Dựa vào những vấn đề đã trình bày, có thể thấy rằng trên bình diện rộng
của nền kinh tế Việt Nam, hoạt động ngân hàng và CSTT nước ta chưa đạt
được độ hoàn thiện và tương xứng với những yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường CSTT ngày càng có vai trò
quan trọng hơn trong việc điều tiết nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu ổn định hệ
thống tiền tệ kiềm chế lạm phát, tạo môi trường kinh tế ổn định và phát triển
bền vững, lành mạnh.
43 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 5315 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới đạt hiệu quả cao trong điều hành chính sách tiền tệ. Kể từ khi chưa có
công cụ thị trường mở cho đến khi thị trường mở ở nước ta ra đời (12/7/2000),
do mới đi vào hoạt động nên NHNN vẫn chưa phối hợp được hai công cụ này.
Do đó, NHNN phải thường xuyên thay đổi dự trữ bắt buộc để điều chỉnh cung
cầu tiền tệ và tín dụng trên thị trường (như sự điều chỉnh liên tục trong năm
1999 và những tháng cuối năm 2000 đối với đồng ngoại tệ, từ 5% lên 8%
tháng 10/2000 và 12% tháng 12/2000). Một khi có sự thay đổi dồn dập về dự
trữ bắt buộc, các TCTD không thể nào hoạch định một cách chắc chắn về nhu
cầu vốn khả dụng, từ đó gây ra những bất ổn định trong hoạt động kinh doanh
của các TCTD.
2.1.2.2. Tình hình sử dụng công cụ tái cấp vốn.
Công cụ tái cấp vốn đã được từng bước đổi mới theo hướng nâng cao
hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ này, tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức
thế chấp các chứng từ có giá tăng dần, tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ
định ngày càng giảm dần. Trên thực tế, bên cạnh 2 hình thức tái cấp vốn chủ
yếu ban đầu từ cho vay thế chấp chứng từ và cho vay theo đối tượng chỉ định,
NHNN đã thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, một hình thứ tái cấp vốn ngắn
hạn đối với các NHTM để bù đắp thiếu hụt thanh toán tạm thời. Riêng đối với
hình thức cho vay thế chấp chứng từ, chứng từ thế chấp cũng được từng bước
mở rộng theo quyết định số 285/QĐ - NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước thì ban đầu chứng từ thế chấp bao gồm tín phiếu kho bạc
chưa đến hạn thanh toán, khế ước cho gay ngắn hạn. Đến năm 1997, để phù
hợp yêu cầu thực tế, NHNN bổ sung hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ
trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại NHNN.
Có thể thấy rằng cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ, công
cụ tái cấp vốn đã được sửa đổi bao gồm các hình thức tái cấp vốn theo quy
định của Luật ngân hàng Nhà nước như: cho gay lãi theo hồ sơ tín dụng, chiết
khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm
bằng cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Đặc biệt, quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được từng bước đổi mới
phù hợp với hoàn cảnh trực tiễn. Từ năm 1994 đến đầu năm 1997, lãi suất tái
cấp vốn được quy định theo tỷ lệ phần trăm trên lãi suất cho vay áp dụng đối
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 23
với dự tán cho vay của tổ chức tín dụng (bằng 60% đến 100% lãi suất cho gay
ghi trên khế ước). Chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, lãi
suất tái cấp vốn còn có sự phân biệt giữa các ngân hàng.
Kể từ 3/1997, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp
vốn đã được xác định mức cụ thể phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời cung
cấp tín hiệu về mục tiêu chính sách tiền tệ (nới lỏng hay thắt chặt). Tái cấp
vốn đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được NHNN quan tâm trong việc điều
tiết cung ứng tiền. Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức NHNN cũng
điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng. Ngày 29/05/1999, Thống
đốc NHNN ban hành quyết định 190/1999/QĐ-NHNN về điều chỉnh trần lãi
suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng từ 1%/tháng xuống
thốc nhất một mức là 0,85%/tháng nhằm khuyến khích các NHTM vay vốn từ
NHNN để đầu tư mở rộng tín dụng góp phần tăng trưởng kinh tế. Kể từ năm
1999, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với diễn biến
cung cầu vốn trên thị trường và phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách
tiền tệ.
Từ khi NHNN chính thức chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản,
lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4%/tháng (từ
1/8/2000), lên 0,5%/tháng (từ 1/11/2000); và lãi suất tái chiết khấu tăng từ
0,40% lên 0,45%/tháng.
Để hỗ trợ cho các công cụ khác, và thực hiện việc nới lỏng chính sách
tiền tệ, trong thời gian qua NHNN đã liên tục hạ lãi suất tái chiết khấu và lãi
sút tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 0,5% xuống còn 0,4%/tháng; lãi
suất tái chiết khấu giảm từ 0,45%. Đây cũng là một giải pháp để thực hiện chủ
trương kích cầu của chính phủ và là tín hiệu của ngân hàng Nhà nước phát ra
nhằm tác động tới xu thế hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố tín phiếu
đảm bảo bằng cầm cố tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng Nhà nước và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác, nhằm cung ứng thêm vốn ngắn hạn và phương
tiện thanh toán cho các NHTM, thay cho việc thế chấp chứng từ, thay cho việc
thế chấp chứng từ, thế chấp hồ sơ tín dụng và cho vay chỉ định trước đây. Song
trong thực tế, mới chỉ có các NHTM quốc doanh được vay, còn các NHTM cổ
phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn đứng ngoài cuộc.
Nhìn chung, công cụ này vẫn còn có một số hạn chế nhất định: tái cấp
vốn thực hiện chủ yếu đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh theo
hình thức chỉ định, việc tiếp cận của các NHTM khác với kênh tái cấp vốn từ
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 24
ngân hàng Nhà nước còn hạn chế vì các đơn vị này thường không đủ điều kiện
tham gia tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phát huy hiệu quả điều
tiết thị trường, kích thích tăng hoặc giảm nhu cầu tiền tệ.
2.1.2.3. Tình hình sử dụng công cụ thị trường mở.
Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000. Cho
đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định, đạt được mục
tiêu đề ra của việc sử dụng một công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách
tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các giao dịch trên thị trường mở đã có tác động
nhất định tới vốn khả năng của các TCTD và đã góp phần thực hiện mục tiêu
của chính sách tiền tệ, thúc đẩy chu chuyển vốn trong nền kinh tế, có tác động
nhất định đến thị trường chứng khoán. Tuy chưa có kinh nghiệm thực tiễn
nhưng các quy định về hoạt động thị trường đã ban hành trong thời gian qua là
phù hợp với các tổ chức tín dụng, với các tổ chức tín dụng, với điều kiện hiện
nay và sát với thông lệ quốc tế. Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở của
NHNN chỉ đạo bài bản và sát sao tới các hoạt động của thị trường.
