Tìm hiểu nội dung dạy học nghi thức lời nói trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học

Ví dụ 2: Gà cùng Ngan Vịt Không chậm nửa bước Chơi ở bờ ao Ngan Vịt nhảy theo Chẳng may té nhào Rẽ đám rong bèo Gà rơi xuống nước Vớt Gà lên cạn. Nếu em là Gà, em sẽ nói lời gì với hai bạn Ngan Vịt? Việc rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học nói chung và rèn luyện sử dụng các NTLN được chương trình và sách giáo khoa hiện hành quan tâm nhiều hơn so với các chương trình và sách giáo khoa trước đây. Vì là lần đầu tiên NTLN được dạy ở nhà trường theo chương trình và có tính hệ thống nên các giáo viên tiểu học sẽ không tránh khỏi những khó khăn trong quá trình tổ chức dạy học. Vì vậy, nếu có những điều chỉnh đôi chút về nội dung chương trình và tập huấn giáo viên tốt thì việc dạy học NTLN sẽ có nhiều thuận lợi trong việc thực hiện mục tiêu phát triển cho học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt trên bình diện lời nói.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 22/03/2022 | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu nội dung dạy học nghi thức lời nói trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 157 - 162 157 TÌM HIỂU NỘI DUNG DẠY HỌC NGHI THỨC LỜI NÓI TRONG SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC Đặng Thị Lệ Tâm* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Dạy học Nghi thức lời nói (NTLN) là một nội dung mới của chương trình Tiếng Việt tiểu học. Lần đầu tiên, chương trình môn Tiếng Việt năm 2001 và năm 2006 chính thức đưa NTLN thành một nội dung học tập. Các NTLN trong chương trình hầu hết là các nghi thức được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, gần gũi, phù hợp với nhu cầu giao tiếp bằng lời nói của học sinh. Việc đưa thêm nội dung dạy học này vào sẽ giúp học sinh biết cách giao tiếp ứng xử trong nhiều tình huống của cuộc sống và giúp các em phát triển được tất cả các dạng lời nói mà cuộc sống đang đòi hỏi ở các em, hướng các em trở thành những con người năng động, sáng tạo, hoàn thiện trong xã hội mới. Từ khóa: Nghi thức lời nói, hoạt động giao tiếp, tiếng Việt, tiểu học, tình huống ĐẶT VẤN ĐỀ* Mục tiêu hàng đầu của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là “phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt ở học sinh trên cơ sở những tri thức căn bản, nhằm từng bước giúp các em làm chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự nhiên, tự tin trong các môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động lứa tuổi”[1]. Môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động của lứa tuổi học sinh tiểu học (6-11 tuổi) chủ yếu là ở gia đình và nhà trường. Ở gia đình, các em thường giao tiếp với ông bà, cha mẹ, cô dì, chú bác, anh chị, em Ở trường, đối tượng GT của các em là các thầy cô giáo, bác bảo vệ, các anh chị lớp trên, các bạn cùng học, các em lớp dưới Dù giao tiếp ở gia đình hay nhà trường, nếu theo cách phân vai giao tiếp “căn cứ vào mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong cặp vai” [6] thì học sinh tiểu học thường là người ở vai dưới. Trong vai giao tiếp phổ biến của mình, học sinh tiểu học cần biết sử dụng các NTLN làm phương tiện ngôn ngữ để biểu thị thái độ lễ phép, lịch sự, ngoan ngoãn của mình. Dạy học Nghi thức lời nói (NTLN) là một nội dung mới của chương trình Tiếng Việt tiểu học. Lần đầu tiên, chương trình môn Tiếng Việt năm 2001 và năm 2006 chính thức đưa NTLN thành một nội dung học tập. Các NTLN trong chương trình hầu hết