Ngân hàng tài trợ trong trường hợp này có thể sử dụng các chứng từ
hàng hoá làm vật đảm bảo. Đây cũng chỉ là việc tài trợ cho các mục tiêu
thanh toán ngắn hạn của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu
24 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 2042 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Tác giả
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu và nhu cầu tài trợ cho
xuất nhập khẩu
Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền
sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự
khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu...mà mỗi quốc gia có
thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu
quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày một đa dạng ở
trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất
lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường
tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã
làm nảy sinh nhu cầu mua bán trao đổi quốc tế (hay thương mại quốc tế).
Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài
biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế
bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở
mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và
nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan
tâm thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt
động thương mại quốc tế.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét
đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật
lạc hậu, công nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm
lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều
này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng hơn.
Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua
một số khía cạnh cơ bản sau:
Xuất khẩu
- Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều
kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích
các ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ
ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị
trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo
trong kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả
quản lí, đổi mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi
hơn nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra.
Nhập khẩu
Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước
và thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản
xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa
một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn định về cung-cầu trong nước và cao
hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ
thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất.
- Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc
cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu
cũng như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường.
Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối
với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời
sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế.
Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu
Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng
hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa
các nước phát triển, giữa các nước đang phát triển, giữa các nước phát
triển và đang phát triển...) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng
như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương
mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát
triển chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ
thuật, công nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động
xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu
cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến thanh
toán tiền hàng. Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng
cáo, thiết kế mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát
triển chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới
qua sơ chế... Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất
khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời.
Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động
xuất nhập khẩu ta sẽ xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và
nhập khẩu hình thành trong cùng một hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoá máy móc, thiết bị kĩ thuật, công nghệ.
Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường
kéo dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài
trợ thường nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể:
+ Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại
các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Đây là giai đoạn đầu tiên và
có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các bước sau của cả hoạt
động xuất khẩu. Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên gia phải
thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán,
phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ
còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm
phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không phải nhỏ, đặc
biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp.
+ Giai đoạn đưa ra đề nghị chào hàng: Các đề nghị chào hàng trong
khuôn khổ đấu thầu quốc tế thường được để kèm theo bản bảo đảm đấu
thầu của một ngân hàng có uy tín trong giao dịch quốc tế. Do vậy các
doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần được sự giúp đỡ của ngân hàng.
+ Giai doạn kí kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có
uy tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng
hoặc bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu
việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận.
Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu
là người nước ngoài đang gặp khó khăn và không có khả năng đặt cọc từ
nguồn vốn riêng của mình thì nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng
của mình một tài trợ đặt cọc có lợi cho đối tác thương mại của mình.
+ Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ
tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn
như, nhà máy, xí nghiệp... việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt
quá mức đặt cọc.
+ Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán
tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu
cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản
thanh toán giữa chừng. Ngoài ra, với các mặt hàng lớn như máy móc
công nghệ... thì nhiều khi nhà xuất khẩu còn cần phải được tài trợ cho
các chi phí xây dựng kho bãi, chuẩn bị mặt bằng sản xuất, đào tạo người
sử dụng máy móc... ở nước nhập khẩu.
+ Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy
sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ theo
điều kiện cung ứng.
+ Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá
được bàn giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho
lắp ráp chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận
thanh toán.
+ Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu
được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
+ Thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được
thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi
thanh toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có
thể chấp nhận được. Nhu cầu tài trợ ở giai đoạn này thường lớn để đảm
bảo vốn cho quá trình tái sản xuất khi mà người nhập khẩu chưa đến
hạn phải thanh toán.
Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để
đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu
cầu tài trợ để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì
vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều
mặt.
- Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: Ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu
cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác
nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
- Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, các
nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất
khẩu. Ngoài ra, nhiều khi nhà nhập khẩu còn phải nhờ ngân hàng đứng
ra bảo đảm để tìm nguồn tài trợ ở nước ngoài.
- Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà
nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng
cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn
bị cho đầu tư.
- Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung
ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm
đối với các nhà nhập khẩu.
- Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất
trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì
thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá
đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp
thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời
gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ.
Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu ở trên ta có thể
khẳng định rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu
tài trợ rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài
trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho xuất nhập
khẩu.
Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản,
do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó,
những nguồn tài trợ thường được sử dụng là:
- Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ
được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với
các công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn
hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao
(thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy
nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có
ngân hàng đứng ra chấp nhận hay bảo đảm.
- Các khoản phải nộp phải trả: Bao gồm: thuế phải nộp nhưng chưa nộp,
phải trả cán bộ công nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Đây
là nguồn tài trợ mang tính thời điểm cao vì nó thường nhỏ và ít ổn định.
- Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có
thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ
phần hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên
và phần lợi nhuận để lại cộng khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp
có thể giảm được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy,
nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ
hội của việc giữ lại lợi nhuận cao.
-Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ
có thể phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài
hạn. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động
trong việc huy động và sử dụng vốn, giảm được nguy cơ phá sản khi gặp
khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ phần hoặc có thể
hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ
sở hữu, giảm hệ số nợ của doanh nghiệp... Tuy nhiên, chỉ có các doanh
nghiệp thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức
này. Với nước ta, do thị trường tài chính còn chưa phát triển nên hình
thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc nếu có sử dụng thì vẫn khó có
thể đem lại hiệu quả cao.
-Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ
biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu.
Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định
cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả
năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài
ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức
này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó.
- Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp
thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau
như: cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng,
cho vay có đảm bảo... để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên
vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư
dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng
doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định
sao cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng
ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn.
- Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước
ngoài, vay nợ viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ...Hiện nay
các nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng.
Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó
nguồn tín dụng ngân hàng nắm giữ một vị trí đặc biệt bởi nó có thể được
cung cấp thông qua nhiều hình thức cho nhiều mục đích sử dụng khác
nhau và các hình thức tài trợ khác muốn thực hiện được phần nào cũng
cần sự hỗ trợ từ phía ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập
khẩu
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế
học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.
Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội
giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau
thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình
thái tiền tệ hoặc hiện vật.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng
bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên
lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ
quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”.
Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có
khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó
đã không ngừng được mở rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác
nhau trong đó có lĩnh vực kinh tế đối ngoại mà cụ thể hơn là hoạt động
xuất nhập khẩu, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối
với hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu được
thể hiện qua các mặt sau:
- Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một
nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu
mua dự trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, mua sắm máy móc thông
thường...phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái sản xuất của
doanh nghiệp.
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trên thị trường .
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng xuất nhập khẩu diễn
ra thuận lợi nhanh chóng hơn.
- Thứ tư, do sự cần thiết phải có được những giao dịch dễ dàng ít tốn
kém, người bán cũng như người mua đều cần phải có sự tài trợ của ngân
hàng thông qua các hình thức tín dụng như cho vay mở thư tín dụng,
chuyển trả tiền trực tiếp...
- Thứ năm, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu cao và do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và
người bán sự có mặt của ngân hàng sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên,
nhà xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không thanh toán khi ngân
hàng đứng ra đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược
lại nhờ nguồn tín dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được
những nhập khẩu quan trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa
đáp ứng được.
- Thứ sáu, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của
nước ngoài cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các
nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế cho một quốc gia
nào đó được thực hiện qua các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc
ngân hàng nước sở tại.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu càng
có ý nghĩa hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước,
trong đó có chính sách hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân
hàng sẽ cung cấp cho các nhà xuất nhập khẩu những khoản tín dụng lớn
với lãi suất ưu đãi mà nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn trong
hoạt động kinh doanh của mình.
Các hình thức và qui trình tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng
thương mại
Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều
hình thức khác nhau và tuỳ trình độ phát triển của ngân hàng và những
qui định của pháp luật mà các ngân hàng lựa chọn áp dụng các hình
thức cho phù hợp. Dưới đây ta sẽ xem xét một số hình thức tín dụng xuất
khẩu và tín dụng nhập khẩu thông dụng.
Tín dụng xuất khẩu
Ngân hàng thương mại cho các cơ sở xuất khẩu vay dưới các hình thức
như cho vay thông thường, cho vay trên cơ sở hối phiếu, cho vay trên cơ
sở phương thức thanh toán nhờ thu, cho vay trên cơ sở phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ ...
Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản
tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết hạn, người vay
phải trả đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là hình thức tín dụng truyền thống, về
kỹ thuật và phương pháp cho vay giống như các dạng tín dụng nội địa
tương ứng thông thường khác. Nó bao gồm các phương thức như cho
vay một lần, cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay theo hợp đồng tín
dụng tuần hoàn. Đối với các nhà xuất khẩu hình thức tín dụng này ngoài
việc được sử dụng cho các mục đích thu mua sản xuất, chế biến xuất
khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động nó còn được sử dụng để trang trải
các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất như: phí thuê tàu, thuế
xuất khẩu...
Cho vay trên cơ sở hối phiếu
Nhà xuất khẩu khi cần tiền có thể vay ngân hàng bằng cách đem chiết
khấu các hối phiếu chưa đến hạn trả tiền (số tiền vay bằng cách chiết
khấu hối phiếu thường nhỏ hơn số tiền ghi trên hối phiếu. Số chênh lệch
là lợi tức chiết khấu). Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước
bởi vì việc chiết khấu thường dễ dàng và ngay khi giao chứng từ về hàng
hoá người xuất khẩu đã có thể sử dụng được lợi nhuận của hoạt động
xuất khẩu để tái đầu tư.
Thời hạn vay bằng cách chiết khấu hối phiếu là thời hạn còn lại chưa
đến hạn thanh toán của hối phiếu. Người hoàn trả tiền vay và lợi tức là
người có nghĩa vụ trả tiền ghi trên hối phiếu.
Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau
khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu. Giá trị chiết khấu
thường được xác định ở các ngân hàng theo công thức:
Lck
Tck = M x (1- x t ) - P
360
Trong đó: Tck: Giá trị chiết khấu M: Mệnh giá hối phiế P: Lệ phí t: thời
gian chiết khấu (ngày) Lck: lãi suất chiết khấu theo năm
Trong các yếu tố trên thì lãi suất chiết khấu thường được quan tâm hơn
cả. Tỷ lệ này phụ thuộc các yếu tố:
- Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu
- Thời hạn thanh toán
- Giá trị hối phiếu...
Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá
Đây là hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu trên cơ
sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức
này ngân hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn
nhanh tương tự như chiết khấu hối phiếu. Tỉ lệ chiết khấu phụ thuộc vào
phương thức chiết khấu:
- Chiết khấu bảo lưu quyền truy đòi: là ngân hàng sau khi thực hiện chiết
khấu bộ chứng từ, sẽ quay lại truy đòi nhà xuất khẩu nếu bên nước ngoài
từ chối thanh toán, lãi xuất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp.
- Chiết khấu miễn truy đòi: là trường hợp ngân hàng mua đứt bộ chứng từ,
nếu bên nước ngoài không thanh toán thì ngân hàng chiết khấu chịu rủi
ro, không được truy đòi lại khách hàng. Tỉ lệ chiết khấu này thường cao.
Tín dụng ứng trước cho người xuất khẩu
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu các doanh
nghiệp cũng có thể đề nghị ngân hàng tạm ứng cho một nghiệp vụ xuất
khẩu cho đến khi thu được lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Hình thức
tín dụng này bao gồm hai hình thức cơ bản sau:
- Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ : Sau khi
lập song bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ liên
quan khác, nhà xuất khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền.
Ngân hàng của nhà xuất khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập
khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị chỉ giao chứng từ khi đã
thanh toán (điều kiện D/P: Documents against Payment) hoặc chấp nhận
một hối phiếu đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A: Documents against
Acceptance).
Trong nghiệp vụ này ngân hàng tham gia chủ yếu với tư cách trung gian,
thực hiện và thừa hành theo uỷ nhiệm để giảm bớt những rủi ro về tiêu
thụ, thanh toán cũng như về cung ứng. Tuy nhiên, từ khi gửi các chứng từ
tới ngân hàng xuất khẩu cho tới khi xuất trình với người thanh toán
thường mất một khoảng thời gian nhất định (đặc biệt khi thoả thuận ngày
thanh toán muộn hơn). Điều này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu có
thể thiếu vốn tạm thời. Khi đó họ có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước một
phần trị giá với bộ chứng từ nhờ thu. Khoản tín dụng này có thể do ngân
hàng xuất khẩu hay ngân hàng nhập khẩu ứng trước.