Từ khi bắt đầu giao dịch đến 31/12/2000, cứ 10 ngày NHNN tiến hành
một phiên giao dịch trên thị trường mở. Trong tháng 8/2000, do khối lượng
vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng là dư thừa nên NHNN bán ra một lượng
tín phiếu là 550 tỷ đồng (khối lượng chào bán trong tháng được mua hế toàn
bộ với mức lãi suất từ 4% đến 5,35%). Từ tháng 9 đến cuối tháng 12/2000, do
có sự hạn chế của NHNN ở cửa sổ chiết khấu (có thể đây là hình thức hỗ trợ
cho sự vận hành nghiệp vụ thị trường mở mới ra đời) và nhu cầu tín dụng
VNĐ tăng nhanh (vay ngoại tệ chịu sự rủi ro lớn vì tỷ giá chịu sức ép tăng
cao) trong khi huy động tiền ngoại tệ chịu sự rủi ro lớn vì tỷ giá chịu sức ép
tăng cao) trong khi huy động tiền gửi tăng chậm (có sự chuyển dịch cơ cấu
huy động giữa nội tệ và ngoại tệ do lãi suất huy động ngoại tệ tăng) dẫn đến
khan hiếm vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, NHNN đã mua vào giấy
tờ có giá trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353,5 tỷ.
Từ 1/1/2001, NHNN thực hiện giao dịch định kỳ 7 ngày/lần.
Từ đầu năm 2001 đến 15/2 lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do
nhu cầu tiền mặt tăng (trong đó có nguyên nhân đây là thời gian cuối năm âm
lịch), NHNN tiếp tục mua vào giấy tờ có giá, chủ yếu là mua kỳ hạn do tính
đến yếu tố lượng vốn khả dụng có thể tăng lên sau dịp tết nguyên đán.
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 25
Từ 21/2 đến 14/3, lượng vốn khả năng có biểu hiện dư thừa; để rút bớt
phương tiện thanh toán khỏi hệ thống ngân hàng, NHNN thực hiện bán hẳn
lượng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỷ VNĐ.
Từ 21/3 đến cuối tháng 4, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, NHNN tổ
chức các phiên giao dịch thị trường mở với mục tiêu cung ứng thêm cho hệ
thống (có phiên giao dịch ngày 11/4 do lỗi từ phía các TCTD bỏ thấy không
hợp lệ, nên không tổ chức nào trúng thầu, mặc dù vẫn có nhu cầu về vốn khả
dụng).
Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở đã bộ lộ một số tồn tại, hạn chế.
Khó khăn nhất về nghiệp vụ thị trường mở, theo ông Nguyễn Đồng Tiến, vụ
trưởng Vụ chính sách tiền tệ, là số lượng thành viên còn rất hạn chế. Số thành
viên tham gia chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Tại các phiên
giao dịch, mới chỉ có 1-3 thành viên tham gia, chiếm 5-15% trong tổng số
thành viên và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các TCTD. Trong số 20 thành
viên đó thì chủ yếu là 4 NHTM quốc doanh và trên thực tế, các NHTM quốc
doanh nắm giữ hơn 70% lượng tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN (hai hàng
hoá chính thức được giao dịch trên thị trường mở hiện nay). Thậm chí các
ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa tham gia,
Mức giao dịch bình quân khoảng 100 tỷ đồng chứng tỏ doanh số mua bán còn
hạn chế.
Về mặt khách quan do hàng hoá của thị trường mở là các loại tín phiếu
ngắn hạn chỉ tập trung một số các NHTM quốc doanh, cho nên chưa thu hút
được nhiều các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Vì vậy,
người ta cho rằng, đây chỉ là thị trường của NHTM quốc doanh.
Các phiên đấu thầu mua vào và bán ra các loại tín phiếu các loại còn
thời hạn ngắn có tính cạnh tranh cao cả trên thị trường sơ cấp và thị trường mở
nên các TCTD tham gia nghiệp vụ thị trường mở nên các TCTD nhỏ không đủ
điều kiện cạnh tranh với các TCTD có quy mô lớn; vì thế thị trường chưa thật
sôi động, nếu không nói là buôn lẻ.
Các thị trường khác của ngành ngân hàng như: thị trường liên ngân
hàng, thị trường mua bán lại tín phiếu giữa các TCTD với khách hàng chưa
phát triển, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt động chưa ổn định và
chưa thu hút được đông đảo các TCTD tham gia, cho nên cũng ảnh hưởng tới
hoạt động thị trường mở.
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 26
Về mặt chủ quan nghiệp vụ thị trường mở còn rất mới ở Việt Nam. Vì
vậy, các TCTD chưa hiểu biết nhiều về thị trường này. Tuy nhiên, công tác
tuyên truyền, hướng dẫn đối với các TCTD để hiểu sâu về thị trường này còn
hạn chế. Hệ thống máy móc thiết bị, thông tin giữa trung tâm giao dịch của thị
trường với một số TCTD còn có một số trục trặc chậm được khắc phục (trong
số 20 thành viên chỉ có 8 thành viên đã nối mạng hoặc có thể truyền file để
tham gia giao dịch. Hơn nữa, trình độ các cán bộ ngân hàng còn hạn chế.
*** Trong điều kiện mở cửa kinh tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại với
những luồn hàng hoá và vốn vào ra một quốc gia có ảnh hưởng to lớn tới các
biến số kinh tế vĩ mô của quốc gia đó. Sự di chuyển của các luồng hàng hoá và
vốn này luôn gắn liền với sự di chuyển của các luồn tiền tệ của các nước khác
nhau. Với ý nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa đồng tiền quốc gia này với đồng tiền
quốc gia khác, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng quan trọng, có thể kìm hãm hoặc
thúc đẩy sự di chuyển của luồng tiền nói trên. ở Việt Nam hiện nay, tỷ giá hối
đoái được sử dụng như là công cụ hỗ trợ cho các công cụ khác của chính sách
tiền tệ.
