1. Kết luận
Sản lượng cá mang độc tố được khai thác và
sử dụng hàng ngày là rất lớn (150 kg/ngày/hộ). Có
14 loài cá có gai độc thường được người dân khai
thác và sử dụng làm thực phẩm, làm cảnh và thức
ăn chăn nuôi. Tuy nhiên, hiểu biết của người dân về
các loài cá độc còn rất hạn chế.
2. Kiến nghị
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng
cao ý thức người dân về mối nguy hiểm và các biện
pháp phòng chống ngộ độc khi khai thác và sử dụng
các loài cá mang độc tố.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình khai thác, sử dụng và biện pháp phòng tránh một số loài cá biển có gai độc ở Nha Trang - Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
52 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TÌNH HÌNH KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRÁNH
MỘT SỐ LOÀI CÁ BIỂN CÓ GAI ĐỘC Ở NHA TRANG - KHÁNH HÒA
STATUS OF EXPLOITATION, UTILIZATION AND PREVENTIVE MEASURES
OF SOME VENOMOUS SPINE FISH SPECIES IN NHA TRANG – KHANH HOA
Lê Thị Hồng Mơ1, Trần Văn Dũng2
Ngày nhận bài: 06/9/2013; Ngày phản bi ện thông qua: 09/01/2014; Ngày duyệt đăng: 10/3/2014
TÓM TẮT
Mỗi năm nước ta có hàng trăm vụ ngộ độc thực phẩm liên quan đến các loài sinh vật biển mang độc tố. Nghiên cứu
được thực hiện từ năm 2011 đến năm 2012 nhằm cung cấp những thông tin về tình hình khai thác và sử dụng một số loài cá
biển mang độc tố, nhóm cá có gai độc tại Nha Trang – Khánh Hòa. Các mẫu cá độc được thu gom tại các cảng và các chợ
đầu mối, các bãi triều ven biển và từ các ngư dân khai thác quanh vùng biển Nha Trang và được phân loại thông qua các
tài liệu phân loại cá hiện hành trong và ngoài nước. Đồng thời, kết hợp với phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA)
và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) nhằm tìm hiểu về tình hình khai thác và sử dụng các loài cá độc. Kết quả điều tra
cho thấy, sản lượng cá mang độc tố được khai thác và sử dụng hàng ngày là rất lớn (150 kg/ngày/hộ). Ngoài 10 loài cá nóc
độc đã được công bố trước đó, còn có 14 loài cá có gai độc thường được người dân khai thác và sử dụng làm thực phẩm,
làm cảnh và thức ăn chăn nuôi. Nhìn chung, các thông tin và hiểu biết của người dân về các loài cá độc này còn hạn chế.
Nghiên cứu cũng đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế nguy cơ ngộ độc từ việc khai thác và sử dụng các loài cá này.
Từ khóa: cá mang độc tố, gai độc, khai thác, phòng chống ngộ độc, sử dụng
ABSTRACT
There are hundreds of cases of food poisoning related to exploitation and utilization of poisonous marine animals.
This investigation was conducted from 2011 to 2012 to provide information about the status of exploitation and utilization
of some venomous fi sh in Nha Trang – Khanh Hoa. Venomous fi sh samples were collected in fi shing ports, wholesale
markets, coastal areas and from fi shermen exploited around Nha Trang coastal areas and then identifi ed by common
classifi cation materials at home and abroad. The survey methods of rapid rural appraisal (RRA) and questionnaires were
carried out to learn about the status of exploitation and utilization of venomous fi sh. The result showed that a large amount
of venomous fi sh were daily exploited and utilized (150 kg/day/household). Apart from 10 poisonous puffer fi sh species
published in the previous paper, there were also 14 other venomous fi sh species commonly exploited and utilized by
inhabitants and then used for food, ornament and feed for animal husbandry. In general, the information and inhabitants’
knowledge of venomous fi sh species were still limited. This survey also put forward a great number of solutions to reduce
the risk of food poisoning related to exploitation and utilization of venomous fi sh.