là các nghi thức được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, * Tel: 0912 454828, Email: letamsptn79@gmail.com gần gũi, phù hợp với nhu cầu giao tiếp bằng lời nói của học sinh. Việc đưa thêm nội dung dạy học này vào sẽ giúp học sinh biết cách giao tiếp ứng xử trong nhiều tình huống của cuộc sống và giúp các em phát triển được tất cả các dạng lời nói mà cuộc sống đang đòi hỏi ở các em, hướng các em trở thành những con người năng động, sáng tạo, hoàn thiện trong xã hội mới. NỘI DUNG DẠY HỌC NTLN Nội dung dạy học NTLN được lồng ghép trong việc rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói và phân bố như sau: Lớp 1, học sinh nghe, nói các phát ngôn, các lời trao và lời đáp. Thông qua trả lời câu hỏi theo tình huống có tranh minh họa hoặc thông qua mẫu, học sinh tạo lập hoặc lĩnh hội những lượt lời trong đoạn hội thoại với giáo viên hoặc với các bạn học sinh trong lớp; biết đặt và trả lời câu hỏi lựa chọn về đối tượng. Thông qua tình huống và mục đích cho trước, học sinh tạo lập các phát ngôn nghi thức giao tiếp thông thường. Nội dung dạy học NTLN được thể hiện trong hai phần: phần luyện nói trong phân môn Học vần và phần luyện nói trong phân môn Tập đọc. Trong phân môn Học vần, một bài dạy âm hoặc vần mới được trình bày trong hai trang sách. Nội dung dạy học NTLN được phân bố trong trang thứ hai bao gồm chủ đề và tranh minh họa. Như vậy, trong phân môn Học vần, học sinh được rèn kĩ năng nghe nói trong hội thoại thông qua hình thức nói theo chủ đề có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 157 - 162 158 tranh minh hoạ và nói theo tình huống.Ví dụ bài 48 Nói lời xin lỗi (Tiếng Việt 1, tập 1,tr 98): Trong phân môn Tập đọc: nội dung dạy học NTLN được trình bày qua các bài tập sau phần ngữ liệu đọc và phần tìm hiểu bài đọc. Ví dụ: N: Tập nói lời chào. - của bé với mẹ trước khi bé vào lớp, - của bé với cô trước khi bé ra về. (Tiếng Việt 1, tập 2, tr 74). Ví dụ trên cho thấy, học sinh thực hành nghe nói theo mẫu câu cho trước. Ngoài ra, các nội dung luyện nói theo nghi thức đều có tranh minh họa kèm theo. Nhìn chung, dạy học NTLN ở lớp 1 tương đối đơn giản về nội dung. Số thời gian để luyện tập trong giờ học tương đối ít. Điều này thể hiện quan điểm của các nhà biên soạn là ở các lớp đầu bậc tiểu học nên ưu tiên cho kĩ năng đọc và viết. Hệ thống bài tập thực hành là tương đối hợp lý. Nó giúp học sinh từng bước tạo lập các phát ngôn theo chủ đề, phát ngôn NTLN thông thường, các đoạn hội thoại theo tình huống, các văn bản ngắn. Trong quá trình rèn luyện, các em sẽ phát triển được lời nói mạch lạc, ý thức hoá những câu nói vốn có trước khi đến trường (do nhu cầu muốn giao tiếp với mọi người xung quanh). Chính vì vậy, việc lựa chọn các dạng bài tập, các nội dung đưa vào bài tập làm chủ đề luyện NTLN cũng như mức độ yêu cầu của bài tập cần được quan tâm. Điều đó sẽ giúp cho việc phát triển lời nói cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả. Lớp 2, học sinh tạo ra các lượt lời của người nói như các phát ngôn nghi thức giao tiếp: chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, khẳng định, phủ định, mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị, chia vui, chia buồn, ngạc nhiên, tán thành, thán phục, từ chối và tạo ra các lượt lời của người nhận như đáp lời các nghi thức giao tiếp trên. Nội dung dạy NTLN được thể hiện thông qua hệ thống bài tập Tập làm văn miệng. Lấy tiêu chí phân loại là kĩ năng được rèn luyện ở mỗi bài tập, chúng tôi chia các bài tập luyện NTLN thành hai dạng: kiểu bài rèn kĩ năng nói và kiểu bài rèn kĩ năng viết: hoàn thành đoạn, viết câu Kiểu bài rèn kĩ năng nói chiếm số lượng lớn trong hệ thống bài tập luyện NTLN với các bài tập nói theo tình huống giao tiếp, trả lời câu hỏi Kiểu bài rèn kĩ năng viết có số lượng bài tập ít hơn với các bài tập hoàn thành đoạn, viết câu Ví dụ:- Kiểu bài rèn kĩ năng nói: Nói lời cảm ơn của em trong những trường hợp sau: a)Bạn cùng lớp cho em đi chung áo mưa. b)Cô giáo cho em mượn quyển sách. c)Em bé nhặt hộ em chiếc bút rơi. (Tiếng Việt 2, tập 1, tr tr 38). -Kiểu bài rèn kĩ năng viết: Ghi lại lời mời của em: a)Mời cô hiệu trưởng dự buổi họp mừng ngày Nhà giáo VN 20-11 của lớp em. b)Nhờ bạn khênh giúp cái ghế. c)Đề nghị các bạn ở lại họp sao Nhi đồng . (Tiếng Việt 2, tập 1, tr 177). Qua thống kê, khảo sát nội dung của phân môn Tập làm văn trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, chúng ta nhận thấy: NTLN là nội dung chính, có mặt ở 24/35 tuần và nằm trong nội dung của 14/15 chủ điểm. Điều đó chứng tỏ NTLN giữ một vai trò quan trọng trong phân môn Tập làm văn. Nội dung luyện NTLN rất phong phú, đa dạng, quen thuộc và gần gũi với học sinh, được dạy xen kẽ với văn bản thông thường và văn bản nghệ thuật trong một tiết Tập làm văn. Điều đó tạo điều kiện cho học sinh được tiếp xúc với nhiều phong cách khác nhau, từ đó biết cách ứng xử vào những tình huống giao tiếp trong cuộc sống. Đồng thời, các bài tập đều được đưa ra dưới dạng thực hành giao tiếp với nhiều tình huống khác nhau cho cùng một NTLN làm cho tiết Tập làm văn không nhàm chán. Nội dung các tình huống này có liên quan trực tiếp đến đời sống sinh hoạt hàng ngày của học sinh, giúp các em có hứng thú hơn trong học tập. Lớp 3: so với lớp 1 và lớp 2, nội dung dạy học NTLN ít hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp vì đến lớp 3, học sinh được rèn kĩ năng đọc, viết và độc thoại nhiều hơn ở lớp 1,2 để chuẩn bị bước vào giai đoạn sau của bậc học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 157 - 162 159 Các bài luyện NTLN được trình bày dưới dạng bài tập chủ yếu trong phân môn Tập làm văn với yêu cầu học sinh thực hành theo các nội dung, mục đích và tình huống giao tiếp cho trước như Tập tổ chức cuộc họp để thể hiện đúng vai giao tiếp, dùng từ xưng hô và lời nói phù hợp trong gia đình, nhà trường Ví dụ: Hãy cùng các bạn trong tổ mình tổ chức một cuộc họp. Gợi ý nội dung họp: trao đổi về trách nhiệm của học sinh trong cộng đồng về: - Tôn trọng luật đi đường. - Bảo vệ của công. - Giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn. (Tiếng Việt 3, tập 1, tr 61). Lớp 4: cũng giống như ở lớp 3, các bài luyện NTLN cho học sinh không nhiều nhưng đã được nâng lên ở mức độ cao hơn với nội dung Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân, phục vụ cuộc sống hàng ngày. Trao đổi ý kiến, thảo luận thực chất là những hành động thuyết phục bằng lời. Học sinh phải xác định rõ mục đích của cuộc chuyện trò, biết dùng lời lẽ để thuyết phục người khác ủng hộ ý kiến của mình, dự tính được các lập luận phản bác, các câu hỏi của người hội thoại để chuẩn bị thông tin với lý lẽ nhằm thuyết phục. Ví dụ: Em có nguyện vọng học thêm một môn năng khiếu (hoạ, nhạc, võ thuật..). Trước khi nói với bố, mẹ, em muốn trao đổi với anh (chị) để anh (chị) hiểu và ủng hộ nguyện vọng của em. Hãy cùng bạn đóng vai em và anh (chị) để thực hiện cuộc trao đổi. (Tiếng Việt 4, tập 1, tr 95). Lớp 5: yêu cầu rèn kĩ năng nói thông qua các bài luyện NTLN đã được nâng cao hơn nữa cả về dung lượng và thời lượng với mục đích Luyện tập thuyết trình, tranh luận, biết dùng lời nói phù hợp với các quy tắc giao tiếp trong gia đình, lớp học, với thầy cô, bạn bè, nhất là trong các tình huống cụ thể. Ví dụ: Hãy trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ sự cần thiết của cả trăng và đèn trong bài ca dao sau: Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng Đèn ra trước gió còn chăng, hỡi đèn? Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây? (Tiếng Việt 5, tập 1, tr 94) Việc nâng cao yêu cầu này cơ bản là hợp lý, càng lên lớp lớn, kĩ năng hội thoại của học sinh càng phải cao hơn. Tuy nhiên, những dạng bài nói trên ở lớp 5 là tương đối khó với một số học sinh, nhất là ở các lớp dưới các em chưa được thực hành các bài tập giao tiếp một cách thường xuyên và có hệ thống từ dễ đến khó. NHẬN XÉT Thông qua việc khảo sát các bài học NTLN trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học, chúng ta có thể thấy nội dung dạy học các NTLN được chia làm hai giai đoạn. Nếu như ở giai đoạn đầu (lớp 1, 2), học sinh chỉ được làm quen và học các NTLN đơn giản, thông thường như chào hỏi, xin lỗi, giới thiệu về bản thân thì lên các lớp trên, NTLN có tính chất nghi thức hơn như hội họp (tổ chức, xây dựng chương trình, điều khiển và phát biểu trong cuộc họp), giới thiệu các hoạt động của trường, địa phương, tập nói lời giải thích, tán thành hay bác bỏ một vấn đề Nếu như việc rèn kĩ năng giao tiếp với các NTLN tối thiểu, đơn giản cho học sinh đặt nền móng văn hóa và cách ứng xử văn hóa cho học sinh (từ bậc Tiểu học) thì việc rèn kĩ năng giao tiếp chính thức phục vụ đời sống và học tập sẽ giúp các em tự thích ứng được với công việc học tập, với cuộc sống hàng ngày. Đây là những đóng góp rất lớn của môn Tiếng Việt trong việc hình thành nhân cách cho học sinh tiểu học. Như vậy, nội dung luyện NTLN trong chương trình tiếng Việt tiểu học hết sức đa dạng, phong phú, có khả năng giúp các em giao tiếp phù hợp với mọi hoàn cảnh của cộng đồng. Với cách nhìn nhận toàn diện về nguyên tắc giao tiếp, các tác giả biên soạn sách giáo khoa đã chú trọng xây dựng các nội dung dạy học để rèn luyện kĩ năng nghe nói cho học sinh bên cạnh các nội dung dạy học đọc, viết và phù hợp với việc giao tiếp của học sinh từ 6-11 tuổi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 157 - 162 160 Đề tài luyện nói đều gần gũi, quen thuộc với đặc điểm tâm lý, tư duy của các em. Đó là những NTLN như: cảm ơn, xin lỗi, mời, nhờ, yêu cầu. đề nghị, gọi điện, chia buồn, an ủi, ngạc nhiên, thán phục... và lời đáp tương ứng. Việc đưa NTLN đơn giản, thông dụng trong giao tiếp thông thường vào luyện nói trong giờ làm văn là phù hợp và cần thiết vì học sinh tiểu học chưa quen nói trước đông người; vốn từ, khả năng ứng xử ngôn ngữ còn hạn chế. Rèn luyện kĩ năng nói theo nghi thức trong quan hệ hoà hợp có tác dụng giúp học sinh lứa tuổi này sớm có khả năng hoà nhập với xã hội rộng lớn. Hơn nữa, nó còn tạo tiền đề để sau này học sinh tập nói lời hội thoại phức tạp, lời độc thoại ở các mức độ và yêu cầu khác nhau. Ngữ liệu để dạy NTLN trong sách giáo khoa không lặp lại ngữ liệu trong các giờ tập đọc, kể chuyện trước đó. Có chăng chỉ là sự lặp lại về mẫu cấu trúc lời nói. Chẳng hạn, yêu cầu trong tiết Tập làm văn “Tập tổ chức cuộc họp” (Tiếng Việt 3, tập 1, tr 45) có những phần lặp lại mẫu cấu trúc của bài tập đọc “Cuộc họp của chữ viết” (Tiếng Việt 3, tập 1, tr 44). Đó là những yêu cầu không thể thiếu