế và tham gia WTO, thấy rõ cả cơ hội và những thách thức để chủ động chuẩn bị.
Các doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu xác định những lĩnh vực, ngành hàng, mặt hàng mình có thế mạnh hoặc điều kiện thuận lợi để phát triển, trên cơ sở đó chủ động điều chỉnh và thu hút các nguồn lực để tập trung phát triển các mặt hàng có hiệu quả và có sức cạnh tranh quốc tế.Các doanh nghiệp cần quan hệ chặt chẽ với các bộ ngành ở trung ương và các công ty hoạt động kinh doanh quốc tế để nắm bắt tình hình và xu hướng thị trường quốc tế, trên cơ sở đó quyết định các kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cho phù hợp và có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới.
Phải tăng cường liên kết hợp tác theo chiều dọc và chiều ngang; xác lập quan hệ bạn hàng và nhanh chóng hình thành hệ thống phân phối. Cần nhận thức rằng cạnh tranh và hợp tác luôn song hành trong hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trưởng. Các tập đoàn tư bản tuy cạnh tranh với nhau gay gắt nhưng cũng sẵn sàng hợp tác vì lợi ích của chính họ.
Doanh nghiệp của ta quy mô nhỏ, vốn ít càng cần phải tăng cường liên kết và hợp tác. Điều quan trọng là năng lực và bản lĩnh của người quản trị doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải chọn cho được những người quản trị doanh nghiệp có bản lĩnh và năng lực thực sự.
Các doanh nghiệp tích cực chuẩn bị tốt cho việc cùng cả nước tham gia hội nhập quốc tế, trong đó có việc tham gia WTO, tăng cường năng lực lãnh đạo và quản lý, tăng cường đào tạo cán bộ đủ sức đáp ứng yêu cầu của quá trình tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế.Trên cơ sở nắm bắt đúng nhu cầu của thị trường thế giới, cần đa dạng hóa các ngành hàng sản xuất và sản phẩm, tránh phụ thuộc quá mức vào một vài sản phẩm để có khả năng điều chỉnh linh hoạt khi thị trường thế giới có biến động, đồng thời tạo điều kiện giải quyết lực lượng lao động dôi dư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu.
Nhanh chóng ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất và kinh doanh cập nhật thông tin về thị trường và kịp thời tiến hành những quan hệ thương mại trực tiếp với các đối tác nước ngoài, hạn chế phụ thuộc vào các khâu trung gian.
Tăng cường cử cán bộ đi nghiên cứu thị trường ở nước ngoài, tham gia một số cuộc hội chợ, triển lãm cần thiết về ngành hàng mà doanh nghiệp có thế mạnh, qua đó tìm hiểu được nhu cầu của thị trường, tìm kiếm đối tác. Cần giữ liên hệ thường xuyên với các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài để yêu cầu cung cấp thông tin về thị trường và thẩm định đối tác.Trên thực tế, cơ hội và thách thức luôn luôn đan xen nhau, nếu không biết cách nắm bắt và tận dụng kịp thời thì cơ hội có thể lại trở thành thách thức. Vì vậy, bằng việc tích cực chuẩn bị kỹ mọi điều kiện để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tin rằng, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tranh thủ được vận hội mới sắp mở ra, để đẩy mạnh phát triển và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của quá trình này.
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI - WTO
(BẢN 6)
I. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI - WTO
1. Lịch sử hình thành WTO:
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời ngày 1/1/1995. Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), thành lập 1947. Trong gần 50 năm hoạt động, GATT là công cụ chính của các nước công nghiệp phát triển nhằm điều tiết thương mại hàng hóa của thế giới.
WTO là kết quả của Vòng đàm phán Uruguay kéo dài 8 năm (1987 – 1994), để tiếp tục thể chế hóa và thiết lập trật tự mới trong hệ thống thương mại đa phương của thế giới cho phù hợp với nhứng thay đổi mạnh mẽ đang diễn ra trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia. Về cơ bản, WTO là sự kế thừa và phát triển của GATT. Sự ra đời của WTO giúp tạo ra cơ chế pháp lý điều chỉnh thương mại thế giới trong các lĩnh vực mới là dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ, đồng thời đưa vào khuôn khổ thương mại đa phương hai lĩnh vực dệt may và nông nghiệp.
Với 150 thành viên, WTO là tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra các quy tắc, luật lệ điều tiết quan hệ thương mại giữa các quốc gia. Khối lượng giao dịch giữa các thành viên WTO hiện chiếm trên 98% giao dịch thương mại quốc tế.
2. Quá trình phát triển của WTO
Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997).
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Vòng đám phán thứ tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.
3. Chức năng chính của WTO:
Quản lý việc thực hiện các hiệp ước của WTO
Diễn đàn đàm phán về thương mại
Giải quyết các tranh chấp về thương mại
Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
4. Phạm vi điều tiết của WTO:
Hạt nhân của WTO là các hiệp định thương mại hoặc “liên quan tới thương mại" được các thành viên WTO thương lượng và ký kết. Các hiệp định này là cơ sở pháp lý cho thương mại quốc tế, bao gồm Hiệp định về các lĩnh vực nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt và may mặc, hàng rào kỹ thuật trong thưong mại, đầu tư, chống bán phá giá, xác định trị giá tính thuế hải quan, giám định hàng hóa trước khi xếp hàng, quy tắc xuất xứ, thủ tục cấp phép nhập khẩu, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện pháp tự vệ, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp... Đây là những hiệp định mang tính ràng buộc, các chính phủ phải duy trì chính sách thương mại trong những giới hạn đã thỏa thuận.
