Tiểu luận - Nguyên nhân, diễn biến khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế 2008

Từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, lịch sử loài nguời dần buớc sang một trang sử mới. Mọi mặt trong đời sống xã hội đã có một sự thay đổi rõ rệt. Năng suất lao động ngày càng đuợc nâng cao, kéo theo sự phát triển chung của cả cộng đồng. Từ nền kinh tế nhỏ tự cung tự cấp, nhưng giờ đây đã hình thành nền kinh tế thị truờng với sự hợp tác rất sâu rộng của tất cả các chủ thể kinh tế trong và ngoài nuớc. Dần dần hình thành xu huớng toàn cầu hóa và hợp tác hóa. Vì vậy, các hoạt động kinh tế, tài chính ngân hàng, chứng khoán giờ đây là sân chơi chung cho toàn cầu. Nhờ có sự cách mạng trong thông tin liên lạc mà khoảng cách địa lý dần dần đuợc xóa bỏ. Các trung tâm tài chính lớn rãi đều khắp năm châu, tạo thành một thị truờng

doc41 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3833 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận - Nguyên nhân, diễn biến khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8: Trên đây là toàn bộ những diễn biến chính của cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ- nay đã lan ra thành cuộc khủng hoảng toàn cầu. Thất thần, lo âu, sợ hãi, không biết những gì sẽ xảy ra với mình và với những người xung quanh mình…đó là tâm trạng chung của tất cả mọi người khi chứng kiến cơn bão tài chính này, nhưng đau đớn hơn hết là những nạn nhân trực tiếp của nó- giới tài chính. Ai cũng phải hỏi rằng, tại sao mọi thứ lại diễn ra quá tồi tệ như vậy, có phải vì lòng tham của con người, nhưng lòng tham đó có là gì đâu khi không có những điều kiện thuận lợi- một “mảnh đất màu mỡ” cho nó phát triển? Quay trở lại những năm trước khủng hoảng, bong bóng nhà ở đã dần được hình thành khi mà Fed cho cắt giảm lãi suất để kích thích nền kinh tế sau khủng hoảng Dot.com và sự kiện khủng bố 11/09/2001. Mức lãi suất quỹ liên bang giảm từ 6,5% xuống còn 1% (07/2003) và lãi suất này được duy trì trong một thời gian tương đối dài. Lãi suất thấp khuyến khích một dòng vốn lớn đổ vào thị trường bất động sản. Vì lãi suất thấp nên dễ vay mượn, dẫn đến tình trạng người dân đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà lên cao. Thị trường bất động sản bùng nổ, dẫn đến hiện tượng đầu cơ với suy nghĩ giá nhà sẽ tiếp tục tăng cao và tăng hơn nữa trong tương lai, và giá trị gia tăng của nhà cửa có thể cao hơn cả lãi suất vay tiền. Thị trường cho vay thế chấp mua nhà nhanh chóng trở thành “miền đất hứa” với những nguồn lợi nhuận kếch sù cho các ngân hàng và nhà đầu tư. Nắm bắt được xu thế đó, những công ty tài chính như Fannie Mae và Freddie Mac- dưới sự bảo trợ của Chính phủ- đã đứng ra bảo lãnh các khoản cho vay cầm cố dành cho những người có thu nhập trung bình và thấp, những người nhập cư, da màu,…- những người mà trước đó không có khả năng mua nhà (cho vay dưới chuẩn). Đồng thời những công ty này cũng sẵn sàng bỏ tiền để mua lại các món cho vay cầm cố ở các ngân hàng thương mại. Bằng cách này, các ngân hàng như được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục mở rộng cho vay cầm cố. Đặc biệt, trong những năm gần đây, hệ thống tài chính thế giới chủ yếu là Mĩ) đã phát minh ra một loại dịch vụ tài chính mới, gọi là chứng khoán hóa các món cho vay có nguồn gốc cầm cố. Các công ty tài chính và các ngân hàng gom các khoản cho vay cầm cố lại thành những món lớn. Sau đó phát hành chứng khoán dựa trên cơ sở giá trị của món vay đó (CDO). Các công ty tài chính và các ngân hàng thu được tiền mặt và tiếp tục mở rộng các khoản cho vay cầm cố dưới sự bảo lãnh của Fannie Mae và Freddie Mac. Như vậy, một dòng tiền lớn được huy động không phải chỉ từ nước Mĩ mà trên khắp thế giới đổ vào thị trường bất động sản Mĩ vì các chứng khoán hóa các khoản cho vay cầm cố này được bán ra trên khắp thế giới. Tình trạng này đẩy đầu cơ lên đỉnh điểm trên thị trường nhà đất Mĩ. Thêm vào đó, do lo lắng về diễn biến lạm phát, Fed bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến việc thị trường bất động sản bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006.  Trong khi vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của Fed chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đó tăng lên đến 5,25%, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao hơn nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đó khiến cường độ vay để mua nhà giảm lại. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vỡ cung vượt cầu. Giá trị thị trường của căn nhà mà họ mua trước đây dường như đã thấp hơn so với giá trị khoản vay. Rồi những người đã vay tiền để mua nhà thì cũng không thể có khả năng chi trả nữa vì khoản vay đó là quá lớn so với giá trị căn nhà, có nghĩa là họ có bán nhà thì cũng không thể trả hết nợ. Điều đó dẫn đến tình trạng bán tháo tất cả, và cả tình trạng bị xiết nợ và phát mại tài sản vì không trả được nợ. Tình hình trên ngay lập tức làm cho tất cả những chứng khoán có nguồn gốc cầm cố không bán được, dẫn đến sự xuống dốc của thị trường vốn. Do không bán được các chứng khoán loại này và giá trị của chứng khoán đó bị sụt giảm mạnh nên các ngân hàng thương mại trở nên khan hiếm tiền mặt để tiếp tục cho vay vào nền kinh tế, dẫn đến tình trạng đóng băng trên thị trường tín dụng. Các ngân hàng ngại không cho nhau vay và cũng không muốn cho các công ty và người tiêu dùng vay, trong khi chi tiêu của người Mĩ là một yếu tố quan trọng, chiếm tỉ trọng 2/3 trong tăng trưởng GDP của Mĩ. Tình trạng kiệt quệ tiếp tục lan sang các công ty bảo hiểm đã mạo hiểm tham gia vào việc bảo hiểm những sản phẩm tổng hợp và kết cấu. Vấn đề nghiêm trọng đã hiện ra trên thị trường hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS). Các công ty bảo hiểm như AIG cũng đứng trên bờ vực phá sản do đã nhúng tay vào quá trình bảo hiểm các chứng khoán có liên quan đến các khoản vay dưới chuẩn. Mặc cho các ngân hàng trung ương và chính phủ đã có những biện pháp cứu trợ tạm thời nhưng vẫn không thể ngăn chặn hết được những gì sắp xảy ra, và tất cả đều vỡ tan… Đó là cách mà cuộc khủng hoảng đã hình thành. Góp vào đó là những nhân tố mà chúng đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của cuộc khủng hoảng này. A/ Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng 2.1. Nợ dưới chuẩn: Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay cho các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà, thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng... Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là dân nhập cư vào Mỹ. Nó cũng được gọi là tính dụng thứ cấp, hay tín dụng “hạng B”, để phân biệt với tín dụng “hạng A” (hay tín dụng ưu tiên, tín dụng hạng nhất) dành cho những người vay có độ tín nhiệm cao. Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây. Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin Dotcom từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài. Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, chính là nguyên nhân tạo nên cuộc khủng hoảng tín dụng 2007. 2.2. Chứng khoán hóa Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm đảm bảo để phát hành các trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài sản). Tiền từ người mua các chứng khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để các tổ chức này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán hóa chính là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi mà chúng có thể trao đi đổi lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những chứng khoán thanh khoản cao. Có 4 loại chủ thể kinh tế chủ yếu liên quan đến quá trình chứng khoán hóa, đó là: 1) người thế chấp và đi vay, 2) tổ chức tập hợp và đóng gói tài sản thế chấp rồi phát hành chứng khoán, 3) nhà đầu tư mua bán chứng khoán, và 4) tổ chức tín dụng cho vay. Với 4 loại chủ thể kinh tế thay vì 2 loại là người thế chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay, rủi ro được chuyển từ tổ chức tài chính sang nhà đầu tư trái phiếu đảm bảo bằng tài sản. Việc gộp nhiều loại tài sản thế chấp khác nhau vào một tập hợp cũng là một hình thức phân tán rủi ro. Vì thế, đã có cách gọi các trung gian tài chính tham gia vào chứng khoán hóa là những người tạo ra và phân tán rủi ro. Hai loại chủ thể kinh tế trung gian giữa người đi vay và tổ chức tín dụng cho vay đóng vai trò trung gian - môi giới, nên giúp cho người vay và tổ chức tín dụng dễ “gặp nhau” hơn. Ngoài ra, chứng khoán hóa còn giúp giảm chi phí huy động tài chính. Dù người đi vay có mức xếp hạng tín nhiệm không cao nhưng với tài sản đem thế chấp tốt thì chứng khoán đảm bảo bằng tài sản này vẫn có thể được xếp hạng tín nhiệm cao và dễ bán. Chính vì thế, chứng khoán hóa tạo thuận lợi cho việc vay và cho vay có thế chấp. Chứng khoán hóa xuất hiện đầu tiên ở MĨ vào năm 1970. Fannie Mae và Freddie Mac - hai công ty được chính phủ Mỹ bảo trợ - là những công ty đầu tiên và cho đến nay vẫn luôn là những công ty tích cực nhất trong hoạt động chứng khoán hóa. Hai công ty này đã phát minh ra chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (hay MBS). Sau đó, các loại chứng khoán đảm bảo bằng tài sản khác ra đời, như giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (hay CDO) và các thứ tương tự CDO. Nếu như MBS đóng gói các tài sản thế chấp thực thụ khác nhau lại, thì CDO, xuất hiện từ năm 1987 và chỉ thực sự phổ biến từ cuối cuối thập niên 1990, thậm chí lại còn đóng gói MBS và một số tài sản khác. Nghiên cứu của Mason and Rosner (2007) cho biết vào năm 2005, có đến 81% tài sản đảm bảo cho CDO là từ MBS, tức là vào khoảng 200 tỉ USD Mĩ. Do đó có quan điểm cho rằng CDO là sản phẩm tái chứng khoán hóa các loại chứng khoán khác. Và thứ giấy nợ đảm bảo bằng tài sản này có thể có nhiều loại là sản phẩm chứng khoán hóa của việc đóng gói các loại tài sản có mức độ rủi ro khác nhau, và hướng tới các đối tượng nhà đầu tư khác nhau. Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng, làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh. 2.3. Các công ty định mức tín nhiệm Nếu không có sự ra đời của các công ty định mức tín nhiệm thì có lẽ các gói CDOs kia sẽ không hấp dẫn được người mua. Loại CDO từ tài sản có mức độ rủi ro thấp nhất có thể được các tổ chức đánh giá tín nhiệm xếp hạng cao nhất. Mức phí định mức tín nhiệm mà các tổ chức này nhận được để xếp hạng các khoản cho vay có thế chấp - một khâu bắt buộc trong quy trình chứng khoán hóa, lại do chính các ngân hàng chi trả chứ không phải là nhà đầu tư. Cơ chế này đặt ra vấn đề về rủi ro đạo đức. Liệu cơ chế trả phí đó có phải là động cơ khiến các tổ chức định mức tín nhiệm đã xếp hạng các khoản vay có thế chấp đó quá cao, khiến nhà đầu tư không có được đánh giá chính xác về độ an toàn và rủi ro của những trái phiếu mà họ đầu tư hay không? Mặc dù các tổ chức định mức tín nhiệm luôn khẳng định rằng họ tuân thủ một cách chặt chẽ những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, thực tế đã trả lời là hàng loạt những khoản vay được định giá AAA để thực hiện chứng khoán hóa là những khoản vay thứ cấp, người đi vay không trả được nợ, dẫn đến hiệu ứng domino trong toàn hệ thống tài chính. Như vây, đúng như Alan Greenspan đã nhận xét: chính quy trình chứng khoán hóa những khoản vay mua nhà có chất lượng tín dụng thấp - chứ không phải bản thân các khoản vay - đã gây ra cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu gần đây. 2.4. Công cụ đầu tư kết cấu Nhiều tổ chức tín dụng của Hoa Kỳ đã lập ra các công ty con, gọi là các bộ phận mục đích đặc biệt (hay SPV) để mua bán MBS và CDO. Điều này cho phép họ đặt MBS và CDO ngoài bảng cân đối tài sản, và vì thế giảm nguy cơ bị các cơ quan giám sát tài chính nhắc nhở. Citigroup là tổ chức đã phát minh ra cái gọi là công cụ đầu tư kết cấu (hay SIV) vào năm 1988 và các tổ chức khác đã theo gương cho ra đời hàng loạt SIV. Công cụ đầu tư kết cấu hoạt động theo hình thức huy động vốn ngắn hạn bằng việc phát hành thương phiếu (commercial paper) với lãi suất thấp, đầu tư vào các loại chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản (asset-backed securities) với lãi suất cao.Trên thực tế, hoạt động của SIV không khác gì so với hoạt động ngân hàng thương mại. Nhưng các SIV này được xem là hệ thống ngân hàng trong bóng tối. Họ đi vay bằng cách phát hành chứng khoán ngắn hạn lãi suất thấp rồi cho vay lại bằng cách mua các chứng khoán dài hạn, nhất là mua MBS và CDO, qua đó ăn chênh lệch. Tuy nhiên, khi lãi suất của