về nội dung, thể thức và tiến trình tổ chức một cuộc họp. Sự thay đổi ngữ liệu (hoàn toàn hoặc từng phần) giúp giờ làm văn nói tránh được tình trạng đơn điệu, nhàm chán. Theo định hướng của hoạt động giao tiếp, dạy học Tiếng Việt trong nhà trường không phải dạy cho học sinh cách tạo lập và lĩnh hội các đơn vị ngôn ngữ mà hình thành và rèn luyện cho các em kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ. Vì vậy, dạy học NTLN theo nguyên tắc giao tiếp là tổ chức tốt hoạt động nói năng của học sinh, phải lấy phương pháp giao tiếp làm phương pháp dạy học chủ đạo trong giờ học. Tinh thần này được thể hiện chủ yếu thông qua hệ thống bài tập trong giờ làm văn. Các bài tập thực sự là những bài tập giao tiếp. Học sinh tạo lập, lĩnh hội phát ngôn thông qua hành động ngôn ngữ với những tình huống thường gặp của cuộc sống ở gia đình, trong nhà trường, ngoài xã hội khi tiếp xúc với những người hết sức gần gũi, thân thiết với các em như ông bà, bố mẹ, anh chị em, thầy cô giáo, hàng xóm láng giềng; giúp học sinh nói, viết đúng với NTLN, rộng ra là nói, viết phù hợp với đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp mà bản thân các em được tham gia. Qua việc nói, viết đúng NTLN, góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho học sinh. Ví dụ, bài tập 2 (Tiếng Việt 2, tập 1, tr 147) nêu ra các tình huống yêu cầu học sinh nói lời giới thiệu thích hợp trong các tình huống: Tự giới thiệu về em với mẹ của bạn em, khi em đến nhà bạn em lần đầu. Tự giới thiệu về em với bác hàng xóm, khi bố bảo em sang mượn bác cái kìm. Tự giới thiệu về em với cô hiệu trưởng, khi em đến phòng cô mượn lọ hoa cho lớp. Với bài tập này, học sinh sẽ xác định hoàn cảnh diễn ra từng sự việc, phải hiểu tình huống được nêu ra trong sách giáo khoa để biết mình nói với ai, nói nhằm mục đích gì, trong hoàn cảnh nào. Chỉ khi các em hiểu tình huống giao tiếp và xác định được rõ những điểm trên, các em mới lựa chọn lời nói phù hợp. Qua đó, học sinh vừa tạo được những lời nói đúng nghi thức giao tiếp vừa tạo được những lời nói hay có văn hoá. Song song với những nội dung dạy NTLN trên đây là việc luyện tập cho học sinh một tư thế và thái độ đúng đắn, thể hiện được văn minh, văn hoá ứng xử khi giao tiếp. Ví dụ: Bài “Hỏi nhau về trường lớp” M: - Bạn học lớp nào? - Tôi học lớp 1A. (Tiếng Việt 1, tập 1, tr 74). Bài tập này yêu cầu học sinh biết đặt câu hỏi và biết trả lời với bạn về trường, lớp mình, tức là khi đặt câu hỏi hoặc trả lời, học sinh cần xác định được nội dung giao tiếp (về trường, lớp) và đối tượng giao tiếp (bạn bè trong lớp). Qua đó, các em biết cách sử dụng lời nói, ngữ điệu cho phù hợp. Với bài tập:“Tổ chức họp nhóm trao đổi ý kiến về câu hỏi sau: Em cần làm gì để bảo vệ môi trường?” (Tiếng Việt 3, tập 2, tr 112), học sinh học cách trao đổi, tranh luận, cách giải thích, trình bày một vấn đề (những việc cần làm để bảo vệ môi trường) với các bạn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 157 - 162 161 trong cùng nhóm. Các em biết chọn những lời nói thể hiện nội dung chính khi thảo luận, biết sử dụng lời nói phù hợp khi bàn bạc, khi trình bày ý kiến riêng của mình trong nhóm thảo luận. Việc thực hiện rèn luyện NTLN cho học sinh tiểu học qua phân môn Tập làm văn theo sách giáo khoa nhìn chung có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, dựa vào yêu cầu của quan điểm giao tiếp và quan điểm tích cực hoá trong dạy học tiếng Việt nói chung và dạy học NTLN nói riêng, chúng tôi thấy chương trình và các tài liệu