2.1.2.4. Tình hình sử dụng công cụ tỷ giá.
Trong thời gian qua, NHNN đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế điều
hành tỷ giá phù hợp với yêu cầu của xu thế phát triển của đất nước. Có thể nói
rằng từ năm 1994, cùng với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
NHNN đã bắt đầu thực hiện điều hành tỷ giá cơ chế mới thay thế cho chế độ
đa tỷ giá trước đây. Theo đó, NHNN bắt đầu công bố tỷ giá chính thức giữa
ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ giá mua bán trên thị trường được phép dao
động trong biên độ cho phép. Từ năm 1997, trước những thay đổi trong nước
và quốc tế, việc điều hành tỷ giá đã được chuyển hướng tự nhấn mạnh tính ổn
định sang mục tiêu điều hành linh hoạt trên cơ sở đảm bảo ổn định giá trị
đồng Việt Nam tỷ giá. Trên thực tế, trong các năm 1997 - 1998, việc ngân
hàng chủ động điềun chỉnh biên độ giao dịch và tiếp theo việc NHNN ấn định
tỷ giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua bán trên và tiếp tho việc NHNN ấn
định tỷ giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng khiến cho tỷ giá phù hợp hơn với tương quan cung cầu ngoại tệ trên
thị trường, tăng khả năng điều tiết thị trường của tỷ giá do NHNN công bố.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế khu vực, với việc điều hành tỷ giá như
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 27
trên NHNN đã góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với tốc độ tăng trưởng
kinh tế năm 1998 ở mức 6%, lạm phát được kiềm chế ở mức 9,2%.
Sang năm 1999, NHNN đã thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành
tỷ giá theo các nguyên tắc thị trường bằng việc hàng ngày giao dịch trước đó.
Các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch giữa VNĐ và USD không
vượt tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch giữa VNĐ và USD không
vượt quá 0,1% so với tỷ giá do NHNN công bố. Đến những tháng đầu năm
2001, tỷ giá biến động ổn định, từ tháng 5/2001 đến nay tỷ giá bình quân trên
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 6 tháng đầu năm là 2,2% so với tỷ giá cuối
năm 2000: tỷ giá trên thị trường tự do tăng khoảng 2,8%. Tỷ giá tăng chủ yếu
là do: đồng USD có xu hướng tăng giá trên thị trường thế giới, thâm hụt ngoại
thương tăng, lượng kiều hối giảm so với những tháng đầu năm, tỷ lệ kết hối
giảm từ 50% xuống 40%. Tỷ giá tăng đã có tác dụng khuyến khích xuất khẩu,
góp phần kiểm soát nhập khẩu nhưng cũng gây ra tâm lý bất ổn trong dân
chúng, tình trạng ngăn ngoại tệ gia tăng.
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tỷ giá theo hướng hình thành
mức tỷ giá phản ánh thực hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khuyến khích
xuất khẩu để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, theo dõi sát diễn biết tỷ giá hàng
ngày để có biện pháp can thiệp, giữ cho tỷ giá vận động theo tín hiệu thị
trường nhưng không có biến động lớn, vượt quá tầm kiểm soát trong điều hành
chính sách tiền tệ.
2.2. Đánh giá tồn tại và nguyên nhân của việc sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Nếu như trước đây, NHNN phải dùng mệnh lệnh hành chính để tăng
giảm lãi suất, tăng giảm lượng tiền cung ứng trên thị trường... với việc sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ, NHNN đã dựa vào tín hiệu thị trường điều
hành chính sách tiền tệ. Đây là một bước tiến bước tiến căn bản của NHNN
trong quản lý thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế
thị trường.
Trong thực tế, việc sử dụng các công cụ trực tiếp đã đem lại sự thành
công đáng kể cho chính sách tiền tệ trong thập kỷ 90 khi nhìn vào các chỉ số
phản ánh sự biến động của mục tiêu vĩ mô: lạm phát, sản lượng và công ăn
việc làm. Chính sách tiền tệ đã đạt được hiệu quả tối đa của nó: tỷ lệ lạm phát
dưới một chữ số cùng với tốc độ tăng trưởng bình quân 8,6%/năm trong gần
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 28
10 năm. Điều này dường như trái với kết luận của các nhà kinh tế học hiện đại
khi cho rằng, chính sách tiền tệ chỉ có thể ảnh hưởng đến các yếu tố thực của
nền kinh tế như sản lượng hoặc công ăn việc làm trong thời gian ngắn từ một
đến hai năm. Về mặt dài hạn, các yếu tố này có xu hướng quay về mức tự
nhiên của nó, do đó mọi sự thay đổi của khối lượng tiền cung ứng không gây
nên những ảnh hưởng đến sản lượng và thất nghiệp, ngoại trừ sự biến động về
giá cả. Thực chất hiệu quả bền vững của chính sách tiền tệ trong thời gian qua
không chỉ là kết quả của chính sách tiền tệ, mà chủ yếu là kết quả của việc
Chính phủ Việt Nam đã sử dụng các giải cách mạnh mẽ có khả năng mở rộng
liên tục mức sản lượng tiềm năng, trong đó phải kể đến chính sách kinh tế đa
thành phần, chính sách khoán đến hộ nông thôn dân, chính sách cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước...
Nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn
định giá trị tiền tệ với ý nghiã là ổn định tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thì trong
thời gian qua, mục tiêu này chưa được thực hiện một cách hoàn hảo: tỷ lệ lạm
phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán từ năm này sang năm khác.
Những tác động về hiệu quả và phân phối lại lạm phát do ảnh hưởng đến giá
trị thực của các chỉ tiêu giá trị không nảy sinh từ mức lạm phát cao, mà chủ
yếu từ sự bất ổn định của tỷ lệ lạm phát. Và điều quan trọng hơn là bắt đầu từ
năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục, nhưng giá cả có
xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 19978 và sự giảm giá này
diễn ra hầy hết các tháng trong năm 1999. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng
giảm mạnh từ năm 1998. Điều này chứng tỏ chính sách tiền tệ của ngân hàng
Nhà nước tỏ ra lúng túng và thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng cung
ứng để đảm bảo cho nó phù hợp với nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế.
Lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng này có lẽ là xuất phát từ những hạn
chế vốn của nó các công cụ trực tiếp.
Một là, các công cụ trực tiếp không cho phép NHNN có thể điều chỉnh
linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ thừa. Tình trạng dự trữ không
mong muốn ở các NHTM bắt đầu từ 1994 và kéo dài cho đến nay. Lý do ban
đầu có lẽ bởi việc duy trì lãi suất tiền gửi cao vùng với việc không chế trần tín
dụng trong những năm 1--4 - 1996; bởi dự trữ ngoại tệ tăng lên rất mạnh trong
thời gian này và tỷ lệ tiền gửi có xu hướng giảm xuống (năm 1995 tỷ lệ này là
1,3; năm 1996 là 0,8: năm 1998 là 0,5). Tuy nhiên, lý do chủ yếu của tình
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 29
trạng này từ năm 1997 đến nay lại nằm ở sự giảm sút tổng cầu của nền kinh
tế, phả ánh sự giảm sút nhu cầu tiền tệ, đặc biệt nhu cầu giao dịch. Thực tế
này làm cho các NHTM phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn, đồng thời
làm giảm thiểu tính hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Hai là, công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều
chỉnh lượng tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ.
