Tiểu luận - Đồng tiền chung Châu Âu

Lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu do các nhà kinh tế Mỹ R. Mundell và R. MC Kinnon đưa ra vào đầu thập kỷ 1960. Xuất phát từ định hướng khi đó của Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) là nhằm đạt được tự do hoàn toàn trong việc lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn và sức lao động, tức là lưu chuyển tự do các “yếu tố sản xuất”. Lý thuyết này đề cập những cơ sở thống nhất của hệ thống tiền tệ Châu Âu và gây được sự chú ý lớn. Nội dung chính của lý thuyết này như sau:

doc54 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5994 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận - Đồng tiền chung Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gày càng khẳng định được vị thế của mình và thực tế đã đem lại cho các doanh nghiệp EU sự chủ động trong kinh doanh và tránh được sự phụ thuộc vào đồng USD. Sự ra đời của đồng Euro còn giúp phục hồi đầu tư trực tiếp nước ngoài. Năm 2002, cùng với sự lưu hành đồng Euro, việc mua bán và hợp nhất các công ty đa quốc gia trở nên sôi động trở lại, thị trường cổ phiếu cũng có dấu hiệu hồi phục. Điều này đã giúp vực dậy FDI toàn cầu thoát khỏi tình trạng suy thoái, đặc biệt ở nhóm các nước đang phát triển. Tác động của đồng Euro đối với một số nền kinh tế Tác động của đồng Euro lên nền kinh tế Mĩ: EU và Mĩ vốn có truyền thống quan hệ hợp tác thương mại chặt chẽ và sâu rộng. Kim ngạch buo5n bán hai chiều giữa Mĩ và EU chiếm tới 4% GNP của EU. EU cũng là khu vực nhận đầu tư nước ngoài lớn nhất của Mĩ và phần lớn đầu tư ra nước ngoài của EU cũng tập trung vào Mĩ. Do vậy, đồng Euro ra đời chắc chắn sẽ tác động nhiều mặt lên nền kinh tế Mĩ. Tác động tích cực Một Châu Âu thông nhất với guồng máy kinh tế vận hành trơn tru nhờ sự bôi trơn của đồng Euro không chỉ mang lại lợi ích cho các nước EU mà còn cho cả các công ty Mĩ đang hoạt động ở khu vực này, thúc đẩy họ đầu tư nhiều hơn vào Châu Âu, và do vậy đem lại cho Mĩ những chiều hướng có lợi như sau: Do được hưởng ưu đãi về giá cả, lạm phát thấp, chi phí giao dịch ngoại hối ít tốn kém, các doanh nghiệp Mĩ hoạt động ở EU sẽ thu về nhiều lợi nhuận hơn, đóng góp một phần không nhỏ và tăng trưởng kinh tế Mĩ. Vì EU sử dụng đồng Euro làm công cụ để điều tiết và ổn định nền kinh tế nên nếu đồng Euro ổn định sẽ đem lại sự phồn vinh cho Châu Âu, đồng thời cho cả nền kinh tế Mĩ dựa vào mối quan hệ thương mại chặt chẽ và cạnh tranh quyết liệt giữa Mĩ và EU. Một thị trường tiền tệ quốc tế lớn mạnh và ổn định sẽ đem lại lợi ích cho cả cộng đồng thế giới. Sự ra đời của đồng Euro chính là minh chứng cho nhận định này. EU và Mĩ sẽ cùng chia sẻ với nhau lợi ích có được từ việc sở hữu đồng Euro. Trước khi đồng Euro ra đời, dù đồng USD chiếm một tỷ trọng rất lớn trong hoạt động thương mại và trên thị trường ngoại hối nhưng chỉ chiếm gần 18% xuất khẩu của thế giới. Tài khoản vãng lai của Mĩ luôn có chiều hướng thâm hụt dẫn đến sự mất cân đối giữa vị trí thương mại của Mĩ và vị trí của đồng USD. Đồng Euro ra đời giúp Mĩ lấy lại cân bằng giữa mức độ sử dụng tiền tệ với tỷ trọng thương mại, qua đó tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế vĩ mô và hợp tác tiền tệ quốc tế, giảm biên bộ dao động tỉ giá