dạy NTLN cho học sinh tiểu học có những điểm nên điều chỉnh, bổ sung như sau: Ở lớp 1, trong phân môn Học vần, việc trình bày trong sách giáo khoa của mục luyện nói bao gồm chủ đề và tranh minh họa sẽ gây ra cách hiểu phần này có thể dạy độc thoại hoặc hội thoại. Trong khi đó định hướng của các tài liệu dạy học phần này là chủ yếu dạy hội thoại. Vì vậy, nếu có thêm câu mẫu trong phần trình bày trong sách giáo khoa thì định hướng đó rõ ràng hơn. Ở lớp 2, chương trình đã phân tách thành hai phần cơ bản là lời trao và lời đáp và để phân phối trong hai học kì của năm học. Để sự vận động tương tác của lời trao và lời đáp tạo nên tính hoàn chỉnh của ngôn bản hội thoại thì trong giao tiếp lời trao thường xuất hiện cùng lời đáp. Vì vậy, theo chúng tôi, nên chăng đưa các nội dung NTLN vào dạy theo cặp trao - đáp (nói và đáp lời chào, lời tự giới thiệu, nói và đáp lời xin lỗi, nói và đáp lời khẳng định...). Làm như vậy, việc tạo dựng tình huống cho học sinh tập nói sẽ thuận lợi hơn. Cách làm này cũng hợp lí về mặt sư phạm hơn. Dạy học NTLN không phải chỉ rèn luyện cho học sinh trao hoặc đáp lời mà phải giúp các em biết thể hiện sự tương tác trong hội thoại. Đó chính là yêu cầu cơ bản và quan trọng của nguyên tắc giao tiếp trong dạy học NTLN. Hệ thống bài tập dạy học NTLN, trong sách giáo khoa chỉ có 3 kiểu bài tập: đọc, nhắc lại, nói lại theo lời nhân vật trong tranh; nói tiếp các lượt lời; trả lời câu hỏi hoặc xử lý tình huống. Các dạng bài tập này thực sự là những bài tập giao tiếp nhưng chưa phong phú về kiểu loại cũng như hình thức để kích thích hứng thú của học sinh. Hầu hết các bài tập luyện NTLN mà sách giáo khoa thiết kế mới chỉ là những tình huống giao tiếp rất đơn giản và nhiều bài đều dẫn sẵn NTLN mà học sinh phải trả lời trong phần yêu cầu: Em hãy nói lời cảm ơn trong các trường hợp sau; Em hãy nói lời xin lỗi trong các trường hợp sau. Điều đó sẽ làm hạn chế khả năng suy nghĩ của các em khi gặp một vấn đề mới mẻ, hạn chế khả năng sáng tạo và từ đó khó giúp học sinh bộc lộ những trải nghiệm của bản thân. Nếu để học sinh tự khám phá sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh và gây hứng thú học tập cho các em hơn rất nhiều. Những tiết ôn tập giữa và cuối kì cũng chỉ nhằm giúp học sinh ôn lại từng NTLN một cách riêng biệt, tương tự tình huống của các tiết học trước, không có những điểm mới để học sinh có thể vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, từ đó nâng cao và phát triển, trau dồi và bổ sung vốn hiểu biết thành kĩ năng của chính bản thân mình. Qua khảo sát bài tập trong sách giáo khoa, chúng tôi thấy rằng số lượng bài tập và nội dung kiến thức, kĩ năng cần tìm hiểu, rèn luyện trong một tiết học quá nhiều, hơn nữa các nội dung ấy nhiều khi lại không liên quan đến nhau. Ví dụ: bài Chia vui (Tiếng Việt 2, tập 1, tr 126) có 3 bài tập thì 2 bài luyện sử dụng NTLN để giao tiếp, một bài yêu cầu học sinh viết thư kể về anh chị em ruột hoặc anh, chị, em họ; điều đó đã gây ảnh hưởng và áp lực rất lớn đến việc dạy và học của cả giáo viên và học sinh. Trong một lượng thời gian nhất định của một tiết học, cả thầy và trò đều phải làm nhiều việc và rèn luyện nhiều kĩ năng (nói / viết). Vì vậy, nên điều chỉnh sách giáo khoa bằng cách tăng thời lượng dạy học NTLN lên hoặc giảm số lượng bài tập ở mỗi tiết học để việc dạy và học đạt kết quả tốt hơn. Một điều dễ nhận thấy là các bài tập tình huống giao tiếp trong sách giáo khoa đều miêu tả các mối quan hệ của con người với con người, trong