Thường nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ
ngắn hạn phục vụ nhu cầu tiền mặt tạm thời. Tín dụng ứng trước trong
phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu từng phần.
- Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ : Tín dụng
chứng từ phục vụ đặc biệt cho việc đảm bảo nhiệm vụ cung ứng và thanh
toán trong trong quan hệ ngoại thương nhưng nó cũng bao hàm cả các
nhân tố tín dụng.
Tín dụng ứng trước được sử dụng với L/C điều khoản đỏ. Đây là loại thư
tín dụng qui định một khoản tiền ứng trước của nhà nhập khẩu cho nhà
xuất khẩu vào một thời điểm xác định, trước khi xuất trình bộ chứng từ
hàng hoá. Các điều khoản ứng trước thường được qui định trong một điều
kiện thuận lợi cho các bên liên lạc thực hiện.
Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận
cấp cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất
khẩu chịu chi phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về
khoản ứng trước này.
Người nhập khẩu sẽ qui định rõ tổng giá trị tiền ứng trước , nó có thể là tỉ
lệ phần trăm hoặc thậm chí toàn bộ giá trị L/C (tuỳ thuộc quan hệ với nhà
xuất khẩu) và người nhập khẩu sẽ quyết định liệu người xuất khẩu sẽ phải
xuất trình vật gì làm đảm bảo cho ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng
xác nhận khi nhận tiền ứng trước. Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng
xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước cộng với lãi sau khi ngân hàng mở
L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù hợp). Bên cạnh đó, các ngân
hàng này cũng có quyền đòi số tiền này ở ngân hàng mở L/C nếu nhà xuất
khẩu vì một lí do gì đó không xuất trình được chứng từ phù hợp với điều
kiện của L/C.
Lời lẽ trong điều khoản đỏ có thể thay đổi tuỳ từng ngân hàng nhưng tựu
trung có hai loại:
- Điều khoản đỏ trơn: Tiền được ứng trước với điều kiện người xuất khẩu
cam kết bằng văn bản tiền sẽ được sử dụng đúng mục đích quy định.
- Điều khoản đỏ chứng từ: Tiền sẽ được ứng trước nếu nhà xuất khẩu cam
kết cung cấp giấy nhập kho hoặc các chứng từ khác chứng minh quyền sở
hữu hàng hoá và sau đó xuất trình các chứng từ thanh toán phù hợp với
thư tín dụng.
Tín dụng nhập khẩu
Các ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới
các hình thức như cho vay mở thư tín dụng, chấp nhận hối phiếu, cho vay
thấu chi...
Cho vay mở L/C
Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lí trong đó ngân hàng mở L/C cam
kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ xuất trình được bộ chứng phù hợp
với những nội dung của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng là nó
được hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng sau khi được
thiết lập, nó lại độc lập hoàn toàn với hoạt động mua bán.
Ngay việc mở L/C đã thể hiện việc cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu
bởi vì mọi thư tín dụng đều do ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập
khẩu nhưng không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng có đủ số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng, trong khi đó L/C lại là một đảm
bảo thanh toán của ngân hàng tức là ngân hàng mở L/C phải chịu mọi rủi
ro khi nhà nhập khẩu không thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi
L/C đã đến hạn trả tiền.
Để tránh rủi ro, trước khi cho vay các ngân hàng sẽ kiểm tra mục đích, đối
tượng nhập khẩu cũng như khả năng của nhà nhập khẩu để làm căn cứ
cho khoản tín dụng cung cấp.
Qui trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ:
1. Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình
yêu cầu được mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng
2. Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và
thông qua ngân hàng đại lí của mình ở nước người nhập khẩu thông
báo việc mở L/C và chuyển L/C đến người xuất khẩu.
3. Khi nhận được thông báo trên ngân hàng thông báo sẽ thông báo
cho nhà xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận
được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
4. Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao
hàng nếu không thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung L/C
cho phù hợp với hợp đồng.