Keywords: exploitation, poisoning prevention and treatment, utilization, venomous fi sh, venomous spine
1 ThS. Lê Thị Hồng Mơ, 2 ThS. Trần Văn Dũng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hải sản nói chung và cá biển nói riêng là loại
thực phẩm được nhiều người ưa chuộng bởi giá trị
dinh dưỡng cao và mùi vị thơm ngon của chúng.
Tuy nhiên, nhiều loài hải sản được biết đến có mang
độc tố gây chết người [7],[9],[12],[15],[19],[20],[22].
Các vùng biển nước ta đã ghi nhận 39 loài sinh vật
độc hại, có khả năng gây chết người bao gồm 22
loài cá, 10 loài rắn biển, 1 loài mực tuộc, 2 loài ốc
cối, 3 loài cua hạt và 1 loài sam [7]. Trên thế giới đã
thống kê được ít nhất 1.200 loài cá biển mang độc
tố [13].
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 53
Nguồn gốc độc tố và phương thức gây độc của
các loài cá mang độc tố rất đa dạng. Các chất độc
có thể do bản thân các loài cá mang độc hoặc do
ăn phải những loài sinh vật khác có chứa độc tố
như tảo, vi khuẩn và nguyên sinh động vật [15]. Con
người có thể bị ngộ độc thông qua con đường ăn
uống (cá nóc, cá trích, cá chình, cá mòi đường, cá
hồng,), bị chúng cắn/chích (cá mao tiên, cá mặt
quỷ, cá đuối, cá ngát,) hoặc có thể bằng cả hai
cách trên (cá chình, cá nóc,) [7],[15]. Bản chất
của các loại độc tố ở cá chủ yếu thuộc nhóm chất
độc thần kinh thường gặp là tetrodotoxin, hay một
số chất độc có bản chất là protein, Hầu hết chúng
là những chất độc rất nguy hiểm có thể gây tử vong
trong thời gian ngắn ở liều lượng thấp. Người bị
nhiễm độc, tùy theo mức độ nặng nhẹ, có thể biểu
hiện đau đầu, chóng mặt, nôn ói, rối loạn thần kinh,
co giật, liệt cơ, hoại tử, hôn mê, trụy tim mạch và
chết [2]. Các cơ quan mang độc tố ở cá cũng rất
đa dạng, chúng có thể nằm trong nội tạng, tuyến
sinh dục, cơ, da, xương, tia vây hay các gai độc
[4],[6],[9],[15],[19].
Trên thế giới cũng như trong nước, nhiều
trường hợp ngộ độc do vô tình hay cố ý tiếp xúc với
các loài cá có gai độc đã được báo cáo, và nhiều
trường hợp nhiễm độc nặng và tử vong đã được ghi
nhận [7], [17], [23]. Sự thiếu hụt các thông tin nghiên
cứu, cảnh báo, nhận biết cũng như các biện pháp
phòng tránh những loài cá có mang độc tố này là
một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng
các trường hợp ngộ độc. Điều tra về tình hình khai
thác, sử dụng và đề xuất một số biện pháp phòng
tránh ngộ độc gây ra do các loài cá độc, đặc biệt là
nhóm cá có gai độc, là rất cần thiết góp phần nâng
cao ý thức người dân và hạn chế những trường hợp
ngộ độc có liên quan.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2011 đến
năm 2012 trên các loài cá độc tại vùng biển Nha
Trang – Khánh Hòa. Các mẫu cá độc được thu tại
các cảng cá và chợ đầu mối, các bãi triều ven biển
và từ các ngư dân lặn bắt quanh khu vực vùng biển
Nha Trang – Khánh Hòa. Trong quá trình điều tra,
tiến hành phỏng vấn trực tiếp người dân và thông
qua trả lời các bản câu hỏi (phương pháp đánh giá
nhanh nông thôn - RRA và phương pháp điều tra
qua phiếu - SQ) nhằm tìm hiểu về tình hình khai thác,
chế biến và sử dụng các loài cá độc; cách nhận biết
các bộ phận và cơ quan có chứa độc tố, phương
pháp loại bỏ các loại độc tố đó. Các mẫu cá được
thu, phân tích và định loại thông quan các tài liệu
phân loại cá biển thông dụng [15], [16]. Các mẫu
cá độc được lưu giữ tại Bảo tàng Thủy sinh vật -
Trường Đại học Nha Trang phục vụ công tác tuyên
truyền, giảng dạy và tham quan.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Trình độ của người tham gia khai thác và
sử dụng một số loài cá mang độc tố
Kết quả điều tra cho thấy: Hầu hết các ngư dân
khai thác và sử dụng nguồn cá biển mang độc tố
được điều tra có trình độ văn hóa rất hạn chế. Đa
phần có trình độ văn hóa cấp II chiếm 69,44%, trong
khi số người học cấp III chỉ chiếm 13,89% thấp hơn
cả số người học cấp I (16,67%).