5. Các hiệp định chính của WTO
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15 tháng 4 năm 1994. Bốn phụ lục đó bao gồm các hiệp định quy định các quy tắc luật lệ trong thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp, cơ chế rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên, các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một số vấn đề không đạt được đồng thuận tại diễn đàn chung. Các nước muốn trở thành thành viên của WTO phải ký kết và phê chuẩn hầu hết những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa thuận tự nguyện
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994)
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)
Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS)
Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMS)
Hiệp định về Nông nghiệp (AoA)
Hiệp định về Hàng Dệt may (ATC)
Hiệp định về Chống bán Phá giá
Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp chống Trợ cấp
Hiệp định về Tự vệ
Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu
Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch (SPS)
Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT)
Hiệp định về Định giá Hải quan
Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển
Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa (ROO)
Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp
II. CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA WTO
1. Không phân biệt đối xử (một nước không được phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại của mình dành quy chế tối huệ quốc – MFN cho tất cả các thành viên WTO; không được phân biệt đối xử giữa các sản phẩm, dịch vụ và công dân của nước mình và nước ngoài - tất cả phải được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia - NT);
2. Thúc đẩy thương mại tự do hơn (thông qua thương lượng loại bỏ các hàng rào cản thuế quan và phi thuế quan);
3. Đảm bảo tính ổn định/tiên đoán được bằng các cam kết minh bạch hoá (các công ty, các nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài phải được đảm bảo rằng, các rào cản thương mại, kể cả thuế, các rào cản phi quan thuế và các biện pháp khác, không được nâng lên một cách độc đoán; ngày càng có nhiều mức thuế và cam kết mở cửa thị trường mang tính ràng buộc tại WTO);
4. Thúc đẩy cạnh tranh công bằng (bằng cách loại bỏ các hoạt động mang tính "không công bằng" như trợ cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá nhằm tranh giành thị phần);
5. Khuyến khích cải cách và phát triển kinh tế: Các nước đang phát triển chiếm ¾ thành viên của WTO. WTO có các qui định dành cho các nước này nhiều thời gian hơn, điều kiện linh hoạt hơn và một số ưu đãi đặc biệt hơn để điều chỉnh nền kinh tế trong quá trình thực hiện các cam kết tự do hoá của mình. Tuy nhiên, việc chiếu cố này không phải mặc nhiên, mà có được là trên cơ sở đàm phán với các thành viên WTO.
III. VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
1. Quá trình Việt Nam gia nhập WTO.
Việt Nam chính thức nộp đơn gia nhập WTO tháng 1/1995. Năm 1996, tại WTO, Nhóm Công tác (WP) về Việt Nam gia nhập WTO được thành lập với sự tham gia của trên 20 nước (hiện nay con số này là gần 40). Từ năm 1996 đến 2001, đàm phán tập trung chủ yếu vào việc làm rõ chế độ và chính sách thương mại của ta, với việc ta phải trả lời hơn 2000 câu hỏi có liên quan đến chính sách thương mại, kinh tế, đầu tư.
Đến tháng 8/2001, ta chính thức đưa ra Bản chào ban đầu về hàng hóa và dịch vụ (Ininitial Offer) để bước vào giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước thành viên Ban Công tác.
Về đàm phán song phương: Với việc ta và Hoa Kỳ ký thỏa thuận chính thức kết thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO của Việt Nam (TP Hồ Chí Minh, ngày 31/5/2006), ta đã chính thức hoàn tất đàm phán với toàn bộ 28 đối tác yêu cầu đàm phán với ta.
Về đàm phán đa phương: Ta đã tiến hành 15 phiên họp với Nhóm Công tác về Việt Nam gia nhập WTO. Từ Phiên 9 (tháng 12/2004), ta cùng với Ban Công tác đã bắt đầu xem xét và thảo luận Dự thảo Báo cáo (DR) của Nhóm Công tác. Tại các Phiên 14 và 15 (10/2006), ta đã giải quyết được toàn bộ các vấn đề đa phương còn tồn đọng giữa Việt Nam với một số đối tác, hoàn tất về cơ bản đàm phán gia nhập WTO, hoàn chỉnh toàn bộ các tài liệu, chuẩn bị cho phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng WTO xem xét, thông qua việc gia nhập của Việt Nam sẽ được tổ chức vào ngày 7/11/2006.
Tại Lễ gia nhập ngày 7/11/2006, Phó Thủ tướng và các thành viên WTO đã chứng kiến việc ký Nghị định thư gia nhập giữa Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy.
Sau đó, văn kiện này sẽ được trình lên Quốc hội để xem xét thông qua và gửi lại cho Ban thư ký WTO. 30 ngày kể từ sau khi Ban thư ký WTO nhận được văn bản phê chuẩn này của Quốc hội Việt Nam, Việt Nam sẽ trở thành thành viên chính thức của WTO.
Thông thường việc kết nạp một nước vào WTO thường vào dịp diễn ra các phiên họp cấp bộ trưởng của WTO hai năm một lần, hoặc kỳ họp thường niên của Đại hội đồng. Song với VN là một cá biệt, việc kết nạp đã diễn ra 10 ngày sau khi kết thúc đàm phán.