khi tâm lý của trẻ lại thích các tình huống, những câu chuyện về thế giới con vật, đồ vật. Vì vậy, ngoài những dạng bài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Đặng Thị Lệ Tâm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 157 - 162 162 tập đã có, sách giáo khoa nên đưa thêm các bài tập, những câu chuyện về loài vật được nhân hóa, tạo một không khí mới mẻ và gần gũi với đời sống tinh thần, tình cảm; phù hợp với tâm lý các em, qua đó sẽ phát triển vốn ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp cho các em. Ví dụ 1: Sắp đến mùa đông, vợ chồng Thiên nga cùng đứa con nhỏ xíu bay về phương Nam tránh rét. Vì đứa con quá nhỏ và yếu ớt nên chúng phải nghỉ lại dọc đường. Ở chỗ dừng chân, chúng gặp một cô Vịt đang chuẩn bị cho đàn con xuống ổ. Vợ chồng Thiên nga muốn nhờ cô chăm sóc giùm Thiên nga con. Em hãy đóng vai Thiên nga bố và Thiên nga mẹ nói lời làm quen với cô Vịt để nhờ cô chăm sóc con mình. Ví dụ 2: Gà cùng Ngan Vịt Không chậm nửa bước Chơi ở bờ ao Ngan Vịt nhảy theo Chẳng may té nhào Rẽ đám rong bèo Gà rơi xuống nước Vớt Gà lên cạn... Nếu em là Gà, em sẽ nói lời gì với hai bạn Ngan Vịt? Việc rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học nói chung và rèn luyện sử dụng các NTLN được chương trình và sách giáo khoa hiện hành quan tâm nhiều hơn so với các chương trình và sách giáo khoa trước đây. Vì là lần đầu tiên NTLN được dạy ở nhà trường theo chương trình và có tính hệ thống nên các giáo viên tiểu học sẽ không tránh khỏi những khó khăn trong quá trình tổ chức dạy học. Vì vậy, nếu có những điều chỉnh đôi chút về nội dung chương trình và tập huấn giáo viên tốt thì việc dạy học NTLN sẽ có nhiều thuận lợi trong việc thực hiện mục tiêu phát triển cho học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt trên bình diện lời nói. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Báo Giáo dục và Thời đại, số 38. [2]. Phan Phương Dung (2001), Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 qua phân môn làm văn- SGK Tiếng Việt 2000, Tạp chí Giáo dục, số 12. [3]. Nguyễn Trí (2008), Một số vấn đề dạy hội thoại cho học sinh tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [4]. Nguyễn Thị Xuân Yến (2005), Xây dựng hệ thống bài tập dạy học ngôn bản ở giai đoạn đầu bậc tiểu học theo nguyên tắc giao tiếp, Luận án TS GDH, ĐHSP Hà Nội. [5]. Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên), Sách giáo khoa các lớp 1,2,3,4,5,Nxb Giáo dục, Hà Nội. [6]. Nguyễn Như Ý(chủ biên) (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. SUMMARY UNDERSTANDING THE CONTENT OF TEACHING ETIQUETTE SPEECH IN ELEMENTARY VIETNAMESE TEXTBOOKS Dang Thi Le Tam* College of Education - TNU Teaching etiquette speech (ES) is a new content of Vietnamese primary education prgram. For the first times, Vietnamese program in 2001 and 2006 officially put ES into an learning content. The ES in most programs is used in daily communication, which is close and cosistent with the needs of students. The addition of this content into Vietnamese subject help students learn communicating behaviors in many life situations and develop all sorts of words that are demanding by their lives, then make them become active, creative and complete people in the new society. Key words: Ritual speech, commucation, Vietnamese, elememtary, situation. * Tel: 0912 454828, Email: letamsptn79@gmail.com Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftim_hieu_noi_dung_day_hoc_nghi_thuc_loi_noi_trong_sach_giao.pdf