2. Các hình thức khai thác và lưu giữ cá mang
độc tố
Bảng 1. Phương thức khai thác và lưu giữ cá
mang độc tố (n = 36)
STT Chỉ tiêu điều tra Tỉ lệ (%) Số người trả lời
1 Hình thức khai thác
- Giã cào
- Lặn bắt
- Lưới
- Câu
- Hình thức khác
47,22
11,11
13,89
19,44
8,33
17
4
5
7
3
2 Hình thức lưu giữ
- Ướp lạnh
- Giữ sống
- Không ướp lạnh
22,22
25,00
52,78
8
9
19
Các hộ ngư dân sử dụng nhiều phương tiện
khác nhau để khai thác các loài cá mang độc tố như:
giã cào, lặn bắt, lưới, câu và các hình thức khác.
Trong đó, hình thức khai thác bằng giã cào là phổ
biến nhất chiếm 47,22%. Sản lượng khai thác trung
bình đạt 150 kg/ngày/hộ bao gồm nhiều loài cá khác
nhau. Sau khi khai thác, các loài cá có gai độc này
được lưu giữ sống (25%) hoặc tươi bằng cách ướp
lạnh (22,22%) hoặc không (52,78%). Hoạt động
khai thác các loài cá này thường diễn ra quanh năm
trừ những tháng mưa bão lớn, tập trung chủ yếu từ
tháng 1 đến tháng 10.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
54 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Kết quả nghiên cứu cho thấy: có 15 loài cá độc
thuộc 8 giống thường được người dân khai thác
và sử dụng. Trong số này, cá dìa có số lượng loài
nhiều nhất với 5/15 loài, tiếp theo là cá đuối với 4/15
loài. Trong các loài kể trên, cá mặt quỷ, cá mao tiên,
cá bọ cạp có gai ở đầu, là những loài độc nhất, có
thể gây chết người. Các trường hợp nhiễm độc
gây chết người liên quan đến các loài cá này đã
được báo cáo ở nhiều nơi trên thế giới [14],[18],[21].
So với nghiên cứu về thành phần cá nóc độc trước
đó (10 loài), nhóm cá này có độc tính kém hơn, tuy
nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ngộ độc cho
người khai thác và sử dụng đặc biệt là khi tiếp xúc
với chúng [4]. Sau khi chuyển vào bến cảng, hầu
hết các loài cá này, đặc biệt là những cá thể có kích
thước lớn, được các thương lái mua ngay dùng làm
thực phẩm. Một số loài cá đẹp được giữ sống để
nuôi làm cảnh như cá mao tiên và cá mặt quỷ.