Điều này được thể hiện rõ rệt trong 2 năm 1998 - 1999 khi trần lãi suất công
cụ chính sách tiền tệ chủ yếu giảm liên tục nhưng giá cả và sản lượng không
những không tăng mà tiếp tục giảm. Đương nhiên, sự giảm sút này xuất phát
chủ yếu từ các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ
yếu tố tiền tệ danh nghĩa. Nhưng chính sách tiền tệ đã không chủ động khi đối
mặt với tình trạng này và do đó làm cho sự tác động của chính sách tiền tệ trở
nên kém hiệu quả.
Ba là, hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi
dụng được các kênh dẫn đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị
trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại
tệ.
Chúng ta cũng đã chỉ ra những hạn chế của công cụ trực tiếp cả trên lý
luận và thực tế áp dụng tại Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng đã chỉ ra lợi
thế của các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là
công cụ thị trường mở trên lý thuyết. Và chính từ thực tiễn ở hầu hết các nước
phát triển đã sử dụng rất có hiệu quả các công cụ này. NHNN bước đầu sử
dụng khá hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ theo xu hướng thay thế
và giảm dần tính trực tiếp cứng nhắc và ít hiệu lực để chuyển sang phát huy
tính gián tiếp, linh hoạt, thích hợp và đồng bộ của một số các công cụ. Hiện
nay, việc đổi mới, chuyển đổi các công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang
gián tiếp của NHNN Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu
hướng chung của các nước trên thế giới. Chuyển sang các công cụ gián tiếp đã
làm cho việc điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, ít gây những hiệu ứng
tiêu cực đối với nền kinh tế, là cơ sở NHNN Việt Nam có thể kiểm soát tiền tệ
và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp thì cần có sự phối hợp
giữa các công cụ chính sách tiền tệ. Hiện nay, NHNN Việt Nam cũng đã điều
chỉnh và bước đầu phối hợp với các công cụ với nhau. Theo báo cáo hoạt động
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 30
của ngân hàng Nhà nước những tháng đầu năm 2001, hiệu quả của các công
cụ điều hành chính sách tiền tệ được đánh giá là: "Phối hợp hài hoà các công
cụ trực tiếp và gián tiếp theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế" và "có tác
dụng tích cực tới thị trường, hạn chế những tác động tiêu cực do ảnh hưởng
của thị trường tài chính quốc tế".
Nhìn vào thực trạng của việc sử dụng các công cụ gián tiếp ở phần trên,
chúng ta thấy vẫn còn nhiều tồn tại. Các công cụ gián tiếp chưa thực sự phát
huy hết hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân nhiều dẫn đến tình trạng này nhưng
có lẽ nguyên nhân chính là do các điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưa
chín muồi:
+ Hệ thống ngân hàng hoạt động chưa lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh.
+ Thị trường tiền tệ thứ cấp chưa tích cực và chưa được điều tiết có hiệu quả.
Các công cụ của chính sách tiền tệ là cánh tay phải đặc lực để NHNN
đạt được các mục tiêu của mình. Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần
nhanh chóng tìn một số giải pháp để các công cụ điều hành chính sách tiền tệ
của NHNN phát huy hiệu quả.
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 31
Chương 3
Định hướng và các giải pháp để nâng cao hiệu quả
sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
3.1. Mục tiêu chiến lược.
Mục tiêu chiến lược TC- TT 2001 - 2010 đã xác định: xây dựng nền tài
chính quốc gia có tiềm lực đủ mạnh, đảm bảo chiến lược tăng trưởng kinh tế
nhanh, công bằng, phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, hệ
thống cơ sở động viên, phân phối tài chính công bằng ổn định, tích cực, năng
động phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, đủ sức phát
triển nội lực, chủ động hội nhập, thu hút ngoại lực, quản lý và sử dụng có hiệu
quả toàn bộ nguồn lực tài chính của đất nước, xây dựng nền tài chính quốc gia
lành mạnh, công khai, minh bạch, đầy đủ, được kiểm toán, kiểm kê kiểm soát,
làm cho tài chính trở thành thước đo hiệu quả quá trình hoạt động kinh tế của
các chủ thể trong xã hội, năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và tài chính
được tăng cường, đổi mới và cải cách mạnh thủ tục hành chính, từng bước
hiện đại hoá công nghệ quản lý tài chính, đội ngũ cán bộ tài chính thực sự là
những cán bộ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; củng cố và nâng cao vị trí
tài chính Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cơ bản đó chiến lược tài chính tiền
tệ cũng đã xác lập hệ thống 7 quan điểm sau đây:
Một là: Phải thực sự coi hệ thống tài chính là mạch máu của nền kinh tế
quốc dân, CSTT là công cụ sắc bén của Nhà nước để quản lý và điều chỉnh
kinh tế vĩ mô; đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính tiền tệ là
một nội dung trọng yếu trong khâu đột phá về xây dựng thể chế kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Tài chính tiền tệ phải tạo ra môi trường và thị trường ổn định,
thuận lợi, hấp dẫn đầu tư, giải phóng sức sản xuất và khuyến khích thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Ba là: Coi trọng việc khai thác và phát triển các nguồn lực, đặc biệt các
nguồn lực tài chính trung và dài hạn trong các thành phần kinh tế, các tầng lớp
dân cư trong nước, tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả, hợp lý các
nguồn lực tài chính nước ngoài cho đầu tư phát triển, thực hiện thắng lợi các
mục tiêu kinh tế - xã hội trong mười năm tới.
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 32
Bốn là: Thực hiện nguyên tắc công bằng hiệu quả trong chính sách
phân phối, phân phối lại tổng sản phẩm trong nước, góp phần duy trì các cân
đối lớn trong nền kinh tế, nhất là cân đối giữa tích luỹ với tiêu dùng, giữa tích
tụ với tập trung, nâng cao tỷ lệ tiết kiệm dành cho đầu tư, giải quyết căn bản
lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động, lợi ích giữa
Nhà nước doanh nghiệp và xã hội.
Năm là: Xây dựng và điều hành chính sách tài chính tiền tệ nhất quán,
tôn trọng các quan hệ và quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường
nhằm tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Sáu là: Thực hiện hộp nhập và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về tài
chính tiền tệ theo hướng chủ động, có bước đi thích hợp, an toàn, giữ vững độc
lập chủ quyền quốc gia trong hộp nhập và phát triển kinh tế.
Bảy là: Tăng cường quản lý tài chính tiền tệ quốc gia bằng pháp luật,
nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính đối với các hoạt động kinh
tế.