Theo giới quan sát, kết quả đàm phán của VN nếu so với những quốc gia đã vào WTO những năm trước thì đây là một thành công vô cùng to lớn. Để đạt được “chiến tích” này, trong 11 năm đàm phán cam go, có những công việc thầm lặng nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng của các nhà đàm phán là xây dựng mối quan hệ làm bạn với tất cả đối tác. Và tinh thần đó đã được thể hiện rất rõ sau lễ kết nạp VN vào WTO ngày 7-11-2006.
Quá trình đàm phán lâu dài và khó khăn đã thể hiện nỗ lực của VN không chỉ ở trên bàn đàm phán mà còn ở nỗ lực cải cách thể chế kinh tế. Gia nhập WTO chỉ là tấm giấy chứng nhận cho quá trình cải cách của chúng ta và thế giới đã công nhận điều này khi kết thúc đàm phán với Việt Nam.
2. Cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO
Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải "nhất thành bất biến" mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
2.1/ Cơ hội:
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khi mở cửa, các công ty đa quốc gia và các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục vào Việt Nam sẽ gián tiếp góp phần làm tăng chất lượng nhân lực nước ta. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tự đào tạo nguồn lực cho mình và ngày càng có những yêu cầu khắt khe hơn với các tổ chức đào tạo. Chính các công chức phải tự học tập, nâng cao chuyên môn để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, đáp ứng đòi hỏi của cải cách.
- Khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử.
- Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện.
- Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
- Việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
- Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm Đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
2.2/ Thách thức:
- Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Theo cam kết WTO, Việt Nam đã phải cam kết bãi bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu ngay khi gia nhập trong khi các nước thành viên khác đến 2013 mới phải cắt giảm; mức thuế mà Việt Nam cam kết cao hơn và cũng không được áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt như nhiều nước khác. Ví dụ, trong công nghiệp, theo cam kết WTO, Việt Nam phải cắt giảm 9.400 dòng thuế với mức cắt giảm khoảng 24% so với hiện hành.
- Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn.
- Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề về nhân lực. Nguồn nhân lực cho WTO phải thông thạo luật lệ quốc tế. Đối với doanh nghiệp Việt Nam, điều này đặt ra một thách thức không nhỏ. Chúng ta vẫn chưa quên bài học đắt giá của Vietnam Airlines vào năm 2005. Do chủ quan và thiếu hiểu biết về luật pháp quốc tế, Vietnam Airlines đã không cử đại diện tham dự phiên tòa khi có giấy triệu tập của tòa án Roma. Kết quả là Vietnam Airlines phải trả 5 triệu Euro. Vụ kiện này chỉ là một trong những vấn đề mà doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt khi hội nhập quốc tế.
IV. NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP WTO
1. Ðiều kiện tự nhiên:
Việt Nam có 3260 km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên, trải qua 13 vĩ độ, từ 8o23' bắc đến 21o39' bắc. Diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải của Việt Nam rộng 226.000 km2 và Vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2, rộng gấp 3 lần diện tích đất liền.
Trong vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, trong đó có nhiều đảo lớn như Cô Tô, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Hòn Mê, Phú Quí, Côn Ðảo, Phú Quốc, v.v... có cư dân sinh sống, là nơi có tiềm năng để phát triển du lịch đồng thời đã, đang và sẽ được xây dựng thành một tuyến căn cứ cung cấp các dịch vụ hậu cần, trung chuyển sản phẩm cho đội tàu khai thác hải sản, đồng thời làm nơi trú đậu cho tàu thuyền trong mùa bão gió. Ðảo tập trung nhiều nhất ở khu vực từ Móng Cái đến Ðồ Sơn (có trên 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ, góp phần làm cho vịnh Hạ Long trở thành một danh thắng trên thế giới).
Trong vùng biển có nhiều vịnh, vụng, đầm, phá, cửa sông, chằng hạn vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, vịnh Cam Ranh, phá Tam Giang, v.v... và trên 400 nghìn hécta rừng ngập mặn, là những khu vực đầy tiềm năng cho phát triển giao thông, du lịch, đồng thời cũng rất thuận lợi cho phát triển nuôi, trồng thuỷ sản và tạo nơi trú đậu cho tàu thuyền đánh cá.
2. Đặc điểm nguồn lợi hải sản:
Biển Việt Nam có trên 2.000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài cá có giá trị kinh tế. Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng cá biển trong toàn vùng biển là 4,2 triệu tấn, trong đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm 850 nghìn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương.
Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác, sản lượng cho phép khai thác 50 - 60 nghìn tấn/năm, có giá trị cao là tôm biển, tôm hùm và tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60 - 70 nghìn tấn/năm); hằng năm có thể khai thác từ 45 á 50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế như rong câu, rong mơ v.v... Bên cạnh đó, còn rất nhiều loài đặc sản quí như bào ngư, đồi mồi, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai, v.v...