3. Các loài cá mang độc tố thường được người dân sử dụng
Bảng 2. Các loài cá mang độc tố thường được người dân sử dụng
STT Tên tiếng việt Tên khoa học Sử dụng
1 Cá đuối bồng mõm nhọn Dasyatis zugei Muller & Henle, 1841 Thực phẩm
2 Cá đuối bông lồi Dasyatis bennettii Müller & Henle, 1841 Thực phẩm
3 Cá đuối bồng đuôi vằn Dasyatis kuhlii Müller & Henle, 1841 Thực phẩm
4 Cá đuối bồng mõm tù Dasyatis variden Garman, 1885 Thực phẩm
5 Cá bọ cạp có gai ở đầu Scorpaena hatizyoensis Matsubara, 1943 Thực phẩm
6 Cá ngát Plotosus anguillaris Bloch, 1797 Thực phẩm
7 Cá mao tiên Dendrochius zebra Cuvier & Valenciennes, 1829 Thực phẩm, làm cảnh
8 Cá mặt quỷ xám Inimicus idactylus Pallas, 1769 Thực phẩm, làm cảnh
9 Cá mặt quỷ rạn san hô Synanceia verrucosa Bloch & Schneider, 1801 Thực phẩm, làm cảnh
10 Cá bống Vân Mây Yongeichthys nebulosus Forskal, 1775 Thực phẩm
11 Cá dìa chấm Siganus javus Linnaeus, 1766 Thực phẩm
12 Cá dìa vệt vàng Siganus orgamin Bloch & Schncider 1801 Thực phẩm
13 Cá dìa đen Siganus fuscescens Houttuyn, 1782 Thực phẩm
14 Cá dìa sọc Siganus guttatus Bloch, 1787 Thực phẩm
15 Cá dìa đôi vạch Siganus virgatus Valenciennes, 1835 Thực phẩm
4. Cách chế biến và sử dụng các loài cá mang độc tố
Bảng 3. Cách chế biến, sử dụng và loại bỏ độc tố các loài cá độc (n = 36)
STT Chỉ tiêu điều tra Tỉ lệ (%) Số người trả lời
1 Người sử dụng cá
- Có sử dụng cá độc 100 36
2 Cách phòng tránh bị ngộ độc
- Không để bị đâm, chích bởi gai độc 100 36
3 Cách chế biến, sử dụng
- Nướng
- Canh chua
- Chiên, kho, hấp, sốt
- Làm đồ mỹ nghệ, làm cảnh
- Làm thức ăn nuôi thủy sản
44,44
25,00
19,44
5,56
5,56
16
9
7
2
2
Hầu hết các loài cá mang độc tố trong nghiên
cứu này đều được sử dụng làm thực phẩm (88,89%).
Cách chế biến, sử dụng các loại cá này tương tự
như những loài cá thông thường với các cách chế
biến như: nướng, canh chua, chiên, hấp, Một
số loài cá hình dạng đẹp được sử dụng làm cảnh
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 55
(cá mao tiên, cá mặt quỷ). Những cá thể có kích thước
nhỏ, giá trị kinh tế thấp thường được sử dụng cùng với
cá tạp làm thức ăn nuôi thủy sản hay chăn nuôi.
Tất cả các loài cá này đều có khả năng gây độc
thông qua các gai, tia vây hoặc đuôi có mang độc
tố. Trong quá trình khai thác và sử dụng, để tránh bị
nhiễm độc, người dân cần tránh tiếp xúc trực tiếp và
không để bị chích bởi các cơ quan mang độc tố trên.
Nhiều loài cá trong nghiên cứu này có mùi vị thơm
ngon, được người dân ưa chuộng và bán trong các
nhà hàng với giá khá cao, đặc biệt là cá mặt quỷ có
giá từ 350 – 720 nghìn đồng/kg.