chứng khoán dài hạn lại thấp hơn lãi suất chứng khoán ngắn hạn thì các SIV này bị lỗ. Theo Moody (2008), tại thời điểm tháng 7 năm 2008, giá trị tài sản của các SIV ước lên đến 400 tỷ dollar. Khi hoạt động, các SIV này phải đối mặt với 2 rủi ro, đó là rủi ro vỡ nợ khi giá của các tài sản dài hạn xuống thấp hơn giá trị của các khoản nợ ngắn hạn và rủi ro thanh khoản do việc đi vay ngắn hạn nhưng lại cho vay dài hạn. Khi khủng hoảng nợ dưới chuẩn xảy ra, rồi lan tới các CDOs, người đi vay không còn khả năng thanh toán thì các SIV này phải lâm vào tình trạng nguy cấp, dẫn tới phá sản hàng loạt. Đến ngày 2-10-2008, Sigma Finance, SIV cuối cùng đã sụp đổ. 2.5. CDS – Hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng Cùng với sự ra đời và phát triển của CDO là sự xuất hiện của những tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho nhà đầu tư CDO và của những tổ chức liên kết cung cấp hợp đồng hoán đổi tốn thất tín dụng (CDS). CDS là một thỏa thuận giữa hai bên, trong đó một bên trả phí dịch vụ định kỳ cho bên kia và được cam kết nhận đủ số tiền cho vay tín dụng nếu bên thứ ba không trả được nợ. Bên nhận được “bảo hiểm tín dụng” được gọi là bên mua. Bên cung cấp dịch vụ “bảo hiểm tín dụng” được gọi là bên bán. Bên có thể bị phá sản hay không thanh toán được nợ được gọi là bên liên quan. Dịch vụ CDS trở nên phổ biến khi các rủi ro tín dụng xuất hiện ngày càng nhiều trong 7 năm qua ở Mỹ. Các ngân hàng cho rằng, với CDS, các ngân hàng này có thể dàn trải rủi ro trên khắp toàn cầu. CDS giống như một hợp đồng bảo hiểm, vì chúng có thể được các chủ nợ mua để đề phòng nguy cơ bên vay không thanh toán được nợ. Tuy nhiên, trên thực tế, do không có yêu cầu cầm cố bất cứ tài sản nào nên CDS cũng có thể được sử dụng cho các mục đích đầu cơ. Do ngày càng có nhiều các công ty của Mỹ không thanh toán được số chứng khoán phát hành khi suy thoái kinh tế ngày một lún sâu nên sự đổ vỡ của các CDS là điều không thể tránh khỏi, và phản ứng dây chuyền sự đổ vỡ của các CDS hoàn toàn có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính. 2.6. Mua bán khống Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn. Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của sau một cơn bão”. 2.7. Khủng hoảng niềm tin Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ sự sụp đổ thảm khốc của niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài sản. Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà con người ta khi bắt đầu cảm nhận thấy mùi của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài chính, khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị trường xuống dốc và tất cả mọi người đều bị thua lỗ. Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục. B/ Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng Trên đây là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng sâu xa hơn, cuộc khủng hoảng tài chính có nguyên nhân từ cơ cấu và cơ chế vận hành nền kinh tế Mỹ. Sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế Thế giới 1929-1933, các học thuyết kinh tế đề cao vai trò tự điều tiết của thị trường, điều tiết của “bàn tay vô hình” bị phê phán, những học thuyết kinh tế mới của Keynes đề cao vai trò điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã ra đời. Cơ chế phối hợp giữa điều tiết của thị trường và điều tiết của nhà nước đã giúp nền kinh tế thị trường thế giới phát triển tương đối ổn định và bền vững trong suốt hơn 60 năm qua (khắc phục, giảm bớt được quy mô, tính tàn phá của các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ). Nhưng vào những năm 80 của thế kỷ trước, các trường phái kinh tế Tân tự do (Tân cổ điển) lại được đề cao. Trong bối cảnh chung của các nước trên thế giới thực hiện các chính sách tự do hoá kinh tế, Chính phủ Mỹ còn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong một thời gian dài. Để phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc suy thoái kinh tế năm 2001 và ảnh hưởng từ cuộc khủng bố 11/9, Cục Dự trữ liên bang Mỹ đã liên tiếp giảm lãi suất liên ngân hàng (từ 6,5% xuống còn 1,75%), theo đó, lãi suất cho vay của tín dụng thứ cấp cũng giảm xuống thấp. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng USD rẻ) đã kích thích người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm. Thêm vào đó là sự buông lỏng trong cơ chế quản lí nhà nước. Mỹ cho phép ngân hàng thương mại hoạt động đa năng và rộng khắp cả nước, thay vì hạn chế mỗi ngân hàng ở một bang, ngân hàng được phép hoạt động trên khắp liên bang. Trước đó ngân hàng thương mại chỉ hoạt động thu nhận tiền ký gửi rồi cho vay. Sau thay đổi, ngân hàng thương mại cũng được hoạt động như một công ty đầu tư tài chính, loại công ty này chỉ được làm dịch vụ tạo vốn đầu tư, tức là phát hành và buôn bán cổ phiếu công ty, trái phiếu… Loại hoạt động nhận tiền ký gửi và cho vay chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước như Fed, còn loại hoạt động sau liên quan đến chứng khoán không bị một rào cản nào, trừ việc tuân thủ các định chế buôn bán chứng khoán trên thị trường và nội dung các hợp đồng đã ký kết. Mỹ còn cho mở cửa tự do cho mọi loại công cụ tài chính mới xuất hiện mà không có sự kiểm soát nào, kể cả việc thu thập chính thức các thông tin thống kê về chúng để theo dõi. Mục đích chính là tạo cơ hội cho các hoạt động đầu tư rủi ro. Mỹ cho phép công ty bảo hiểm cả những gì gần như không thể bảo hiểm được như bảo hiểm giá trị chứng khoán (nợ hay cổ phiếu), nhất là chứng khoán không có bảo chứng, hoàn toàn chỉ dựa vào niềm tin là thị trường không bao giờ xuống dốc (nhìn một cách tổng thể). Khi thị trường xuống dốc toàn diện, các công ty này phá sản vì không có khả năng thanh toán. Ngoài ra, Mỹ cũng cho phép các hành động đầu tư hoàn toàn mang tính đầu cơ, cho phép bán khống trần trụi. Đây là hành động mà giới tài chính có thể sử dụng để đẩy giá một loại chứng khoán nào đó xuống. Họ bán chứng khoán ra (mặc dù không có chứng khoán trong tay) với giá cao và làm thế giá chứng khoán bị đẩy xuống, họ mua lại với giá thấp. Trước tình hình nguy ngập hiện nay, Ủy ban chứng khoán (SEC) đã phải ra lệnh cấm bán khống bình thường (tức là phải vay chứng khoán của ai đó thì mới được bán) đối với một loạt cổ phiếu của các công ty Mỹ. Tóm lại, sự buông lỏng cơ chế quản lý nhà nước và những sai lầm trong chính sách kinh tế của chính phủ Mỹ là nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ vừa qua. Nhìn vào nền kinh tế Mỹ, ta thấy rằng thị trường chủ yếu dựa trên sở hữu tư nhân, lợi nhuận là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy các doanh nghiệp năng động, nhưng cũng là nguyên nhân thúc đẩy các doanh nghiệp đầu cơ, thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp luật, vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội, phá vỡ những cân đối duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế, dẫn tới khủng hoảng. Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ là cường quốc kinh tế, khoa học công nghệ số 1 của thế giới. Với ưu thế vượt trội, kinh tế Mĩ không ngừng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thế giới. Cho nên một khi nền kinh tế Mỹ bị suy giảm, ắt hẳn dẫn đến sự suy giảm của quan hệ tài chính, thương mại, đầu tư quốc tế của các nước khác. Cũng chính do sức mạnh to lớn, tiềm tàng của nền kinh tế Mỹ mà đồng đô la được sử dụng là một đồng tiền chung cho cả thế giới, được sử dụng như một đồng tiền có chức năng thanh toán và dự trữ ngoại hối của các chính phủ, ngân hàng, các công ty và của các quốc gia trên thế giới. Chính phủ Mỹ và các công ty có thể dễ dàng huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Nhưng một khi đồng đô la mất giá thì giá cá, thương mại, tài chính và các tài sản có giá trị bằng đồng đô la đều bị ảnh hưởng. Sự sụp đổ của ngân hàng Mỹ kéo theo hiệu ứng domino gây ra sự phá sản của hàng loạt ngân hàng các nước trên thế giới. Ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế Mỹ đã buộc cả thế giới chia sẻ, cũng phải trả giá cho những sai lầm, bất ổn trong các chính sách kinh tế của Mỹ và các nước trên thế giới. Như vậy, có thể tóm lược nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ 2008 như sau: Lãi suất thấp kéo dài sau 11/09/2009 Vai trò của Fannie Mae và Freddie Mac Chứng khoán hóa các khoản cho vay cầm cố Bong bóng bất động sản nhà ở Suy thoái nền kinh tế thực vì thiếu tín dụng cho sản xuất và tiêu dùng Khan hiếm tín dụng và ngân hàng phá sản hàng loạt Nổ bong bóng bất động sản tháng 7/2007 3. Hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008: Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã diễn ra như vậy đó và sức tàn phá của nó cũng thật ghê gớm, giống như một cơn bão lớn, một trận sóng thần, từng đợt sóng cứ nối tiếp nhau, hết đợt này đến đợt khác để rồi tất cả đổ ập vào bờ và cuốn trôi đi hết mọi thứ trên đó, để lại những đống đổ nát. Cả thế giới lại phải đối mặt với một cuộc Đại suy thoái kinh tế mới mà cả 100 năm mới có một lần này với hi vọng sẽ chứng kiến sự trỗi dậy, vươn lên vượt bậc và đầy nỗ lực của các quốc gia trên toàn cầu. 3.1.Hệ thống tài chính sụp đổ: Số các ngân hàng bị phá sản, sát nhập, giải thể hoặc bị quốc hữu hóa tăng lên nhanh chóng. Trong năm 2008, tại Mỹ đã có 25 ngân hàng bị phá sản, riêng từ ngày 15/09/2008 đến cuối năm 2008 là 15 ngân hàng. Từ đầu năm 2009 đến 24/07/2009 thì số ngân hàng bị phá sản càng tăng mạnh hơn, lên đến 64 ngân hàng. Từ 22/02/2008 đến 29/03/2009 thì tổng số ngân hàng của Mĩ và các nước EU bị mua lại là 33. Có thể nói, sự sụp đổ của Lehman Brotherước ngày 15/09 là bước ngoặt tạo nên tình trạng hỗn loạn trong hệ thống tài chính hiện nay. Trước đó, thị trường tài chính đã chứng kiến hiệu ứng domino những vụ đổ vỡ của một loạt tên tuổi lớn liên quan đến cho vay dưới chuẩn như Bear Stearn (tháng 6), IndyMac Bancorp (tháng 7) rồi việc quốc hữu hóa Fannie Mae và Freddie Mac vào tháng 9. Thiệt hại ước tính có thể lên tới hàng trăm tỉ USD. Nhưng thị trường vẫn vận hành bình thường cho đến khi những đại gia khác như Lehman Brothers, AIG và Merrill Lynch tận số trong những ngày từ 13 đến 15 tháng 9. Những sự kiện này vượt quá sức chịu đựng của một thị trường vốn đã rất rất mỏng manh và dễ bị tổn thương trước đó. Thị trường tài chính trở nên hỗn loạn, người ta trở nên nghi ngờ và đánh mất niềm tin vào các ngân hàng, các tổ chức tài chính. Chính những người cho vay cũng từ chối những người đi vay vì sợ họ sẽ vỡ nợ và không có khả năng chi trả. Tất cả đều muốn tháo chạy. Sau vụ đổ vỡ của Lehman Brothers thì người ta cũng chứng kiến cảnh một loạt các ngân hàng, các tổ chức tài chính không chỉ tại Mĩ mà cả tại Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan,.. sụp đổ, phá sản hoặc bị sát nhập, bị quốc hữu hóa. Cổ phiếu của các ngân hàng này cũng tức thì suy giảm. Ông Mervyn King- Thống đốc Ngân hàng Trung Ương Anh (Bank of England) đã tuyên bố hôm 22/10/2008 rằng chính sự kiện Lehman Brothers ngày 15/09/2008 đã gây ra những hậu quả không thể tưởng tượng được cho toàn bộ hệ thống ngân hàng trên thế giới. Cả thế giới bị đẩy vào tình thế phải đi cứu hệ thống ngân hàng của mình bằng cách này hay cách khác. Và đẩy hệ thống ngân hàng Anh vào nguy cơ phá sản chưa từng có kể từ thời Đại chiến thế giới thứ nhất. Ngay cả Nhật Bản là nơi được coi là an toàn, ít bị dính tới những món nợ cho vay dưới chuẩn cũng phải lận đận với vụ sụp đổ của Lehman Brothers. Các ngân hàng Nhật Bản trước tháng 9 ít bị ảnh hưởng của khủng hoảng và còn cung ứng vốn cho thị trường Mĩ, châu Âu thì sau vụ sụp đổ này, trái phiếu công ty ít được các ngân hàng Nhật Bản mua vì sợ rủi ro. Do đó, họ đổ xô đến vay ngân hàng, ngân hàng thì lại không thể tăng cho vay đột ngột được và họ phải chọn lọc khách hàng. Tình trạng này càng làm cho sự khan hiếm tín dụng trở nên tồi tệ hơn. Các nền kinh tế đang nổi cũng không khỏi bị tác động vì các nước này sử dụng nhiều nguồn vốn từ bên ngoài, đặc biệt là từ Mĩ và các nước EU. 3.2. Thị trường chứng khoán chao đảo, suy giảm mạnh mẽ: Trong năm 2008, cũng do tác động cuộc khủng hoảng nên thị trường chứng khoán tài chính toàn cầu đã mất khoảng 17.000 tỷ USD. Thị trường chứng khoán các nước mới nổi giảm 54,72%, thị trường các nước phát triển giảm 42,72%. Mức sụt giảm cao nhất rơi vào các nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc khoảng hơn 70%. Morocco và Israel là những thị trường có diễn biến tốt nhất. Tại một số thị trường lớn kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng (12/09/08) đến 12/01/2008 thì hầu hết chỉ số chứng khoán của các quốc gia đều giảm như Mỹ: chỉ số Dow Jones giảm 25,81%, chỉ số Nasdas giảm 32,03%; chỉ số S&P 500 giảm 30,47%; chỉ số FTSE 100 của Anh giảm 18,29%; chỉ số Nikkei 225 của Nhật giảm 31,12%... Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này là do bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến các nhà đầu tư phải bán tháo các cổ phiếu trong lĩnh vực tài chính lẫn các cổ phiếu trong lĩnh vực công nghiệp. Bảng Diễn biến TTCK toàn cầu (từ ngày 12/9/08 đến 12/01/2009) Quốc gia Chỉ số 12/09/08 12/1/08 Mức tăng giảm so với 12/9 ± điểm ± % Việt Nam VN-Index 476.00 312.18 (163.82) -34.42% HASTC-Index 160.62 105.71 (54.91) -34.19% Mỹ .DJI 11,421.99 8,473.97 (2,948.02) -25.81% .NDX 1,767.13 1,201.13 (566.00) -32.03% .GSPC 1,251.70 870.26 (381.44) -30.47% Pháp .FCHI 4,332.66 3,246.19 (1,086.47) -25.08% Anh .FTSES 5,416.73 4,426.19 (990.54) -18.29% Nga .RTX 1,991.10 1,014.33 (976.77) -49.06% Thái Lan .SETI 654.34 452.80 (201.54) -30.80% Úc .AORD 4,957.10 3,624.00 (1,333.10) -26.89% Nhật Bản .N225 12,214.76 8,413.90 (3,800.86) -31.12% Hàn Quốc .KS11 1,477.92 1,156.75 (321.17) -21.73% Trung Quốc .SSEC 2,079.67 1,900.35 (179.33) -8.62% Hồng Kông .HSI 19,352.90 13,971.00 (5,381.90) -27.81% 3.3. Giá bất động sản giảm mạnh: Tính riêng tại Mỹ, trong tháng 11 giá bất động sản giảm từ 21%-50%, cụ thể ở một số khu vực như: 50% ở Contra Costa; 38% ở Solano, 37% ở Alameda, 34% ở Santa Clara, 34% ở  Solano, 28% ở Marin, 28% ở Napa, 26% ở San Mateo và 21% ở San Francisco. Số lượng nhà giao bán tăng do có nhiều người không có khả năng thanh toán khiến các ngân hàng bán ra mạnh hơn, tăng từ 15%-90%; (90% ở Solano, 62% ở Contra Costa, 24% ở Solano, 20% ở Alameda, 15% ở Nape, 29% ở San Francisco, 25% ở Marine, 21% ở San Mateo, 15% ở Santa Clara). Đây chính là hệ quả trực tiếp của vụ nổ bong bóng bất động sản tháng 07/2007. Bảng Biến động giá bất động sản năm 2007 và 2008 Địa điểm Năm 2007 (%) Năm 2008 (%) Bang California +75% -33%* Miền Đông nước Mỹ (Boston) -10% (lượng giao dịch BĐS giảm 19%) Anh -13% so với tháng 3/2008 Latvia 20% -24% 3.4. Giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới đều sụt giảm mạnh: Cuộc khủng hoảng cũng gây ra những tác động đến nền kinh tế thực. Nó làm cho giá cả của hầu hết các mặt hàng sụt giảm. Giá dầu giảm mạnh do nhu cầu giảm trước bối cảnh nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, đồng USD hồi phục so với các đồng tiền chủ chốt khác, hoạt động đầu cơ cũng phần nào giảm trước bối cảnh không sáng sủa của kinh tế thế giới. Mức thấp nhất của giá dầu trong thời gian qua là 30,28USD/thùng vào ngày 23/12/2008, tình hình suy giảm nghiêm trọng kéo theo đó là hàng loạt các mặt hàng khác cũng sụt giảm theo. Sự sụt giảm của giá dầu còn làm cho các nước phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập từ dầu mỏ gặp khó khăn lớn, nhất là Iraq, Iran, Nigieria, Mexico, Venezuela- nơi nguồn thu chủ yếu từ xuất khẩu dầu chiếm tới 90% thu nhập ngân sách hoặc xuất khẩu. Dù giá các mặt hàng khác giảm nhưng chỉ riêng giá vàng có diễn biến tăng trong thời kỳ trên là do tâm lý của nhà đầu tư lựa chọn chuyển đổi sang kênh đầu tư khác an toàn hơn. Diễn biến giá cả hàng hoá thế giới (Từ 12/09/2008 đến 12/01/2009) Chỉ tiêu 12/09/08 12/01/09 Tăng giảm so với 12/9 Số tuyệt đối ± % 1. Giá hàng hoá     - Giá vàng 763.45 820.25 56.80 7.44     - Giá dầu mỏ 101.19 37.62 -63.57 -62.82     - Giá thép xây dựng 44680.00 30930.00 -13750 -30.77     - Giá ngũ cốc 457.40 349.10 -108.30 -23.68     - Giá cao su 420.00 228.25 -191.75 -45.65     - Giá đường 376.20 339.10 -37.10 -9.86     - Giá Ga 118.64 58.20 -60.44 -50.94     - Giá phân Urê 770.00 215.00 -555.00 -72.08     - Giá gạo 700 540.00 -160 -22.86     - Cà phê 1703.40 1485.00 -218.40 -12.82 2. Libor kỳ hạn qua đêm 2.15 0.10 -2.04 -2.04 3. Tỷ giá    - EUR/USD 1.42 1.32 -0.10 -6.99    - GBP/USD 1.79 1.47 -0.32 -18.06    - USD/JPY 107.92 89.25 -18.67 -17.30    - USD/CNY 6.8370 6.84 0.00 0.00 Nguồn: Thomson Reuters, tính toán của Phòng NCKT 3.5. Lãi suất biến động mạnh : Do các điều kiện trên thị trường tài chính thế giới bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc nhất trong nhiều thập kỷ qua buộc một loạt ngân hàng Trung ương các nước thực hiện nới lỏng bằng cách liên tục cắt giảm lãi suất để đối phó với suy thoái kinh tế và bơm thanh khoản vào hệ thống ngân hàng. Lãi suất LIBOR, SIBOR biến động mạnh. Lãi suất SIBOR kỳ hạn qua đêm ngày 17/09 tăng lên kỷ lục 6,75%/năm, ngày 05/01/2009 giảm xuống mức thấp kỷ lục 0,105%/năm, lãi suất Libor kỳ hạn qua đêm tăng kỷ lục 6,87%/năm ngày 30/9/2008 giảm xuống mức thấp kỷ lục là 0,11%/năm vào ngày 19/12/2008. Diễn biến lãi suất LIBOR kỳ hạn qua đêm (Từ 12/09/2008 đến 12/01/2009) 3.6. Đồng USD lên giá so với các đồng tiền khác: Những diễn biến ngoài dự đoán của thị trường tài chính làm bùng nổ khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến nhu cầu thanh khoản USD của các ngân hàng trên toàn thế giới tăng đột biến, đẩy đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác. Đồng thời, nguy cơ suy thoái kinh tế tại những nền kinh tế đối trọng của Mỹ như khu vực đồng EUR, Nhật Bản đã làm giảm đi lợi thế cạnh tranh giữa các đồng tiền này với USD. Diễn biến đồng USD từ lúc bắt đầu khủng hoảng đến 12/01 lên giá 6,99% so với EUR; lên giá 18,06% so với GBP; nhưng giảm giá 17,3% so với JPY và ổn định so với CNY. Diễn biến tỷ giá một số đồng tiền so với USD (Từ 12/09/2008 đến 12/01/2009) Trước đó, xét từ đầu năm 2007, nền kinh tế Mĩ đã có những dấu hiệu bất ổn nên đồng USD có xu hướng mất giá so với Đồng Euro. Từ tháng 07/2007, khi mà bong bóng bất động sản vỡ tại Mĩ thì khuynh hướng mất giá của đồng USD so với Euro càng rõ. Mức mất giá từ 1,36 USD/EURO lên tới 1,56USD/EURO, tức 14,7%. Và mức mất giá cao này kéo dài cho đến hết tháng 08/2008, khi mà châu Âu vẫn được coi là an toàn và tách khỏi những biến cố tại Mĩ. Trong khoảng thời gian này thì FED đã liên tục cắt giảm lãi suất xuống còn 3% (tháng 02/2008) và tiếp đến xuống mức thấp nhất trong vòng 4 năm còn 2% (tháng 04/2008) để chống nguy cơ suy thoái kinh tế. Trái lại, ngân hàng Trung ương châu Âu vẫn giữ mức lãi suất cao hơn nhiều ở mức 4% và thậm chí còn nâng cao hơn lên mức 4,25% vào khoảng thời gian trước tháng 09/2008, cho nên nhiều người đã quay sang dùng đồng EURO làm nơi bảo toàn giá trị tài sản của mình, khiến cho EURO lên giá. Tuy nhiên, tình thế đã lật ngược trở lại kể từ tháng 09/2008, khi mà châu Âu biết chắc rằng không thể tránh khỏi tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ, thì ngân hàng Trung ương châu Âu đã phải mạnh tay giảm lãi suất xuống còn 2,5%, tức là mức không cao hơn nhiều so với đồng USD. Thêm vào đó, người ta lại đổ xô đi tìm nơi an toàn cho giá trị, đó là USD và những trái phiếu kho bạc Mĩ thay cho đồng EURO, làm cho đồng USD lên giá trở lại so với đồng EURO. Kết quả cũng tương tự với đồng Bảng Anh. So với các đồng tiền khác của các nền kinh tế đang nổi như Hàn Quốc, Mexico,.. thì đồng USD cũng lên giá mạnh sau thời điểm tháng 09/2008. Vì các quốc gia này sử dụng nhiều nguồn vốn từ bên ngoài cho tăng trưởng của mình, nên khi các nước lớn lâm nguy như Mĩ và EU, các nhà đầu tư phải rút vốn của mình về, tập trung cho trụ sở chính tại các nước phát triển. Kết quả là các nước này bị thiếu hụt lớn về nguồn vốn. Đồng thời, các nhà đầu tư khi rút về trụ sở chính của mình thì lại bán ra các đồng tiền nội tệ ở các nền kinh tế đang nổi và mua USD vào, làm cho cầu USD tăng lên nhanh chóng. Thêm vào đó, để chống chọi với khủng hoảng và nguy cơ suy thoái kinh tế, ngân hàng trung ương các nước này phải cắt giảm lãi suất để kích thích kinh tế. Điều này càng làm cho các đồng tiền này mất giá so với đồng USD. Tuy nhiên, đồng Yên Nhật vẫn lên giá so với USD. Điều này là do : thứ nhất, các nhà đầu tư đã điều chỉnh danh mục đầu tư của mình khi thấy bất ổn về tài chính và kinh tế ở Mĩ, họ bán USD đi để mua JYP vào. Thứ hai, lãi suất ở Mĩ được giảm nhanh và liên tục so với lãi suất ở Nhật Bản. Đáng chú ý là không những JYP chỉ lên giá so với USD, mà còn lên giá so với EURO, GBP,… khiến cho Nhật Bản gặp khó khăn khi xuất khẩu sang Mĩ và cả các nước châu Âu vì giá hàng Nhật nhập khẩu trở nên đắt hơn. 3.7. Suy thoái kinh tế trên diện rộng: Những tác động trên của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn đến suy thoái kinh tế trên diện rộng. Tại Mĩ, cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ đã ảnh hưởng đến nền kinh tế thực, mà điển hình là cuộc khủng hoảng trong ngành công nghiệp ôtô. 3 hãng xe hơi lớn nhất tại Mĩ là General Motors, Ford và Chrysler đều phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Sau một thời gian chống chọi với khủng hoảng thì cả GM và Chrysler đều phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản vào tháng 06 và tháng 04/2009. Tháng 09/2008, sản xuất trong toàn nước Mĩ sụt giảm mạnh nhất trong vòng 34 năm qua với mức giảm 2,8% so với tháng 08/2008. Sau khi tăng nhẹ trong 2 tháng 6 và 7 thì chỉ số sản xuất giảm đột ngột 1,1% trong tháng 8 do sự sụt giảm trong ngành công nghiệp ôtô. Mức sử dụng công suất giảm 4,6% xuống còn 76,4%. Sản lượng công nghiệp chế tạo giảm 2,6% trong tháng 9, và chỉ số vận hành công xưởng tụt xuống 74,5%, dưới mức trung bình của 35 năm 5 điểm kể từ 1972- 2007. Kinh doanh của các nhà xây dựng giảm mức thấp nhất từ trước tới nay xét theo mức giảm trong một tháng. Chỉ số nhà ở National Association of Home Builders/ Wells Fargo bắt đầu từ năm 1985 đã giảm 3 điểm và xuống còn 14 điểm trong tháng 10. Chỉ số này cho biết mức độ lòng tin vào thị trường xây dựng. Nếu chỉ số cao hơn 50 điểm cho biết mức lòng tin cao và kì vọng tích cực đối với thị trường và ngược lại. Chỉ số này tụt xuống dưới 50 điểm vào tháng 5/2006 và dưới mức 20 điểm kể từ tháng 4/2008. Chỉ số công nghiệp chế tạo cũng giảm xuống còn 38,9 điểm trong tháng 10 từ mức 43,5 điểm trong tháng 9. Mức thấp nhất trong vòng 26 năm kể từ năm 1982 với mức chỉ số 38,8 điểm. Chỉ số này 50 điểm cho biết nền kinh tế bình thường, dưới 50 điểm cho biết có sự giảm sút trong ngành công nghiệp chế tạo, và dưới 41 điểm được coi là suy thoái. Tháng 10/2008 cũng chứng kiến mức cắt giảm việc làm lớn nhất ở Mĩ kể từ tháng 1/2004, 157000 việc làm bị mất, vượt xa mức dự đoán của các nhà kinh tế là 100000 việc làm bị mất. Mức cắt giảm lớn nhất là ngành tài chính và ngành ôtô chiếm 28% mức cắt giảm. Và tỉ lệ thất nghiệp này còn tiếp tục tăng cao trong năm 2009. Bên cạnh đó, tiêu dùng của người Mĩ cũng giảm sút nghiêm trọng. Tháng 9 mức giảm bán lẻ là 1,2%, tháng 10 tiếp tục giảm 0,7%, cao hơn nhiều so với dự đoán 0,3%. Unemployment (%) GDP (%) Fiscal Balance (%) Inflation (%) Nguồn : OECD Tại châu Âu, tăng trưởng kinh tế trong năm 2008 cũng suy giảm, đặc biệt là từ cuối tháng 9 đầu tháng 10/2008. Bảng tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro và EU 2006- 2009 (Tốc độ tăng trưởng hàng năm của GDP thực tế, %) 2006 2007 2008 2009 Khu vực đồng Euro 2,8 2,6 1,3 0,2 Đức 3,0 2,5 1,8 0,2 Pháp 2,2 2,2 0,8 0,2 Ý 1,8 1,5 -0,1 -0,2 Tây Ban Nha 3,9 3,7 1,4 -0,2 Anh 2,8 3,0 1,0 -0,1 EU 3,3 3,1 1,7 0,6 Nguồn : IMF (2008), World Economic Outlook, 11/2008, Washington (2009 : dự báo) Chỉ số giá tiêu dùng khu vực đồng Euro và EU (%) 2006 2007 2008 2009 (dự báo) Khuc vực đồng Euro 2,2 2,1 3,5 1,9 EU 2,3 2,4 3,9 2,4 Nguồn : IMF (2008), World Outlook Economic, 11/2008, Washington Tình hình thất nghiệp của khu vực đồng Euro và EU (%) 2007 2008 2009 (dự báo) Khu vực đồng Euro 7,0 7,6 8,4 EU 7,0 7,1 7,8 Nguồn : EU Commission 10/2008 Tại các nước đang phát triển, nền kinh tế vẫn giữ được đà tăng trưởng mặc dù có sự trì trệ tại các nước phát triển, tuy nhiên tăng trưởng chậm hơn do bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nguồn: World Economic Outlook 10/2009 Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của cả thế giới đều giảm trên các mặt: sản xuất công nghiệp, bán lẻ, tiêu dùng, thương mại từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhưng với nỗ lực của Chính phủ các nước, mức tăng trưởng của các quốc gia đã được cải thiện hơn trong năm 2009. Nguồn: World Economic Outlook 10/2009 4. Hành động giải cứu của Ngân hàng Trung ương và Chính phủ các nước: Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính lan rộng, kinh tế thế giới suy giảm mạnh, nhiều nước phát triển rơi vào suy