Bị chi phối bởi đặc thù của vùng biển nhiệt đới, nguồn lợi thuỷ sản nước ta có thành phần loài đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao. Chế độ gió mùa tạo nên sự thay đổi căn bản điều kiện hải dương học, làm cho sự phân bố của cá cũng thay đổi rõ ràng, sống phân tán với quy mô đàn nhỏ. Tỷ lệ đàn cá nhỏ có kích thước dưới 5 x 20m chiếm tới 82% số đàn cá, các đàn vừa (10 x 20m) chiếm 15%, các đàn lớn (20 x 50m trở lên) chỉ chiếm 0,7% và các đàn rất lớn (20 x 500m) chỉ chiếm 0,1% tổng số đàn cá. Số đàn cá mang đặc điểm sinh thái vùng gần bờ chiếm 68%, các đàn mang tính đại dương chỉ chiếm 32%.
Phân bố trữ lượng và khả năng khai thác cá đáy tập trung chủ yếu ở vùng biển có độ sâu dưới 50m (56,2%), tiếp đó là vùng sâu từ 51 - 100m (23,4%). Theo số liệu thống kê, khả năng cho phép khai thác cá biển Việt Nam bao gồm cả cá nổi và cá đáy ở khu vực gần bờ có thể duy trì ở mức 600.000 tấn. Nếu kể cả các hải sản khác, sản lượng cho phép khai thác ổn định ở mức 700.000 tấn/năm, thấp hơn so với sản lượng đã khai thác ở khu vực này hằng năm trong một số năm qua. Trong khi đó, nguồn lợi vùng xa bờ còn lớn, chưa khai thác hết.
Theo vùng và theo độ sâu, nguồn lợi cá cũng khác nhau. Vùng biển Ðông Nam Bộ cho khả năng khai thác hải sản xa bờ lớn nhất, chiếm 49,7% khả năng khai thác cả nước, tiếp đó là Vịnh Bắc Bộ (16,0%), biển miền Trung (14,3%), Tây Nam Bộ (11,9%), các gò nổi (0,15%), cá nổi đại dương (7,1%), (xem BẢNG 1, 2, 3, 4).
3. Thực trạng đội tàu khai thác và lao động nghề cá
3.1 Năng lực tàu thuyền khai thác hải sản.
3.1.1 Số lượng:
Qua 10 năm đổi mới, năng lực tàu thuyền khai thác hải sản đã phát triển nhanh. Năm 1986, toàn ngành thuỷ sản có 31.680 tàu thuyền máy với tổng công suất 537.500 CV, 29.000 phương tiện thủ công bao gồm bè mảng và thuyền gỗ từ 1 - 3 tấn/chiếc. Ðến nay số tàu thuyền có 72 nghìn chiếc tàu thuyền máy với tổng công suất 2,5 triệu CV và 29 nghìn thuyền thủ công.
3.1.2 Cơ cấu:
a) Cỡ loại tàu : Loại từ 90 CV trở lên hiện có khoảng 6.000 chiếc, đây được xem là đội tàu khai thác hải sản xa bờ.
Trong số tàu thuyền máy có công suất dưới 90CV thì loại từ 45CV trở xuống chiếm khoảng 85% số lượng.
Trong số tàu có công suất từ 45CV trở lên chỉ có khoảng 33% có máy định vị, 21% có máy dò cá; 63% có máy bộ đàm, 12,5% có máy thông tin liên lạc tầm xa.
Phần lớn tàu thuyền thiếu phương tiện thông tin liên lạc, phao cứu sinh và phương tiện an toàn hàng hải nên chỉ có khả năng đánh bắt vùng gần bờ.
Trong tổng số tàu thuyền, số tàu vận tải và dịch vụ chiếm 0,7% về số lượng và 2,1% về công suất, rất ít so với nhu cầu. Tuy nhiên, trong tiến trình triển khai chủ trương phát triển khai thác xa bờ của Chính phủ hiện nay, những số liệu trên đang thay đổi rất nhanh chóng. Trình độ công nghệ của đội tàu đang tiến bộ hằng ngày.
b) Cơ cấu nghề đánh bắt :
Phần lớn tàu đánh bắt đều có kiêm nghề, ở các tỉnh phía Bắc nghề cá đáy chiếm 33 - 35%, cá tầng trên khoảng 65%. Các tỉnh miền Trung nghề cá đáy chiếm 31 - 32%, cá tầng trên chiếm 68 - 69%. Ở các tỉnh phía Nam tỷ trọng nghề cá tầng đáy và tầng trên tương đương nhau.
Nghề lưới kéo ở tầng nước sâu 50 - 100m trong những năm qua còn bị hạn chế bởi số tàu cỡ lớn có khả năng đánh bắt ở tầng đáy rất ít.
Nghề nghiệp khai thác ở nước ta rất đa dạng phong phú về quy mô cũng như tên gọi. Theo thống kê chưa đầy đủ, có trên 20 loại nghề khác nhau, được xếp vào 6 họ nghề chủ yếu. Ngoài ra còn khoảng 10.000 tàu lắp máy 33 - 45CV có thể ra vùng xa bờ khai thác ở mức độ hạn chế khi thời tiết thuận lợi.
3.2 Lao động đánh bắt hải sản
Ðến năm 1997, toàn ngành thuỷ sản có 423.583 lao động đánh bắt hải sản, trong đó hoạt động gần bờ 309.171 người, chiếm tỷ trọng 73%, hoạt động xa bờ 114.412 người, chiếm tỷ trọng 72%. Ngành thuỷ sản đang tích cực đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ lao động nghề cá để họ tiến kịp với sự phát triển về ứng dụng khoa học, công nghệ, trang bị của đội tàu xa bờ.