5. Cách nhận biết các bộ phận mang độc tố ở cá
Bảng 4. Cách nhận biết các bộ phận
chứa độc tố ở cá (n = 36)
STT Chỉ tiêu điều tra Tỉ lệ (%) Số người trả lời
1 Khả năng nhận biết được
bộ phận chứa độc tố ở cá
- Có
- Không
91,67
8,33
33
3
2 Các bộ phận chứa độc tố
- Các tia vây sắc, nhọn
- Gai đuôi, sắc nhọn
69,44
30,56
25
11
3 Biết được bộ phận chứa
độc tố ở cá qua
- Nghe nói
- Qua kinh nghiệm
- Qua tài liệu
58,33
36,11
5,56
21
13
2
Hơn 90% số người được hỏi nhận biết được bộ
phận mang độc tố ở cá. Trong đó, tùy loài cá mà cơ
quan chứa độc tố có thể là các tia vây (69,44%) hay
gai đuôi (30,56%). Các bộ phận hay cơ quan chứa
độc tố ở cá được người dân nhận biết chủ yếu qua
nghe nói từ những người xung quanh (58,33%), còn
lại thông qua kinh nghiệm của bản thân (36,11%), rất
ít người biết thông qua sách vở hay tài liệu (5,56%).
6. Các loại độc tố và giải pháp phòng tránh
6.1. Cơ chế gây độc và triệu chứng ngộ độc
Gai độc trên các tia vây hoặc đuôi được nối với
tuyến độc nằm ngay phía gốc mỗi tia vây. Đây là cơ
quan tự vệ và tấn công quan trọng của các loài cá
độc [10]. Nhiều loài cá độc, đặc biệt là cá mặt quỷ,
cá mao tiên hay cá bọ cạp có gai ở đầu và cá đuối,
thường có khả năng ngụy trang rất tốt trong các rạn
san hô, dưới cát hay các hang, hốc đá [15],[16],[21].
Việc khó nhận biết chúng khi tham quan, thám hiểm
hoặc bơi lội làm gia tăng nguy cơ bị những loài cá
này tấn công. Khi vô tình tiếp xúc phải chúng, tùy
áp lực mạnh hay nhẹ, lượng độc tố phóng ra có thể
nhiều hay ít [9]. Các chất độc sẽ phóng ra cùng lúc
khi các gai độc chích vào nạn nhân. Cơ quan bị nhiễm
độc thường là chân, tay, hoặc các ngón tay do tiếp xúc
trực tiếp với các loài cá này.
Bản chất của các chất độc trên các loài cá có
gai độc thường là các loại chất độc thần kinh, có bản
chất là protein hoặc các dạng peptide tồn tại ở rất
nhiều dạng khác nhau tùy theo loài cá (crinotoxin,
thromboxane, phosphodiesterase, verrucotoxin,
stonustoxin,) [9]. Chúng đều là những chất có độc
tính cao và có khả năng gây tử vong trong trường
hợp nhiễm nặng và không có các biện pháp xử lý kịp
thời. Khác với Tetrodotoxin ở cá nóc, các chất độc có
bản chất protein dễ dàng bị phân hủy bởi nhiệt, tan
trong nước và biến tính hoàn toàn trong quá trình chế
biến. Do vậy, mức độ nguy hiểm gây ra liên quan đến
các loài cá có gai độc thường thấp hơn các nhóm
mang độc tố Tetrodotoxin hay Ciguatoxin.
Triệu chứng lâm sàng khi ngộ độc: Tùy theo
lượng độc nhiễm vào cơ thể, sau vài giờ nạn nhân
có biểu hiện đau nhức, bầm tím, da biến màu, sưng
phù, bội nhiễm, vết sưng lan rộng xung quanh vùng
bị chích, hoại tử cục bộ. Trường hợp nhẹ, các dấu
hiệu sẽ ổn định lại sau 12 – 24 giờ nhiễm độc. Trong
trường hợp nhiễm độc nặng, nạn nhân có biểu hiện
đau nhức dữ dội, khó thở, hạ huyết áp, nhịp tim
chậm và rối loạn, suy tim, liệt cơ. Trường hợp nặng
hơn, nạn nhân có biểu hiện suy hô hấp, co giật, liệt
toàn thân, hôn mê và chết [9].