hối đoái. Tác động tiêu cực Sự ra đời của đồng Euro đem đến những tác động tiêu cực lên nền kinh tế Mĩ như sau: Đồng Euro ra đời và nổi lên như một thế lực mới trong hệ thống tiền tệ thế giới, thách thức vị trí đồng tôn của đồng USD cũng như làm mất đặc quyền của Mĩ trong việc áp đặt tỷ giá hối đoái của đồng USD tùy tiện theo lợi ích vị kỉ của Mĩ. Trong một thời gian dài, Mĩ đã hưởng lợi từ việc đồng USD là đồng tiền dự trữ chủ yếu của thế giới. Đứng ở địa vị phát hành đồng USD, Mĩ có thể gia tăng lạm phát để giảm dần các khoản nợ Nhà nước bằng đồng USD. Mĩ cũng có thể trả lãi thấp hơn đối với các khoản nợ này. Mĩ còn có lợi thế tài trợ các khoản thâm hụt tài khoản vãng lai bằng chính đồng tiên bản tệ của mình do đồng USD là đồng tiền chủ đạo trong thanh toán quốc tế. Với sự ra đời của đồng USD, Mĩ sẽ phải cân nhắc thật kĩ trước khi sửa đổi một cách độc đoán tỷ giá của đồng USD bởi lẽ giờ đây, Euro đã trở thành địch thủ đối trọng của đồng USD trong thị trường vốn quốc tế. Đồng Euro ngày càng đóng vai trò quan trọng trong trao đổi quốc tế và trong dự trữ ngoại hối. Sự phát triển lớn mạnh của đồng Euro chắc chắn sẽ làm suy yếu vị trí độc tôn của đồng USD. Nếu xu hướng này tiếp tục tiếp diễn, đồng Euro mạnh lên ngang hàng với đồng USD thì thế giới sẽ quy sang cất trữ đồng Euro, bán tháo đồng USD và gây ra những tổn thất to lớn cho kinh tế Mĩ. Đồng Euro ra đời cũng giúp EU tăng cường sức cạnh tranh quốc tế và chia sẻ quyền lực thống trị thế giới của nền kinh tế Mĩ. Hàng năm, Mĩ vẫn thu lợi từ số lượng đồng USD lưu hành bên ngoài nước Mĩ. Do vậy, khi đồng Euro ra đời, tổng giá trị sản xuất trong nước Mĩ có thể bị tổn thất một phần. Đồng Euro cũng sẽ làm ảnh hưởng đến buôn bán của Mĩ. Việc san phẳng mặt bằng luân chuyển các yếu tố sản xuất nhờ nền kinh tế vận hành dưới một đồng tiền chung duy nhất đã giúp hàng hóa khu vực EU có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế nhờ hạ thấp giá cả và nâng cao chất lượng. Điều này tất yếu sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Mĩ đối với EU, thậm chí với cả những nước khác, làm cho thâm hụt của Mĩ với EU và các nước khác có chiều hướng tăng lên. Mĩ cũng sẽ qua rồi cái thời mặc nhiên can thiệp vào tỉ giá hối đoái. Nếu tỷ giá quá cao với đồng USD sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Mĩ còn nếu quá thấp sẽ xảy ra hiện tượng bán tháo đồng USD để quay sang dự trữ và buôn bán bằng đồng Euro. Với ảnh hưởng ngày càng lớn của đồng Euro, Mĩ sẽ phải trở lại đàm phán với Châu Âu trên lĩnh vực kinh tế và tiền tệ bị gián đoạn từ năm 1971. Khi đồng Euro ra đời, vấn đề quyền đại diện của khu vực đồng Euro tại các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, WTO ngày càng được củng cố. Tổng số vốn đóng góp của các nước khu vực đồng Euro tại các tổ chức tài chính này cũng xấp xỉ Mĩ và có thể vượt cả Mĩ, do vậy, EU có thể hạn chế sự áp đảo của Mĩ trong việc bỏ phiếu quyết định các vấn đề tài chính tại các tổ chức này. 2. Tác động đối với kinh tế Nhật Bản: 2.1. Tác động đối với đồng Yên - Trước khi đồng Euro xuất hiện, Nhật Bản không đặt nặng vị trí của đồng Yên trên thị trường tiền tệ thế giới vì sợ gây khó khăn cho xuất khẩu. Trong tình thế đó, đồng Yên chịu sự khống chế khá mạnh của đồng USD. - Sau