thoái, tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển cũng sụt giảm mạnh. Chính phủ, Ngân hàng Trung ương các nước và các tổ chức khác đã phải hết sức khẩn trương thực hiện các biện pháp can thiệp, giải cứu thị trường như liên tục giảm lãi suất, bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mua lại các khoản nợ xấu của hệ thống ngân hàng, tung ra các gói giải cứu kích thích tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ tài chính nhằm đảm bảo lòng tin của công chúng và thị trường. Ngân hàng Trung ương các nước liên tục điều chỉnh lãi suất từ đầu cuộc khủng hoảng tới nay. NHTW Tháng 9/08 Tháng 10/08 Tháng 11/08 Tháng 12/08 Tháng 1/09 Số lần thay đổi Ngày Mức Mức Ngày Ngày Mức Ngày Mức Mức Ngày Mức Mức Ngày Mức Mức thay đổi thay đổi  hiện tại thay đổi thay đổi  hiện tại thay đổi thay đổi  hiện tại thay đổi thay đổi  hiện tại thay đổi thay đổi  hiện tại FED - - 2.00 08/10 - 0,5% 1.50  -  - 1.00 16/12 -0,75-1% 0-0,25 3 29/10 - 0,5% 1.00 NHTW châu Âu - - 4.25 08/10 - 0,5% 3.75 06/11 - 0,5% 3.25 04/12 -0,75% 2.50 3 NHTW Anh - - 5.00 08/10 - 0,5% 4.50 06/11 - 1,5% 3.00 04/12 -1% 2.00 08/1 0.5% 1,5 4 Trung Quốc 15/9 -0,27% 7.20   9/10 - 0.27 6.93 26/11 - 1.08 5.58 22/12 -2,27% 5.31 5 29/10 - 0.27 6.66 Thái lan - 3.75  - 3.75  -  - 3.75 03/12 -1% 2.75 1 Philippines - 6.00  - 6.00  -  - 6.00  -  - Hàn Quốc - 5.25 09/10 - 0,25% 5.00 07/11 - 0,25% 4.00 11/12 - 1% 3  09/1 0.5% 2,5 5 27/10 - 0,75% 4.25 Đài loan 26/9 - 0,125 3.5 09/10 - 0,25% 3.25  10/11  -0,5% 2,75  12/12  -1% 2  07/1 -0.5% 1,5 5 30/10 - 0,25% 3 Nguồn: Thomson Reuters, tổng hợp  của Phòng NCKT * Hành động của Fed: Ngoài việc cắt giảm lãi suất, Fed còn thực hiện những hành động mà trước nay chưa từng có trong lịch sử hoạt động của mình. Đó là: - Bơm tiền vào hệ thống ngân hàng đang suy giảm thanh khoản bằng việc cho đấu thầu lãi suất các khoản tiền mà Fed muốn cho các ngân hàng thương mại vay. Fed tuyên bố sẽ bơm tiền cho tới khi các ngân hàng có đủ tiền mới thôi. Tính đến cuối tháng 12/2008 thì số tiền này đã lên tới 1200 tỉ USD. - Fed ra tay đỡ đầu cả những định chế tài chính phi ngân hàng, một hành động vượt ra ngoài khuôn khổ của chính mình. Vì sự ra đời của chứng khoán hóa các khoản cho vay cầm cố đã khiến cho các tổ chức ngân hàng thương mại và phi thương mại có quyền lợi gắn chặt với nhau. Một khi các định chế tài chính phi ngân hàng sụp đổ thì hệ thống ngân hàng thương mại chắc chắn cũng sẽ bị tổn thương. Do đó, Fed không thể không ra tay. Minh chứng cho hành động này đó là Fed đã cho JP Morgan vay 30 tỉ USD để mua lại công ty tài chính Bear Stearn và Fed cũng đã chi ngay một khoản 85 tỉ USD cho tập đoàn AIG khi tập đoàn này lâm nguy. - Fed đã chi 247 tỉ USD cho chương trình hoán đổi tiền tệ quốc tế nhằm làm giảm bớt sự khan hiếm USD trên các thị trường thế giới. - Fed đã chi tiền để mua các thương phiếu nhằm giúp đỡ trực tiếp khu vực công ty trong khi thị trường tín dụng chưa tan băng. Trong bối cảnh có quá nhiều công ty lớn bị thua lỗ và phá sản thì các định chế tài chính, các ngân hàng trở nên e ngại mua những thương phiếu- được coi là an toàn và có tính thanh khoản cao. Trước tình hình này, Fed đã lập một quỹ trị giá 540 tỉ USD cho chương trình mua thương phiếu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khi tín dụng khan hiếm, chống nguy cơ suy thoái kinh tế. Còn Chính phủ các nước cũng ra sức cứu nền kinh tế của mình bằng cách đưa ra các gói cứu trợ kinh tế. - Ngày 03/10, Quốc hội Mỹ thông qua điều luật giải cứu thị trường trị giá 700 tỉ USD, trong đó 250 tỉ USD sử dụng mua cổ phiếu của các ngân hàng lớn, 450 tỉ USD tiếp theo được sử dụng trong những trường hợp cụ thể, tăng mức bảo hiểm tối đa một tài khoản tiền gửi 100.000 USD lên 250.000 USD, áp dụng giảm thuế cho dân chúng. Chính phủ Mỹ cũng đã đề xuất các gói hỗ trợ cho các tập đoàn công nghiệp ô tô vốn bị ảnh hưởng nặng từ cuộc khủng hoảng tài chính làm cho hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng và sự suy thoái kinh tế làm giảm nhu cầu mua ô tô, hai hãng sản xuất ô tô hàng đầu của Mỹ là General Motors và Chrysler vừa được Chính phủ nước này quyết định cấp một khoản vay trị giá 13,4 tỉ USD (lấy từ gói hỗ trợ 700 tỉ USD) để duy trì hoạt động cho tới hết tháng 03/2009. Hiện nay gói giải cứu này đã lên tới 787 USD. - Chính phủ các nước Châu Âu có các kế hoạch tổng cộng khoảng 3.000 tỉ USD để mua lại nợ xấu, cơ cấu lại tài sản của các ngân hàng, mua cổ phần ngân hàng, cho các ngân hàng vay dài hạn để mua lại cổ phiếu của chính mình, điều chỉnh tăng tiền bảo hiểm tiền gửi. - Ngày 24/11/2008, Chính phủ Anh đã công bố một gói giải pháp kích thích kinh tế trị giá 20 tỉ bảng Anh, tương đương 30 tỉ USD, để khuyến khích tiêu dùng và giảm mức độ suy thoái. Trước đó, Chính phủ Anh dành 87 tỉ USD để cứu hệ thống ngân hàng, quốc hữu hoá ngân hàng cho vay bất động sản như Bradford&Bingley trị giá 39 tỉ USD, dành 200 tỉ USD cho vay ngắn hạn các ngân hàng gặp khó khăn. - Chính phủ Đức thông qua các gói giải pháp cứu các ngân hàng Đức với tổng chi phí trị giá 500 tỉ EURO. Ngày 12/01/2009, Chính phủ Đức cũng đã thống nhất đưa ra gói hỗ trợ thứ hai giá trị 50 tỉ EURO (khoảng 67 tỉ USD). - Chính phủ Thụy Điển công bố Quỹ bình ổn tài chính trị giá 205 tỉ USD để hỗ trợ các ngân hàng. - Chính phủ Trung Quốc tiến hành gói hỗ trợ 4.000 tỉ Nhân dân tệ (tương đương 586 tỉ USD) từ năm nay cho đến 2010 thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn, sân bay, đường sắt, giảm thuế, tăng giá mua lương thực và trợ cấp cho nông dân, các doanh nghiệp có vốn nhỏ… - Ngày 01/12/2008, Chính phủ Ba Lan đã thông qua gói hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2009-2010 trị giá 24 tỉ EURO. - Ngày 08/12/2008, Ấn Độ công bố gói kích thích kinh tế trị giá 4 tỉ USD từ ngày 08/12/2008. Ngày 02/01/2009, Chính phủ Ấn Độ tuyên bố số tiền 2.000 tỉ Rupee (50 tỉ USD) để  cứu trợ cho các ngành chế tạo, bất động sản, công trình xây dựng cơ sở hạ tầng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Chính phủ Hàn Quốc đã công bố kế hoạch sử dụng 14.000 tỉ Won (10,8 tỉ USD) để hỗ trợ thị trường trong năm 2009. - Ngày 31/12/2008, Chính phủ Nga cũng tuyên bố quyết định dành riêng 10.000 nghìn tỉ Rup (340 tỉ USD) cho