6.2. Giải pháp phòng tránh
Để hạn chế nguy cơ nhiễm độc trong quá trình
khai thác và sử dụng các loài cá độc cần có sự phối
hợp của người dân, chính quyền các cấp và các cơ
quan chức năng. Hạn chế khai thác và sử dụng các
loài cá có gai độc. Trong trường hợp khai thác và sử
dụng, cần tránh tiếp xúc trực tiếp với chúng khi còn
sống, trong quá trình chế biến, cần có các dụng cụ
bảo vệ như găng tay [1]. Cần tìm hiểu và nhận biết
các loài cá có gai độc này thông qua sách báo, tài liệu
và các phương tiện truyền thông đại chúng để có biện
pháp bảo vệ khi tiếp xúc với chúng. Khi lặn bắt hoặc
tham quan phải trang bị đầy đủ thiết bị bảo vệ. Không
cầm nắm, tiếp xúc các loài hải sản có mang độc tố.
Khi bị chích bởi các loài cá có gai độc này, cần
nhanh chóng tiến hành các biện pháp sơ cứu kịp
thời: rửa sạch vết thương (nước muối, giấm hay xà
phòng), tìm kiếm và loại bỏ các gai nhỏ, gai gãy còn
sót lại xung quanh vết thương; ngâm phần bị tổn
thương trong nước muối ấm 45 – 500C (tùy theo khả
năng chịu đựng của nạn nhân) trong thời gian khoảng
30 – 90 phút cho đến khi dấu hiệu đau nhức giảm
bớt. Để duy trì nhiệt độ nước không thấp hơn 450C,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
56 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
cần tiến hành thay nước ấm định kỳ 10 phút/lần [8],
[11], [18]. Sau đó, cần đưa nạn nhân đến các cơ sở
y tế gần nhất trước khi xuất hiện các triệu chứng
nặng hơn (đau nhức dữ dội, sưng phù, hoại tử cục
bộ, rối loạn hô hấp, nhịp tim,...) để được điều trị kịp
thời với các biện pháp như gây tê, tiêm thuốc giảm
đau, thuốc giải độc,...
Ngoài ra, chính quyền các cấp và các cơ quan
chức năng (ngành Y tế, Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn) cần phối hợp với nhau trong việc tuyên
truyền người dân về tính độc hại của các loài cá
mang độc tố, biện pháp phòng tránh, và giám sát
việc thực thi các chỉ thị về phòng chống ngộ độc do
các loài cá mang độc tố gây ra.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sản lượng cá mang độc tố được khai thác và
sử dụng hàng ngày là rất lớn (150 kg/ngày/hộ). Có
14 loài cá có gai độc thường được người dân khai
thác và sử dụng làm thực phẩm, làm cảnh và thức
ăn chăn nuôi. Tuy nhiên, hiểu biết của người dân về
các loài cá độc còn rất hạn chế.
2. Kiến nghị
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng
cao ý thức người dân về mối nguy hiểm và các biện
pháp phòng chống ngộ độc khi khai thác và sử dụng
các loài cá mang độc tố.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Thủy sản, 2003. Chỉ thị về việc ngăn chặn ngộ độc cá nóc. Số: 06/2003/CT-BTS.
2. Bộ Y tế, 2002. Quyết định số 354/QĐ-BYT ngày 06/02/2002 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc Hướng dẫn chẩn đoán, xử trí và
phòng ngộ độc cá nóc.
3. Đào Việt Hà, Đỗ Thị Tuyết Nga, 2006. Độc tính Tetrodotoxin (TTX) của cá bống vân mây (Yongeichthys nebulosus Forskal,
1775) thu tại Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học Công nghệ Biển, số 1: 82 – 91.
4. Lê Thị Hồng Mơ, Trần Văn Dũng, 2012. Tình hình khai thác và sử dụng một số loài cá nóc độc ở Nha Trang – Khánh Hòa.
Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, số 3, trang: 25 - 29.