Bảng tổng hợp kết quả đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá biển Việt Nam
Vùng biển
Loại cá
Ðộ sâu
Trữ lượng
Khả năng khai thác (tấn)
Tỷ lệ trong toàn bộ biển Việt Nam (%)
Tấn
Tỷ lệ (%)
Tấn
Tỷ lệ (%)
Cá nổi nhỏ
390
57,3
156
57,3
Vịnh Bắc Bộ
Cá đáy
< 50m
39.2
5,7
15.7
5,7
> 50m
252
37
100.8
37
Cộng
681.2
272.5
16,3
Cá nổi nhỏ
500
82,5
200
82,5
Miền Trung
Cá đáy
< 50m
18.5
3,0
7.4
3,0
> 50m
87.9
14,5
35.2
14,5
Cộng
606.4
242.6
14,5
Cá nổi nhỏ
524
25,2
209.6
25,2
Ðông Nam Bộ
Cá đáy
< 50m
349.2
16,8
139.8
16,8
> 50m
1.202.7
58,0
481.1
58,0
Cộng
2.075.9
830.4
49,7
Tây Nam Bộ
Cá nổi nhỏ
316
62,0
126
62,0
Cá đáy
< 50m
190.7
38,0
76.3
38,0
Cộng
506.7
202.3
12,1
Gò nổi
Cá nổi nhỏ
10
100
2.5
100
0,2
Toàn vùng biển
Cá nổi đại dương (*)
-300
-120
7,2
Cá nổi nhỏ
1.740.000
694.1
Cá đáy
2.140.000
855.9
Tổng cộng
Cá nổi đại dương (*)
-300
-120
Toàn bộ
4.180.000
1.700.000
100
Bảng trữ lượng và khả năng khai thác mực nang ở vùng biển Việt Nam
Khu vực
Trữ lượng và KN Khai thác (tấn)
< 50m
50 - 100m
100 - 200m
> 200m
Tổng cộng
Vịnh Bắc Bộ
Trữ lượng
1.5
400
1.9
Cho phép khai thác
600
160
760
Miền Trung
Trữ lượng
3.9
3.84
4.5
1.3
13.54
Cho phép khai thác
1.56
1.53
1.8
520
5.41
Nam Bộ
Trữ lượng
24.9
10.8
7.4
5.6
48.7
Cho phép khai thác
9.97
4.3
2.96
2.25
19.48
Cộng
Trữ lượng
30.3
14.99
11.9
6.91
64.1
Cho phép khai thác
12.13
5.99
4.76
2.77
25.65
Tỷlệ (%)
47,3
23,3
18,6
10,8
100
4. Thực trạng ngành Thuỷ sản Việt Nam:
Theo số liệu đã công bố của Tổng Cục Thống kê, GDP của ngành Thuỷ sản giai đoạn 1995 - 2003 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên 24.125 tỷ đồng. Trong các hoạt động của ngành, khai thác hải sản giữ vị trí rất quan trọng. Sản lượng khai thác hải sản trong 10 năm gần đây tăng liên tục với tốc độ tăng bình quân hằng năm khoảng 7,7% (giai đoạn 1991 - 1995) và 10% (giai đoạn 1996 - 2003). Nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng có vai trò quan trọng hơn khai thác hải sản cả về sản lượng, chất lượng cũng như tính chủ động trong sản xuất. Điều này tất yếu dẫn đến sự chuyển đổi về cơ cấu sản xuất - ưu tiên phát triển các hoạt động kinh tế mũi nhọn, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở khắp mọi miền đất nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Đến năm 2003, đã sử dụng 612.778 ha nước mặn, lợ và 254.835 ha nước ngọt để nuôi thuỷ sản. Trong đó, đối tượng nuôi chủ lực là tôm với diện tích 580.465 ha.
Bên cạnh những tiềm năng đã biết, Việt Nam còn có những tiềm năng mới được xác định có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản như sử dụng vật liệu chống thấm để xây dựng công trình nuôi trên các vùng đất cát hoang hoá, chuyển đổi mục đích sử dụng các diện tích trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản…
Ngành Thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh so với các ngành kinh tế khác. Tỷ trọng GDP của ngành Thuỷ sản trong tổng GDP toàn quốc liên tục tăng, từ 2,9% (năm 1995) lên 3,4% (năm 2000) và đạt 3,93% vào năm 2003.
Từ cuối thập kỷ 80 đến năm 2000, ngành thuỷ sản đã có những bước tiến không ngừng. Các chỉ tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội ngành Thuỷ sản thời kỳ 1991 - 2000 đã được hoàn thành vượt mức:
CHỈ TIÊU
Đơn vị
Kế hoạch
Thực hiện
Tổng sản lượng thuỷ sản
Trong đó:
- Sản lượng khai thác hải sản
- Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản
tấn
-
-
1.600.000
1.000.000
600.000
2.174.784
1.454.784
720.000
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
triệu USD
900 - 1.000
1.478,6
Thu hút lao động thuỷ sản
nghìn người
3.000
3.400
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản tương đương với các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ ngành thuỷ sản đang dần chuyển từ sản xuất mang nặng tính nông nghiệp sang sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hoá.
GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU (triệu USD)
Năm
Toàn quốc
Công nghiệp - Xây dựng - Dịch vụ
Nông - Lâm - Thuỷ sản
Tổng số
Riêng Thuỷ sản
1996
7.255,9
4.214,1
3.041,8
670,0
1997
9.185,0
5.952,0
3.233,0
776,5
1998
9.360,3
6.036,0
3.324,3
858,6
1999
11.540,0
8.627,8
2.912,2
976,1
2000
14.308,0
10.186,8
4.121,2
1.478,5
2001
15.100,0
10.090,4
5.009,6
1.816,4
Tốc độ tăng trưởng bình quân
13,0
14,9
9,5
14,6
Nguồn: Niên giám Thống kê Nông - Lâm - Thuỷ sản
5. Vai trò của ngành thuỷ sản Việt Nam đối với:
5.1. Quan hệ TM quốc tế:
Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về mở rộng quan hệ thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế giới. Năm 1996, ngành thuỷ sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến năm 2001, quan hệ này đã được mở rộng ra 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2003 là 75 nước và vùng lãnh thổ.
Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành thuỷ sản đã tạo dựng được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật và các nước trong khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và thường xuyên của ngành. Năm 2003, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc chiếm trên 75% tổng giá trị kim ngạch, phần còn lại trải rộng ra gần 60 nước và vùng lãnh thổ.
Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của ngành thuỷ sản đã góp phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới.
5.2. An ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo:
Thuỷ sản được đánh giá là nguồn cung cấp chính đạm động vật cho người dân. Năm 2001, mức tiêu thụ trung bình mặt hàng thuỷ sản của mỗi người dân Việt Nam là 19,4 kg, cao hơn mức tiêu thụ trung bình sản phẩm thịt lợn (17,1 kg/người) và thịt gia cầm (3,9 kg/người). Cũng giống như một số nước châu Á khác, thu nhập tăng đã khiến người dân có xu hướng chuyển sang tiêu dùng nhiều hơn mặt hàng thuỷ sản. Có thể nói ngành thuỷ sản có đóng góp không nhỏ trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Ngành thuỷ sản với sự phát triển nhanh của mình đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu hút một lực lượng lao động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm giảm sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước.
Số lao động của ngành thuỷ sản tăng liên tục từ 3,12 triệu người (năm 1996) lên khoảng 3,8 triệu người năm 2001 (kể cả lao động thời vụ), như vậy, mỗi năm tăng thêm hơn 100 nghìn người. Tỷ lệ tăng bình quân số lao động thường xuyên của ngành thuỷ sản là 2,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của cả nước (2%/năm).
Đặc biệt do sản xuất của nhiều lĩnh vực như khai thác, nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút mọi lực lượng lao động, tạo nên nguồn thu nhập quan trọng góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Các hoạt động phục vụ như vá lưới, cung cấp thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm… chủ yếu do lao động nữ thực hiện, đã tạo ra thu nhập đáng kể, cải thiện vị thế kinh tế của người phụ nữ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi. Riêng trong các hoạt động bán lẻ thuỷ sản, nữ giới chiếm tỉ lệ lên đến 90%.
6. Thách thức và triển vọng:
Từ những chặng đường trưởng thành, phát triển đã qua, có thể thấy ngành thuỷ sản đã liên tục phấn đấu, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, để lại dấu ấn đậm nét trong nền kinh tế - xã hội nói chung của đất nước. Đó là những thuận lợi cơ bản, tạo nên tiền đề vững chắc cho ngành tiếp tục đi lên trong tương lai.
Thách thức lớn nhất của ngành trong giai đoạn sắp tới là sự chuyển mình từ quá trình “tăng trưởng” sang quá trình “phát triển”. Trong đó, nhiệm vụ hàng đầu là phải cải thiện “chất lượng của sự phát triển”, đảm bảo đáp ứng yêu cầu “nhanh, hiệu quả, bền vững với sức cạnh tranh cao”, khi mà ngành thuỷ sản Việt Nam đã có một quy mô đáng kể trên bản đồ thuỷ sản toàn cầu, trong những biến đổi khôn lường của bức tranh kinh tế thế giới mà chúng ta đang hội nhập, trong sự hạn chế về tài nguyên, các cảnh báo, về suy thoái môi trường, trong những đòi hỏi bức xúc gắn liền sự phát triển của ngành với tiến trình công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và trong nông nghiệp nói riêng, với tổ chức lại sản xuất để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của các thành phần kinh tế, tham gia thực sự vào sự nghiệp xoá đói, giảm nghèo và làm giàu cho đất nước, biến “huyền thoại” thành thực tiễn, đóng góp xứng đáng để xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH HẰNG NĂM CỦA NGÀNH THỦY SẢN
Năm
Tổng sản lượng thủy sản (tấn)