Dựa trên hệ thống các mục tiêu quan điểm chiến lược tài cính tiền tệ đã
đề cập đến lĩnh vực cần tập trung đổi mới bao gồm tăng cường động viên khai
thác nguồn nhân lực tài chính, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực tài chính; đổi mới và phát triển tài chính doanh nghiệp; cơ cấu lại và nâng
cao năng lực điều hành CSTT tín dụng ngân hàng; phát triển thị trường tài
chính và dịch vụ tài chính; mở rộng và chủ động hội nhập tài chính tiền tệ
quốc tế đổi mới kế toán và tăng cường giám sát tài chính tiền tệ.
(Trích bài phát biểu của tiến sĩ Nguyễn Sinh Hùng - Bộ trưởng bộ tài
chính tại hội thảo khoa học "Vai trò và nhiệm vụ của công tác đào tạo cán bộ
tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010").
3.2. Định hướng.
- NHNN Việt Nam cần xác định rõ và lựa chọn mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ để có các quyết định chính xác điều hành các công cụ một
cách có hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu mình đề ra.
- Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ. Trong thời gian tới, cần
phối hợp hài hoà các công cụ trực tiếp và gián tiếp, phát huy hơn nữa hiệu quả
của việc sử dụng các công cụ gián tiếp đặc biệt là công cụ nghiệp vụ thị
trường mở.
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 33
3.3. Các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ.
3.3.1. Xác định rõ mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Cần dựa trên tình hình thực tế của nền kinh tế và khả năng phát triển
trong tương lai để đề ra các mục tiêu phấn đấu. Phải có kế hoạch trước, dự
đoán tình hình phát triển kinh tế trong tương lai để có định hướng về các biện
pháp điều hành. Từ đó, NHNN hướng các công cụ của mình vào thực hiện
mục tiêu này. Nghĩa là các công cụ của chính sách tiền tệ cần phải hoạt động
có hướng đích. Trên cơ sở dự đoán tình hình phát triển trong tương lai, NHNN
quyết định đưa ra công cụ nào, mức độ tác động như thế nào cho phù hợp với
tình hình nhằm đạt được mục tiêu của mình. Việc dự đoán tình hình chính xác
là cơ sở để sử dụng có hiệu quả các công cụ. Muốn vậy thì cần đổi mới hơn
nữa công tác kế hoạch hoá, kết hợp chặt chẽ kế hoạch với thị trường; nâng
cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; tăng cường thông tin kinh tế, xã hội trong nước và quốc
tế...; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong dự báo,
kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
Việc điều hành chính sách tiền tệ phải luôn được đặt trong mối quan hệ
khăng khít với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính
sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu...) ngay từ giai đoạn hoạch định đến
quá trình thực thi. Nhờ vậy đảm bảo hỗ trợ tốt thực hiện các mục tiêu kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực, gây trở ngại
và hạn chế hiệu năng của chính sách tiền tệ.
3.3.2. Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
hiện nay.
3.3.2.1. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ lãi suất.
Cần theo dõi, bám sát diễn biến thị trường để có sự điều chỉnh lãi suất
cơ bản và biên độ phù hợp làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín
hiệu để điều tiết lãi suất thị trường; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bỏ biên
độ của lãi suất cơ bản. Vì vậy, việc hoàn thiện điều hành lãi suất trong giai
đoạn tới chủ yếu là nhằm vào sự hoàn thiện nguyên tắc xác định lãi suất cơ
bản. Như chúng ta đã biết, lãi suất phải vừa đáp ứng lợi ích của người đi vay
và người cho vay; đối với người cho vay thì lãi suất phải bao gồm lạm phát dự
kiến, rủi ro và mức lợi nhuận mong đợi; còn người đi vay thì mức lãi suất phải
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 34
nhỏ hơn mức lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, về
phía ngân hàng cần xác định chính xác mức lạm phát dự kiến, rủi ro và lợi
nhuận mong đợi. Theo như hiện nay, NHNN xác định lãi suất cơ bản chỉ dựa
trên một số NHTM là rất phiến diện, chưa phản ánh hết cung cầu tín dụng
thực của thị trường; trong khi đó, thành phố Hồ Chí Minh hiện đã có gần 100
tổ chức tín dụng hoạt động trong lĩnh vực tài chính.
3.3.2.2. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ dự trữ bắt buộc.
Khi các công cụ lãi suất và thị trường mở còn đang trong quá trình hoàn
thiện, dự trữ bắt buộc vẫn là một trong những công cụ quan trọng để ngân
hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ. Để nâng cao hiệu quả điều tiết
tiền tệ của công cụ này. NHNN cần có các giải pháp hoàn thiện công cụ theo
hướng mở rộng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN và khuyến khích các tổ
chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới dự
trữ cần phải hoàn thiện theo các hướng sau:
- Cơ chế dự trữ bắt buộc phải đảm bảo tính ổn định. Vì liên quan đến
vốn khả dụng, nếu thay đổi thường xuyên các mức bắt buộc và những luật lệ
quy định về nó sẽ khiến cho các tổ chức tín dụng phải thường xuyên thay đổi
danh mục phân bổ vốn của mình. Do đó, những kết hoạch cho vay vốn dài hạn
sẽ gặp phải rủi ro. Vì thế, cần quan niệm, thay đổi trong dự trữ bắt buộc như là
dấu hiệu thông báo cho một sự bắt đầu thay đổi cơ bản trong chính sách tiền
tệ, tức là những thay đổi tiếp theo về chính sách lãi suất và nghiệp vụ thị
trường mở để giúp các TCTD chủ động điều chỉnh hoạt động kinh doanh cho
phù hợp.
- Dự trữ bắt buộc phải đảm bảo tính công bằng để nâng cao hiệu quả
trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Vì là công cụ của chính sách tiền tệ
với chức năng cơ bản là kiểm soát tiền tệ, do vậy mọi tổ chức tín dụng có
chức năng đều là đối tượng thống nhất mà ngân hàng Nhà nước sử dụng công
cụ dự trữ bắt buộc để điều chỉnh hệ thống tạo tiền. Không nhất thiết phải có sự
phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín dụng.