5. Đỗ Tuyết Nga, Đào Việt Hà, Phạm Xuân Kỳ, Lưu Thị Hà, Cao Phương Dung, 2003. Xác định độc tố Tetrodotoxin trong một
số loài cá nóc thu ở Nha Trang. Tuyển tập Nghiên cứu biển, Viện Hải dương học Nha Trang, tập 13: 215 - 224.
6. Lâm Ngọc Trâm, Đỗ Tuyết Nga, Nguyễn Phi Đính, 1999. Các hợp chất tự nhiên trong sinh vật biển Việt Nam. NXB Khoa
học và Kỹ thuật.
7. Võ Sĩ Tuấn, 2006. Khảo sát và nghiên cứu sinh vật mang độc tố có thể gây chết người ở vùng biển Việt Nam. Tuyển tập
Nghiên cứu biển, tập XV. NXB Khoa học và Kỹ thuật.
Tiếng Anh
8. Atkinsin P.R.T., Boyle A., Hartin D., McAuley D., 2006. Is hot water immersion an effective treatment for marine envenomation?
Emerg Med J, 23: 503-508.
9. Chan, HY, Chan, YC, Tse, ML, Lau, FL, 2010. Venomous fi sh sting cases reported to Hong Kong Poison Information Centre:
a three-year retrospective study on epidemiology and management. Hong Kong Journal of Emergency Medicine vol. 17 (1): 40 - 44.
10. Cooper, MNK, 1991. Stone fi sh and Stingrays - Some notes on the injuries that they cause to man. J R Army Med Corps, 137: 136 - 140.
11. Edmonds CE., 1975. Dangerous Marine Animals of the Indo-Pacifi c Region. Newport, Victoria: Wedneil: 24-78
12. Fusetani N, Kem W., 2009. Marine toxins: an overview. In: Fusetani N, W. Kem (eds) Marine toxins as research tools,
Springer-Verlag, Berlin, Germany: 1-44.
13. Grady, D., 2006. Venom runs thick in fi sh families, Researchers Learn. New York Times.
14. Gwee, MCE, Gopalakrishnakone, P, Yuen, TR, Khoo, HE, and Low, KSY, 1994. A review of stonefi sh venoms and toxins. Pharmac.
Ther. Vol. 64: 509-528.
15. Halstead, B.W., 1988. Poisonous and venomous marine animals of the world, 2nd rev. ed. Princeton, NJ, Darwin Press, 1168: 288 plates.
16. Halstead, B.W., Auerbach, P.S., Campbell, D., 1990. A colour atlas of dangerous marine animals. London, Wolfe Medical
Publications Ltd., 192 pp.
17. Russell, FE, 1965. Marine toxins and venomous and poisonous marine animals. In: Russell FS, ed. Advances in marine biology. Vol.
3. London, Academic Press, 255 pp.
18. Russell, FF., 1974. Prevention and Treatment of Venomous Animal Injuries. Cellular and Molecular Life Sciences, 30 (1): 8-12.
19. Southcott, RV and D.sc, MD., 1977. Australian Venomous and Poisonous Fishes. Clinical Toxicology 10(3): 291-325.
20. Sutherland SK, 1983. Australian animal toxins: the creatures, their toxins and the care of the poisoned patient. Melbourne, Oxford
University Press, 540 pp.
21. Tam, G, Ng, H, Chau, C, Chan, T, Chan, A., Mak, T, Lau, FL, Tse, ML, Ngan, T, Wong, I., 2007. Venomous Fishes Venomous Fishes
- They Sting. Hongkong Poison Control Network. Poisoning.com Vol 2, Issue 3.
22. Taylor, G., 2000. Toxic fi sh spine injury: Lessons from 11 years experience. SPUMS Journal Volume 30, no.1.
23. Williamson JA, Fenner PJ, Burnett JW, Rifkin JF, ed., 1996. Venomous and poisonous marine animals: a medical and biological handbook.
Sydney, University of New South Wales Press/Fortitude Valley Queensland, Surf Life Saving Queensland Inc., 504 pp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_hinh_khai_thac_su_dung_va_bien_phap_phong_tranh_mot_so.pdf