Sản lượng khai thác hải sản (tấn)
Sản lượng nuôi thủy sản (tấn)
Giá trị xuất khẩu (1.000 USD)
Tổng số tàu thuyền (chiếc)
Diện tích mặt nước NTTS(ha)
Số lao động nghề cá(1.000 người)
1990
1.019.000
709.000
310.000
205.000
72.723
491.723
1.860
1991
1.062.163
714.253
347.910
262.234
72.043
489.833
2.100
1992
1.097.830
746.570
351.260
305.630
83.972
577.538
2.350
1993
1.116.169
793.324
368.604
368.435
93.147
600.000
2.570
1994
1.211.496
878.474
333.022
458.200
93.672
576.000
2.810
1995
1.344.140
928.860
415.280
550.100
95.700
581.000
3.030
1996
1.373.500
962.500
411.000
670.000
97.700
585.000
3.120
1997
1.570.000
1.062.000
481.000
776.000
71.500
600.000
3.200
1998
1.668.530
1.130.660
537.870
858.600
71.799
626.330
3.350
1999
1.827.310
1.212.800
614.510
971.120
73.397
630.000
3.380
2000
2.003.000
1.280.590
723.110
1.478.609
79.768
652.000
3.400
2001
2.226.900
1.347.800
879.100
1.777.485
78.978
887.500
Chua XD
2002
2.410.900
1.434.800
976.100
2.014.000
81.800
955.000
Chua XD
2003
2.536.361
1.426.223
1.110.138
2.199.577
83.122
902.229
Chua XD
2004
3.073.600
1.923.500
1.150.100
2.400.781
85.430
902.900
Chua XD
2005
3.432.800
1.995.400
1.437.400
2.738.726
90.880
959.900
Chua XD
2006
3.695.927
2.001.656
1.694.271
3.357.960
Chua XD
1.050.000
Chua XD
7- Tình hình hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực:
7.1- Các tổ chức quốc tế:
Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế của Liên Hợp quốc như UNDP (United Nations Development Programme), FAO (Food and Agriculture Organization)… được bắt đầu từ những năm 1980 thông qua việc thực hiện các dự án viện trợ kỹ thuật đã tạo điều kiện bước đầu cho ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển sản xuất, nâng cao sản lượng, đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản. Nhiều dự án trọng điểm được triển khai trong các lĩnh vực NTTS nước ngọt, sản xuất rong câu, bảo vệ môi trường NTTS ven biển, sản xuất kích dục tố HCG, cơ điện lạnh, tăng cường năng lực điều phối các nguồn tài trợ, đào tạo quản lý thông tin thống kê nghề cá …đã góp phần đưa thuỷ sản trở thành ngành kinh tế trọng điểm của Việt nam. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức nghề cá thế giới như FAO với vị thế ngày càng được nâng cao.
7.2- Các tổ chức khu vực:
Đối với các tổ chức nghề cá của khu vực, Việt Nam đã tích cực tham gia và trở thành thành viên chính thức của Mạng lưới các Trung tâm NTTS khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (NACA), Trung tâm phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC), Uỷ ban thuỷ sản Châu Á - Thái Bình Dương (APFIC),Tổ chức thông tin nghề cá (INFOFISH), Uỷ hội sông MêKông (MRC). Từ 1993, Việt Nam đã tích cực tham gia các diễn đàn nghề cá khu vực của ASEAN, APEC…Trình độ của các cấp quản lý và các chuyên gia cho đến nay đã ngày một nâng cao, dần đáp ứng được các yêu cầu của khu vực, đặc biệt trong lĩnh vực tư vấn và kỹ thuật.
7.3- Tổ chức phi chính phủ:
Ngành Thuỷ sản đã tranh thủ được sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ như AFRICA 70 của Italia, AIDA của Tây Ban Nha, Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế IUCN, Quỹ bảo vệ thiên nhiên hoang dã WWF, Liên minh sinh vật biển quốc tế IMA, Trung tâm thuỷ sản thế giới Worldfish Center… trong nhiều lĩnh vực như: Phát triển NTTS ven bờ tại các làng cá quy mô nhỏ, Hỗ trợ Chương trình an ninh thực phẩm thông qua việc nâng cao sản lượng NTTS ven biên phía Bắc; Bảo tồn biển, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học… Ngoài ra, việc hợp tác với Ngân hàng Thế giới WB được bắt đầu với Dự án nghiên cứu khả thi về phát triển NTTS (giai đoạn 1994-1995). Ngân hàng thế giới (WB) đã cùng với DANIDA tài trợ cho Dự án Khu bảo tồn biển Hòn Mun tại Nha Trang, Khánh Hoà từ 2001-2005. Hiện WB đang cùng với các đơn vị của BTS lập báo cáo khả thi về Sử dụng vốn vay ưu đãi để phát triển bền vững Ngành thuỷ sản.
7.4- Hợp tác song phương:
Công tác HTQT song phương đã được tiến hành từ những năm 70 và ngày càng được tăng cường. Tới nay, thông qua nhiều hình thức khác nhau, ngành thuỷ sản đã chính thức hợp tác với trên 20 nước ở khắp các châu lục (Các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nauy, Đan Mạch, CHLB Nga, Hungary, Italia, Pháp, Phần Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ sĩ, Hà lan, Canađa, Ôxtrâylia và nhiều nước khác và đã thu được kết quả to lớn. Đặc biệt, từ 1993 tới nay, Chính phủ Đan Mạch đã hỗ trợ chính thức và toàn diện cho ngành thuỷ sản Việt Nam một số dự án quy mô lớn, Đan Mạch đã trở thành quốc gia hàng đầu hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực nghề cá.