gói chống khủng hoảng tài chính, số tiền này được trích từ ngân sách liên bang, ngân hàng trung ương và các quỹ dự phòng. - Ngày 12/12/2008, Chính phủ Nhật Bản đưa ra kế hoạch kích thích kinh tế bổ sung trị giá 23.000 tỉ Yên (242 tỉ USD) để giải quyết khó khăn thị trường việc làm ; ngày 29/12/2008, thông qua ngân sách kỷ lục 88.500 tỉ Yên (980 tỉ USD) dành cho tài khoá năm 2009 (bắt đầu từ 04/2009). Hiện nay cả Chính phủ và Ngân hàng Trung ương nước này cũng đang cân nhắc cho khoảng 10.000 tỉ Yên (110 tỉ USD) để hỗ trợ các ngân hàng chống đỡ với các khoản nợ xấu và tài sản mất giá. - Chính phủ các nước G7-G20 đều tuyên bố sẽ sử dụng tất cả các biện pháp nhằm ổn định thị trường tài chính- tiền tệ. Các tổ chức khác như IMF, ADB, OPEC, ... cũng tiến hành tham gia vào hoạt động ngăn chặn khủng hoảng, hạn chế tối đa những đổ vỡ. Sau khi một số nước đã phải đề nghị sự giúp đỡ từ IMF như Pakistan, Iceland, Ukraina và Hungary, IMF đã tham gia hỗ trợ cho các thành viên với số vốn khoảng 200 tỉ USD, đến nay các nước này đã được IMF hỗ trợ. Cụ thể: Hungary đã được nhận 15,7 tỉ USD; Ukraina: 16,4 tỉ USD; Pakistan 7,6 tỉ USD; Latvia: 2,35 tỉ USD;  Belarus: 2,46 tỉ USD, Ice land: 2,1 tỉ USD. Ngày 12/01/2009, IMF tuyên bố cần tới khoản hỗ trợ khoảng 150 tỉ USD để hỗ trợ các nước nghèo và các thị trường mới nổi thoát khỏi khủng hoảng. Theo nhận định của tổ chức này mới đưa ra thì số tiền cần thiết để hồi sinh kinh tế thế giới phải là 4.000 tỉ USD, tương đương 7% GDP toàn cầu và lớn gấp 7 lần con số hiện tại. Bản chất của các hành động trên là nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống tài chính, làm tan băng thị trường tín dụng, ngăn chặn sự lan truyền khủng hoảng sang nền kinh tế thực, chống lại suy thoái kinh tế, tiến tới ổn định thị trường và phục hồi kinh tế. III/ DỰ BÁO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THẾ GIỚI 2009- 2010 Trước tình hình trên, khi mà tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ngày càng rõ rệt thì các tổ chức thế giới đều đưa ra nhận định rằng nền kinh tế thế giới khó mà hồi phục trước năm 2010. Thực tế đã cho thấy điều đó. Thời điểm kết thúc năm 2009 gần đến nhưng nền kinh tế thế giới mặc dù đã có những biến chuyển tích cực nhưng vẫn chưa thể đạt được mức như trước khủng hoảng được. Các nước đều tăng trưởng chậm lại, nhưng sẽ có sự khác biệt lớn giữa các nước phát triển và các nước mới nổi, đang phát triển. Theo IMF, trong World Economic Outlook 10/2009, GDP của các nước phát triển năm 2010 sẽ xấp xỉ khoảng 2-3%, trong đó GDP của các nước đang phát triển sẽ khoảng 6%, và điều đáng chú ý là sự phát triển của Trung Quốc và Ấn Độ, với GDP khoảng 8%. Đây sẽ là 2 nền kinh tế quan trọng trong tương lai và chúng ta sẽ còn chú ý nhiều đến 2 quốc gia này. Nguồn: World Economic Outlook 10/2009 DỰ BÁO CỦA TỔ CHỨC HỢP TÁC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ (OECD) 2008 2009 2010 Thế giới 1,8 1,7 OECD 1,4 - 0,4 1,5 Mỹ 1,4 -0,9 1,6 Nhật Bản 0,5 -0,1 0,6 Eurozone 1 -0,6 1,2 Đức 1,4 -0,8 1,2 Anh 0,8 -1,1 0,9 Pháp 0,9 -0,4 1,5 Italia -0,4 -1,0 0,8 Tây Ban Nha 1,3 -0,9 0,8 Hà Lan 2,2 -0,2 0,8 Thụy Điển 0,8 0 2,2 Thụy Sỹ 1,9 -0,2 1,6 CH Séc 4,4 +2,2 4,4 Hungary 1,4 -0,5 1 Thổ Nhĩ Kỳ 3,3 +1,3 4,2 Canada 0,5 -0,5 2,1 Australia 2,5 +1,7 2,7 Hàn Quốc 4,2 +2,7 4,2 Mexico 1,9 +0,4 1,8 Nhìn chung, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 làm cho nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy thoái, nếu như không có sự cứu vãn kịp thời của Chính phủ các nước, các Ngân hàng Trung ương, các tổ chức thế giới thì có thể cho đến giờ, nền kinh tế thế giới sẽ không thể nào tự mình phục hồi được. Qua đó ta có thể thấy được Nhà nước có vai trò quan trọng như thế nào trong việc đảm bảo nền kinh tế vận hành một cách bình thường. Liệu rằng, sau cuộc khủng hoảng này, một trật tự kinh tế mới được hình thành, một cường quốc mới về kinh tế- không phải Mĩ- xuất hiện, sự thống trị của một đồng tiền khác USD ,... có trở thành hiện thực hay không? Hay nền kinh tế sau khi phục hồi vẫn tiếp tục vận hành như trước? Đó là điều mà bất kì ai cũng quan tâm khi chứng kiến cuộc khủng hoảng vừa rồi- không phải xuất phát từ một nước hay một khu vực nào đó đang lên trên thế giới mà là từ Mĩ- cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới. Có lẽ đã đến lúc chúng ta sẽ thấy sự thay đổi của nền kinh tế toàn cầu- nền kinh tế mà trong hàng chục năm qua đồng dollar là kẻ thống trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mô thức mới cho thị trường tài chính- Cuộc Khủng Hoảng Tín Dụng Năm 2008 Và Ý Nghĩa Của Nó, George Soros. 2. Tài chính tiền tệ thế giới 2008- 2009, Khương Duy. 3. Kinh tế Mĩ 2008: vật lộn chống lại suy thoái, Khương Duy. 4. Kinh tế EU năm 2008 và triển vọng, Nguyễn Thanh Đức. 5. Tác động suy thoái toàn cầu đến Nhật Bản, Bình Giang. 6. Kinh tế các nước đang phát triển tăng chậm, Phạm Thị Thanh Bình. 7. Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam, PGS. TS Nguyễn Văn Luân & PGS. TS Nguyễn Văn Trình. 8. Một số phân tích về nguyên nhân và hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, Bùi Thị Lý. 9. Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Tác động, biện pháp và dự báo, Bài phân tích của phòng NCKT/CSTT đăng trên website Ngân hàng nhà nước về khủng hoảng tài chính quốc tế. 10. The Financial Crisis: A Timeline of Events and Policy Actions, Federal Reserve Bank. 11. The return of depression economics, Pau Krugman. 12. Overview: global financial crisis spurs unprecedented policy actions, Ingo Fender & Jacob Gyntelberg. 13. Timeline of Key Events, Financial Crisis of 2007 – 2009, Timothy Koch- Graduate School of Banking at Colorado, July 13, 2009. 14. World Economic Outlook October 2008, IMF. 15. World Economic Outlook April 2009, IMF. 16. World Economic Outlook October 2009, IMF. 17. Các website: www.imf.org www.forecasts.org www.bloomberg.com www.oecd.org www.vietnamnet.vn www.saga.vn www.vi.wikipedia.com www.vitinfo.com.vn www.globalissues.org/article/768/global-financial-crisis www.vcci.com.vn www.saigontimes.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận - Nguyên nhân, diễn biến khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế 2008.doc