- Dự trữ bắt buộc cần kiểm soát có chọn lọc khả năng tạo tiền của các
TCTD. Khi áp dụng dự trữ bắt buộc cần tính đến mức độ rủi ro về khả năng
thanh toán do sự tạo tiền của từng loại tiền gửi mà các tổ chức tín dungj huy
động được. Đối với loại tiền gửi không kỳ hạn đây là loại tiền gửi phát hành
séc có tính lỏng cao nên có thường xuyên biến động. Vì thế, việc áp dụng dự
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 35
trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kỳ hạn là rất cần thiết. Để tăng cường
kiểm soát có hiệu quả khả năng tạo tiền đối với loại tiền gửi này, NHNN có
thể quy định mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc luỹ tiến từng phần theo quy mô tăng
lên của số tiền gửi không kỳ hạn mà các TCTD này huy động được. Có thể
chia số tiền gửi không kỳ hạn làm 3 bậc: bậc 1 có quy mô đến băng 50% số
vốn pháp định của các tổ chức tín dụng; bậc 2 từ 50% đến 100% số pháp định
và bậc 3 từ 100% vốn pháp định vốn pháp định trở lên. Tương ứng với mỗi bậc
là có tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức thấp, trung bình và cao (so sánh giữa vốn
pháp định và số tiền gửi không kỳ hạn huy động) thì các TCTD có khả năng
tạo tiền càng lớn và ngược lại.
Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn nói chung thì nên áp dụng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc hợp lý vì những lý do sau:
+ Tiền gửi có kỳ hạn phần lớn là loại tiền gửi tiết kiện và hiện đang
được Nhà nước triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi bắt buộc, tức là đã tạo
ra vẫn an toàn, đảm bảo khả năng thanh toán cho các NHTM.
+ Đây là những loại tiền gửi có tính lỏng thấp và việc chuyển đổi nó
thành loại tiền có tính lỏng cao đều được xác định thời gian. Do đó, các TCTD
vẫn có thể chủ động nguồn vốn từ thị trường để bảo đảm khả năng chi trả. Mặt
khác, để khắc phục những rủi ro có tính đột biến do sự thay đổi tiền gửi có
tính lỏng thấp thành tiền có cao trước thời hạn, gây bất lợi cho các tổ chức tín
dụng, nên cho phép các loại chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm được phép chuyển
nhượng trên thị trường.
+ Khắc phục phần nào nhược điểm của công cụ này gây ra cho các
TCTD là tăng phương pháp, giảm lợi nhuận và sức cạnh tranh.
Ngoài ra, việc thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc có hiệu quả theo mục
tiêu đề ra cần phải có sự kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ việc chấp hành dự
trữ bắt buộc và xử phạt nghiêm khắc những vi phạm.
Bên cạnh đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được điều chỉnh hoạt, phối hợp
đồng bộ với việc điều chỉnh đối với các công cụ khác như tái cấp vốn, nghiệp
vụ thị trường mở...
3.3.2.3. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ tái cấp vốn.
Công cụ tái cấp vốn cần được hoàn thiện theo hướng thực hiện vai trò là
công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của NHNN, NHNN cung ứng phương tiện
thanh toán cho các NHTM và thực hiện vai trò "người cho vay cuối cùng".
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 36
Quy chế tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ từng hình thức
tái cấp vốn (tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ từng hình
thức tái cấp vốn, vì các tổ chức khác có quá nhiều nguồn vốn bổ sung với quy
mô nhiều loại và lãi suất thấp, khác nhau trên thị trường.
Công cụ tái cấp vốn chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được phối hợp
với lãi suất. Nếu NHNN muốn các TCTD ra sức khai thác nguồn vốn trong
nhân dân thì quy định mức tái cấp vốn càng cao, ngược lại việc quy định một
mức lãi suất tái cấp vốn thấp chỉ khuyến khích các TCTD vay của NHNN.
Trong thời gian tới, khi mà thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định thì đòi
hỏi phải thận trọng hơn nữa trong việc quy định mức lãi suất tái cấp vốn như
thế nào là hợp lý. Bởi vì một mức tái cấp thấp sẽ khuyến khích các TCTD vay
của NHNN sau đó mua lại các giấy tờ có giá. Trường hợp này chẳng khác nào
NHNN dùng chính tiền của mình để mua các giấy tờ có giá, kết quả là nghiệp
vụ thị trường mở không có tác dụng. Như vậy, mức lãi suất tái cấp vốn hợp lý
phải là mức xấp xỉ với lãi suất các giấy tờ có giá ngắn hạn hay lãi suâtài sản
tiền gửi ngắn hạn.
3.3.2.4. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Công cụ nghiệp vụ thị trường là một công cụ mà trong thời gian tới
chúng ta cần quan tâm đặc biệt, cần tiếp tục một số giải pháp hoàn thiện
nghiệp vụ thị trường mở để từng bước đưa nghiệp vụ thị trường mở trở thành
công cụ chủ yếu linh hoạt, hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Song để
nghiệp vụ này thực sự có hiệu quả thì còn rất nhiều vấn đề to lớn đặt ra cũng
như phải có thời gian kiểm nghiệm. Thử thách đối với nghiệp vụ mới mẻ này
là rất nặng nền mà chỉ có sự quyết tâm đồng bộ kiên quyết của NHNN và các
tổ chức tín dụng mới có thể giải quyết được.
- Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ này thì trước hết cần phải rà
soát lại các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường
mở để kịp thời điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện thu hút thành viên tham
gia thị trường. Nhà nước cần sớm ban hành khung luật pháp về việc phát hành
và lưu thông các chứng từ có giá trị việc điều hành khung luật pháp về việc
phát hành và lưu thông các chứng từ có giá để việc điều hành mua bán các
giấy tờ có giá của NHTW được sử dụng một cách nhạy bén và để tạo điều
kiện cho vấn đề chuyển nhượng, mua bán các chứng từ có giá, hình thành các
giao dịch trên thị trường.
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 37
- Giá của các giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên nghiệp vụ thị
trường mở là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị
trường nói chung; vì vậy, lãi suất là mục tiêu mà NHNN cần quan tâm khi
quyết định phương thức đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở. Đấu thầu lãi suất
hay đấu thầy khối lượng là tuỳ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Muốn căn thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, khi đó
lãi suất cố định do NHNN chỉ đạo, còn khi mục tiêu của chính sách tiền tệ
nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền ra theo một lượng mong muốn thì thực
hiện đấu thầu lãi suất, khi đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu thị trường,
còn lãi suất trung thầu được xác định tại điểm đạt được khối lượng trên cần
bơm vào hoặc rút bớt khỏi lưu thông. Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu lãi suất
là cơ sở để tính giá các giấy tờ có giá. Đối với thị trường mở ở nước ta hiện
nay, Bộ tài chính nên hạn chế dần việc phát hành trái phiếu bán lẻ ra công
chúng, mà tập trung phát hành qua hình thức đấu thầu, trong đó có đấu thầu
qua NHNN để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng nắm giữ thêm nhiều
lượng hàng hoá có thể giao dịch trên thị trường mở. Bộ tài chính nên bỏ việc
khống chế lãi suất đấu thầu dưới hình thức lãi suất chỉ đạo mà để thị trường
quyết định.
Nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng thời gian
giao dịch và phương thức giao dịch tuỳ ý phù hợp với yêu cầu của chính sách
tiền tệ. Khi dự báo dự trữ không thay đổi, biểu hiện có sự trì trệ trong lưu
thông tiền tệ thì phương thức giao dịch sẽ là mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá
nhằm tạo một sự chuyển động tiền tệ ban đầu cần thiết. Ngoài nghiệp vụ mua
hoặc bán hẳn dễ dàng cho phép sửa sai bằng cách đảo ngược giao dịch, nếu
phiên giao dịch trước mua quá nhiều thì phiên kế tiếp có thể thực hiện giao
dịch bán để giải quyết số chênh lệch đó hoặc ngược lại. Nếu dự báo cho thấy
dự trữ thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân như: thời vụ, thiên tai, hoặc
do dự đoán tình hình khó khăn chính xác... Để hạn chế sai sót trong việc cung
ứng tiền, phương thức giao dịch được áp dụng trên thị trường mở là phương
thức mua bán có kỳ hạn nhằm làm tăng tạm thời hay giảm tạm thời một lượng
tiền nhất định trong thời gian giao dịch mua bán.
- Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường.
Xuất phát từ chỗ hàng hoá của thị trường mở là các giấy tờ có giá ngứan
hạn có độ thanh khoản cao, bảo đảm quản lý dễ dàng, đồng thời đáp ứng yêu
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 38
cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác đạt được ý mong muốn.
Do đó, trong thời gian tới cần bổ sung vào cơ cấu hàng hoá này các trái phiếu
kho bạc Nhà nước, trái phiếu chính phủ, trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng, trái
phiếu doanh nghiệp... Tuy nhiên, về lâu dài khi điều kiện pháp lý cho phép,
phạm vi giấy tờ có giá sẽ được mở rộng không chỉ gồm các loại ngắn hạn mà
cả các loại trung, dài hạn có thể xem xét làm công cụ giao dịch miễn là chúng
có độ thanh khoản cao. ở đây, thời hạn của giấy tờ có giá không mâu thuẫn
với yêu cầu nhanh nhạy của chính sách tiền tệ, vì đã có phương thức giao dịch
mua lại trên nghiệp vụ thị trường mở.
- Hiện đại hoá hệ thống thanh toán.
Để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần trang bị hệ thống
thanh toán và quản lý hiện đại, có phần mềm hiện đại kết nối giữa nội bộ
trong NHNN và giữa NHNN với các tổ chức tín dụng thành viên, đăng ký giữ
điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu, tạo lập và ký hợp
đồng mua lại đến khâu thanh toán chuyển khoản và thông báo cáo...
Như vậy, chất lượng công tác dự báo, điều hành thị trường cần từng
bước hoàn thiện trên cơ sở nâng cao trình độ cán bộ dự báo, cải tiến chế độ
cung cấp thông tin trong và ngoài ngành với sự phối hợp chặt chẽ của các đơn
vị NHNN, các TCTD, các Bộ ngành liên quan (bộ tài chính, Kho bạc Nhà
nước).
3.3.2.5. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ tỷ giá.
Trong thời gian tới, khi mà lãi suất chưa được tự do hoá vẫn còn sự can
thiệp của Nhà nước, dự trữ ngoại tệ còn quá ít, kinh tế tăng trưởng nhưng chưă
thật sự vững chắc, thị trường tiền tệ chưa phát triển thì việc duy trì cơ chế tỷ
giá công bố và biên độ giao dịch như hiện nay vẫn là cần thiết.
Bên cạnh đó cần theo dõi sát các diễn biến trên thị trường tiền tệ để có
biện pháp xử lý kịp thời phù hợp với biến động trên thị trường ngoại hối nhằm
hoàn thành tỷ giá hợp lý, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng
giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ cho Nhà nước. Điều
chỉnh để tỷ giá ngoại tệ sát với thị trường ổn định tỷ giá ở mức phù hợp với thị
trường, có sự dao động tăng giảm để xoá đi tình trạng ngăn giữ ngoại tệ đang
diễn ra hiện nay.
Về lâu dài, trước xu hướng hội nhập quốc tế, việc điều hành tỷ giá cần
được điều hành một cách chủ động linh hoạt, thích ứng với diễn biến vĩ mô
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 39
của nền kinh tế trong nước, tình hình tài chính - tiền tệ và thương mại của khu
vực và quốc tế. Thay cho việc gắn đồng Việt Nam với đồng USD, tỷ giá chính
thức nên được gắn với tiền tệ (gồm USD và các đồng tiền của các bạn hàng
lớn như Nhật, khối EU và của các nước trong khu vực). Hơn nữa, ngân hàng
Nhà nước cần có các biện pháp tiếp tục phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng để tỷ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định.
3.4. Những điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ
3.4.1. Cần phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.
Trước hết cần xây dựng một NHTW có tầm cỡ, nâng cao tính chủ động,
linh hoạt của nó trong điều hành chính sách tiền tệ. Cần hạn chế sự can thiệp
quá sâu đối với ngân hàng Nhà nước của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động
và thực hiện chính sách tiền tệ. NHNN cần được chủ động và chịu trách nhiệm
trước quốc hội, chính phủ về thực hiện chính sách tiền tệ. Các cơ quan tổ chức
không can thiệp quá sâu vào hoạt động NHNN; đặc biệt giải quyết tốt quan hệ
giữa cấp uỷ Đảng và Chính quyền địa phương đối với các chi nhánh ngân
hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, đảm bảo thực thi chính sách tiền tệ thống nhất
quốc gia. Hạn chế nhiệm vụ của NHNN với vai trò một bộ phận trong chính
phủ và một bộ chủ quản để NHNN tập trung thực hiện vai trò NHTW của đất
nước. NHTW cần đóng được vai trò là người can thiệp cuối cùng, không ôm
đồm những công việc ngoài chức năng của NHTW. Cần phải kiện toàn hệ
thống thanh tra của NHTW có cơ chế tổ chức và chỉ đạo theo chiều dọc thống
nhất. Lập tiêu chí thanh tra giám sát đóng vai trò của NHTW với mục tiêu giữ
vững an toàn hệ thống ngân hàng. Việc xử lý cho phá sản một vài NHTM yếu
kém cũng chính là để giữ vững an toàn chung. Tổ chức thi tuyển, lựa chọn cán
bộ thanh tra phải chặt chẽ về trình độ và phẩm chất. Tăng quyền lực cho thanh
tra tương xứng với nhiệm vụ được giao.