7.5- Giúp đỡ quốc tế:
Từ sau năm 1975, ngành thuỷ sản Việt Nam đã tích cực hợp tác và giúp đỡ ngành thuỷ sản của Căm Pu Chia, Lào, Cu Ba và một số nước khác. Các chuyên gia Việt Nam đã có mặt ở Căm Pu Chia một thời gian dài trong thời kỳ mới giải phóng, hiện Việt Nam đang giúp đỡ Lào xây dựng các trại nuôi và trại giống cá nước ngọt. Trong khuôn khổ hợp tác Nam-Nam, nhiều chuyên gia về nuôi trồng, chế biến thuỷ sản đã được cử đến một số quốc gia châu Phi. Tuy nhiên, sự hợp tác và giúp đỡ trên vẫn còn rất khiêm tốn, cần có sự quan tâm để mở rộng phạm vi hợp tác và giúp đỡ đối với các nước bạn bè, đặc biệt về lĩnh vực NTTS.
8. Thành tựu của ngành thủy sản Việt Nam:
Thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong thời gian qua, ngành thuỷ sản đã triển khai và phát triển nhiệm vụ hợp tác quốc tế theo hướng củng cố và mở rộng mối quan hệ hợp tác song phương và đa phương, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ, phát triển xuất khẩu thuỷ sản, phục vụ cho việc triển khai các chương trình kinh tế – xã hội của ngành , đồng thời tích cực đưa nghề cá Việt Nam hội nhập với nghề cá khu vực và thế giới. Cụ thể là:
* Ngành thuỷ sản đã sớm chủ động và tích cực mở rộng hợp tác quốc tế và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đã tranh thủ được một số dự án từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) song phương và đa phương, một số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), góp phần quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, tăng cường năng lực cả về trang thiết bị, công nghệ và đội ngũ cán bộ quản lý ở các cấp.
* Trong thời gian qua, ngành thuỷ sản đã thu được những thành tựu đáng kể, trong giai đoạn từ 1986 đến 2004, giá trị xuất khẩu của cả nước tăng gần 23,5 lần, riêng năm 2005, xuất khẩu của toàn ngành đạt 2,739 tỷ USD. Ngành thuỷ sản đã thu hút được 113 dự án FDI với tổng giá trị 250 triệu USD và 13 dự án ODA với tổng giá trị 89,8 triệu USD. Riêng năm 2005, ngành đã tiếp nhận 7 dự án với số vốn 14,35 triệu USD.
* Ngành thuỷ sản đã bước đầu hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế và triển khai một số Hiệp định hợp tác với các Tổ chức quốc tế, khu vực và các nước.
Bảng thống kê xuất khẩu thủy sản chính ngạch theo thị trường
NĂM
2002
2003
2004
2005
2006
Thị trường
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Châu Á (không kể Nhật Bản)
134,744
497,803,341
90,504
290,925,817
123,891
413,861,348
131,560
378,035,774
236,456
644,685,781
Châu Âu
28,613
73,719,852
38,187
116,739,138
73,459
231,527,515
115,697
380,904,754
293,888
897,713,417
Mỹ
98,665
654,977,324
122,163
777,656,159
91,381
602,969,450
89,026
617,172,589
98,834
664,324,457
Nhật Bản
96,251
537,459,466
97,954
582,837,870
121,160
772,194,720
123,079
785,875,894
123,889
842,613,677
Thị trường khác
100,385
258,860,933
132,259
431,417,822
121,434
380,228,081
177,019
576,737,747
68,614
308,622,245
Total
458,658
2,022,820,916
481,067
219,957,680
531,326
2,400,781,114
636,380
2,738,726,758
821,681
3,357,959,577
Bảng thống kê xuất khẩu thủy sản chính ngạch theo mặt hàng
NĂM
2002
2003
2004
2005
2006
Mặt hàng
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Mực đông lạnh
28,562
96,000,812
21,462
68,564,663
26,727
96,517,102
27,946
103,581,955
34,992
135,968,896
Mặt hàng khác
115,160
324,044,960
141,799
497,476,506
108,802
322,501,820
148,612
496,155,270
146,687
460,652,970
Bạch tuộc đông lạnh
26,317
44,220,100
23,351
43,613,050
35,688
71,103,642
30,996
70,813,942
34,771
86,220,792
Hàng tươi sống
9
67,349
144
627,804
118
511,531
50
119,202
Cá Ngừ
20,735
77,463,159
17,362
47,722,955
20,784
55,054,959
28,580
78,401,516
44,822
117,132,996
Ruốc khô
3,883
4,164,258
3,656
3,444,306
6,972
5,208,457
7,945
4,908,968
3,980
3,438,538
Cá đông lạnh
112,035
361,646,074
132,271
405,741,072
165,596
464,727,235
208,071
531,849,204
362,286
952,570,667
Mực khô
18,920
109,207,131
9,903
57,080,033
9,794
65,420,451
11,806
75,292,960
12,063
79,595,373
Cá khô
17,182
40,214,633
7,222
16,727,460
14,756
47,916,251
21,676
67,015,741
28,220
89,402,643
Tôm khô
303
1,398,559
85
341,383
1,085
4,292,603
757
3,015,363
623
2,442,616
Tôm đông lạnh
114,580
949,418,477
124,780
1,057,862,963
141,122
1,268,038,595
149,872
1,307,155,108
153,173
1,430,002,115
Tôm hùm, tôm vỗ
972
14,975,404
33
374,611
1
25,200
13
412,769
Total
458,658
2,022,820,916
482,067
2,199,576,806
531,326
2,400,781,115
636,380
2,738,726,758
821,680
3,357,959,577
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tong hop QHKTQT.doc