5. Sau khi giao hàng người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của
L/C và xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở
L/C xin thanh toán.
6. Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu
cầu thanh toán cho nhà xuất khẩu
7. Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C
thì tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu , nếu không thấy phù hợp
thì từ chối thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất
khẩu.
8. Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ
cho người nhập khẩu sau khi nhận tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
Ngày nhận nợ được và tính lãi khoản cho vay mở L/C là ngày nhà nhập
khẩu phải thanh toán cho nhà xuất khẩu (ngày đến hạn thanh toán L/C)
Cho vay mở L/C có ưu điểm là cung cấp tín dụng kịp thời cho hoạt động
nhập khẩu. Tuy nhiên cũng có rủi ro cho ngân hàng vì L/C chỉ được xử lí
trên cơ sở chứng từ chứ không căn cứ trên hàng hoá, nếu hàng hoá kém
giá trị hay hư hỏng thì ngân hàng dễ bị tổn thất.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là hình thức tín dụng được thực hiện trên
cơ sở ngân hàng kí hợp đồngtín dụng với nhà nhập khẩu. Trong đó, các
ngân hàng cam kết chấp nhận các hối phiếu mà khách hàng của mình
phải thanh toán. Hình thức tín dụng này đảm bảo cho người nhập khẩu
thanh toán khi đến hạn.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu thường được dùng trong trường hợp người
bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của người mua và họ đề nghị bên
mua có một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do họ kí phát.
Nếu ngân hàng đồng ý cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận cung
cấp một khoản tín dụng cho bên mua.
Đối với ngân hàng kể từ khi kí chấp nhận hối phiếu cũng chính là thời
điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro, nếu người mua không có tiền thanh toán
cho bên bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Tuy nhiên, nếu đến thời
hạn thanh toán người mua có đủ tiền thì ngân hàng có thể không phải ứng
tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng chỉ là hình thức, một sự đảm bảo tài
chính. Lúc này ngân hàng nhận được một khoản phí chấp nhận, nó là
khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi ro của ngân hàng.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu đem lại sự thuận lợi cho không chỉ người
xuất khẩu mà cả với người nhập khẩu:
- Với sự chấp nhận của ngân hàng, nhà xuất khẩu có được một sự đảm
bảo vững chắc về khả năng chi trả của hối phiếu và họ có thể đtôi hối
phiếu đi chiết khấu tại bất kì ngân hàng nào. Khả năng thương mại của
hối phiếu này rất lớn, nó tạo cho nhà xuất khẩu được hưởng một tỉ lệ chiết
khấu ưu đãi.
- Đối với nhà nhập khẩu, hình thức tín dụng này có vai trò quan trọng
trong nghệ thuật thương mại. Nhà nhập khẩu lập một hối phiếu kèm đơn
xin vay yêu cầu ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu dù ngân hàng không
có quan hệ nợ nần với anh ta. Đó là một sự thoả thuận ngầm, một nghệ
thuật vay vốn. Sau đó nhà nhập khẩu có thể đem hối phiếu đã được chấp
nhận đi chiết khấu tại ngân hàng khác. Với khoản tiền thu được từ việc
chiết khấu nhà nhập khẩu có thể thanh toán trước hạn cho nhà xuất khẩu
để hưởng hoa hồng.
Tín dụng ứng trước cho nhập khẩu
Cũng như các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng rất cần được cho vay
theo hình thức ứng trước của ngân hàng. Đó là khi họ cần phải thanh
toán tiền mặt cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhà nhập khẩu cũng có thể
phát sinh nhu cầu tài trợ để thanh toán cho bộ chứng từ khi hàng hoá
chưa về đến cảng và doanh nghiệp chưa tiêu thụ được hàng hoá để thu hồi
vốn. Ngân hàng tài trợ trong trường hợp này có thể sử dụng các chứng từ
hàng hoá làm vật đảm bảo. Đây cũng chỉ là việc tài trợ cho các mục tiêu
thanh toán ngắn hạn của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tin_dung_ngan_hang_doi_voi_hoat_dong_xuat_nhap_khau_7304.pdf