Khẩn trương chấn chỉnh hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng và
đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng. Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân
hàng cần tiếp tục được hoàn thiện theo xu hướng phù hợp với thông lệ quốc tế,
xác lập quan hệ bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại với doanh nghiệp
và đối tượng khách hàng khác. Nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các
NHTM. Các NHTM chủ động cạnh tranh với nhau tìm kiếm khách hàng có tín
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 40
nhiệm, tìm kiếm dự án có hiệu quả để đầu tư, cho vay; tham gia cho vay vốn
các dự án kích cầu, xây dựng cơ sở hạ tầng của các tỉnh thành phố.
Phải thực hiện một chiến lược ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành ngân hàng để tạo cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Thông tin phải trở
thành công cụ không thể thiếu của NHNN nhằm đưa hoạt động dự báo, ra
quyết định, điều hành vĩ mô đủ năng lực tiếp cận sâu với thị trường, phát hiện
và xử lý kịp thời đảm bảo điều hành linh hoạt các công cụ của chính sách tiền
tệ và phục vụ đắc lực cho hoạt động giám sát bảo vệ tính ổn định của hệ thống
ngân hàng.
3.4.2. Phát triển thị trường tài chính.
ở nước ta hiện nay thị trường tài chính đã thiết lập và đi vào hoạt động
nhưng rất buồn tẻ, chưa thực sự phát huy hết chức năng và vai trò của nó.
Trong thời gian tới, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng nên là một mối quan
tâm đặc biệt của NHNN. Thị trường liên ngân hàng chính là nơi xác định nhu
cầu và khả năng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại, nơi mà ngân
NHTW nắm bắt được một cách nhanh nhạy nhu cầu vốn của nền kinh tế qua
hoạt động của NHTM để quyết định sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ
thích hợp.
Để phát triển thị trường tài chính tôi xin đưa ra một số kiến nghị:
- Phải đa dạng hoá các công cụ như: Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp,
tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ đầu tư... Cần mở rộng hơn nữa
phạm vi và quy mô giao dịch của thị trường tài chính.
- Cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và quy chế cần thiết làm
cơ sở hoạt động và kiểm soát thị trường tài chính, đồng thời cần có tổ chức
quản lý Nhà nước để điều khiển giám sát sự hoạt động của thị trường theo quy
định của pháp luật.
- Phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và có hệ thống thông tin kinh
tế phục vụ cho hoạt động của thị trường.
- Phải bồi dưỡng cho các nhà kinh doanh, các nhà quản lý các kiến thức
của thị trường tài chính để họ nắm vững về nghiệp vụ kỹ thuật hoạt động của
thị trường. Ngoài ra cần phải thu hút đông đảo các nhà đầu tư có kiến thức,
dám đương đầu với rủi ro, mạo hiểm.
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 41
Lời kết
Dựa vào những vấn đề đã trình bày, có thể thấy rằng trên bình diện rộng
của nền kinh tế Việt Nam, hoạt động ngân hàng và CSTT nước ta chưa đạt
được độ hoàn thiện và tương xứng với những yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường CSTT ngày càng có vai trò
quan trọng hơn trong việc điều tiết nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu ổn định hệ
thống tiền tệ kiềm chế lạm phát, tạo môi trường kinh tế ổn định và phát triển
bền vững, lành mạnh. Trong bối cảnh đó bên cạnh việc nâng cao trách nhiệm
và tính độc lập của NHNN Việt Nam, hạn chế những biện pháp tình thế, CSTT
phải có những thay đổi thích hợp. NHNN sẽ tiếp tục thực hiện việc chuyển đổi
điều hành CSTT từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ
gián tiếp một cách năng động và linh hoạt hơn, có sự phối hợp điều hành đồng
bộ giữa các công cụ trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường. Ngoài ra cũng cần
có sự phối hợp giữa CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác một cách phù
hợp để xây dựng một nền tài chính quốc gia có tiềm lặc đủ mạnh phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, với kiến thức còn hạn chế nên nội dung của bài viết không
tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong được sự giúp đỡ, góp ý kiến của
các bạn và của các thầy cô giáo để bổ sung, trau dồi thêm kiến thức.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 42
Tài liệu tham khảo
1. Lý thuyết tiền tệ (ĐHTC - KT Hà Nội) - NXB Tài chính 1998.
2. Tiền Tệ - Ngân hàng - thị trường tài chính (Frederic. S.Mishkin).
3. Tiền tệ và ngân hàng - Hoàng Kim.
4. Tiếp cận các học thuyết và chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị
trường - Trương Xuân Lệ.
5. Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng và
những văn bản hướng dẫn thi hành.
6. Ngân hàng với nền kinh tế tri thức - Viện nghiên cứu khoa học Ngân
hàng. NXB Thống kê 2001.
7. Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam.
8. Tạp chí ngân hàng; Tạp chí tài chính; Tạp chí thị trường tài chính
tiền tệ 2002.
9. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Tiểu luận lý thuyết tiền tệ
SV: Đoàn Anh Tuấn 43
Mục lục
Lời nói đầu .................................................................................................... 1
Chương 1: Lý luận chung về các công cụ của chính sách tiền tệ ............... 3
1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. ..................................................... 3
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế..................................................................... 3
1.1.2. Kiểm soát lạm phát. .................................................................... 4
1.1.3. Tạo việc làm. .............................................................................. 4
1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. ................................................. 5
1.2.1. Các công cụ trực tiếp. ................................................................. 5
1.2.2. Các công cụ gián tiếp. ................................................................. 8
2.2.1. Dự trữ bắt buộc. .......................................................................... 9
Chương 2: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong
điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.............................. 13
2.1. Tình hình sử dụng các công cụ của chính sá ch tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. .. 13
2.1.1. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ trực tiếp. ................... 13
2.1.2. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ gián tiếp ở Việt Nam. ........ 19
2.2. Đánh giá tồn tại và nguyên nhân của việc sử dụng các công cụ của
chính sách tiền tệ ở Việt Nam. ...................................................................... 26
Chương 3: Định hướng và các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ .................................................................... 30
3.1. Mục tiêu chiến lược. ................................................................... 30
3.2. Định hướng. ................................................................................. 31
3.3. Các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ. .................................................................................. 32
3.3.1. Xác định rõ mục tiêu của chính sách tiền tệ. ............................. 32
3.3.2. Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. . 32
3.4. Những điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng các công
cụ của chính sách tiền tệ ............................................................................... 38
3.4.1. Cần phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. ................................... 38
3.4.2. Phát triển thị trường tài chính. ................................................... 39
Lời kết ......................................................................................................... 40
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... 41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_dung_cac_cong_cu_dieu_hanh_chinh_sach_tien_te_trong_dieu_l9ltm7zxi1_20130703033742_11208_177.pdf