khi đồng Euro ra đời năm 1999, sức ép từ đồng tiền mới tạo ra khiến Nhật phải thực hiện nhiều chính sách nhằm gây dựng sức mạnh cho đồng Yên, bắt đầu từ việc Thủ Tướng Nhật Obuchi đi Châu Âu và đưa ra đề nghị chia sẻ quyền lực trong một hệ thống tiền tệ thế giời mới ba cực gồm đồng USD, Euro và Yên. - Đồng Euro xuất hiện khiến cho môi trường quốc tế khó khăn hơn rất nhiều cho Nhật Bản, tuy vậy nó cũng khiến cho danh tiếng của đồng Yên được khẳng định trên thị trường tiền tệ thế giới. - Trong tình hình đó, các nhà kinh tế Nhật Bản cho rằng vai trò cực thứ 3 trong hệ thống tiền tệ của đồng Yên hoàn toàn thực hiện được nhờ sức mạnh kinh tế khổng lồ của Nhật Bản và bản thân đồng Yên chiếm 12-15% trong thanh toán quốc tế. => Hiện nay, đồng Yên Nhật đóng vai trò đồng tiền quan trọng thứ 2 sau USD ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 2.2 Tác động đến dự trữ ngoại hối của Nhật Bản: Đồng Euro xuất hiện dẫn đến nhiều thay đổi trong cơ cấu các hệ thống thanh toán quốc tế vốn chủ yếu bằng đồng USD: Nhiều dịch vụ ngoại hối, hợp đồng, thoả thuận liên quan tới sự dụng Euro và Yên làm phương tiện thanh toán Là nước dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, sau khi đồng Euro xuất hiện cơ cấu dự trức ngoại hối của Nhật phải thay đổi. Nhật Bản buộc phải dành 1 phần dự trữ USD cho đồng Euro, dự tính khoảng 1/3. Tác động đến thị trường đầu tư Nhật Bản Đồng Euro giành được tín nhiệm từ các nhà đầu tư dẫn tới đầu tư bằng USD từ Nhật chuyển dần sang Euro khiến cho Mỹ phải lo ngại. Nhật hiện đang nắm giữ 264,5 tỷ USD trái phiếu kho bạc của Mỹ, trái phiếu bán ồ ạt gây giảm giá và tăng lãi suất ở Mỹ. Ngoài ra, 2000 tỷ USD ở Nhật Bản cũng có thể chuyển được sang đồng Euro. 3. Tác động của đồng Euro đối với các nền kinh tế châu Á 3.1 Tích cực - Xuất khẩu châu Á sang châu Âu dễ dàng hơn do chỉ còn một đồng tiền chung thống nhất, cơ hội xuất khẩu cũng ổn định hơn vì châu Âu muốn duy trì tỉ lệ lạm phát thấp. Các nước Châu Á giảm được các chi phí thương mại với khu vực EU, từ đó thúc đẩy tăng trưởng sang khu vực châu Á. - Đồng Euro sử dụng nhiều có thể làm cho đồng USD yếu đi, tạo điều kiện cho các đồng tiền Châu Á gia tăng giá trị, tránh được sự lệ thuộc vào đồng USD sau khủng hoảng. Tuy vậy nhiều nước lại có xu hướng giữ nguyên giá trị đồng tiền nhằm tăng cạnh tranh trong xuất khẩu. - Sử dụng đồng Euro giúp nhiều nước châu Á cần bằng được nguồn dự trữ ngoại tệ thay thế cho đồng USD, phá bỏ thói quen lệ thuộc vào việc sử dụng đồng USD trong dân chúng châu Á. 3.2 Tiêu cực - Đồng Euro ra đời có nghĩa là làm tăng khả năng bảo hộ hàng hoá của khu vực EU thông qua các điều kiện tiêu chuẩn đối với hàng nhập khẩu. Đây là một thách thức lớn đối với các nước Đông Nam Á, nơi có trình độ kỹ thuật thấp.Ngoài ta giá cả thấp trong EU cũng khiến hàng Châu Á khó cạnh tranh với hàng hoá cùng chủng loại. - Viện trợ ra nước ngoài của EU ngày càng giảm sau khi xuất hiện đồng Euro do phải thực hiện nhiều chính sách để đảm bảo yêu cầu lạm phát thấp và nợ nhà nước thấp như trong hiệp ước Maasstricht. Trong khi đó EU thường giúp các nước nghèo phát triển về mặt kỹ thuật, buộc các nước này phải cẩn thận trong chuẩn bị hạ tầng kỹ thuật. - Nợ của các nước châu Á gặp khó khăn hơn do phải thương lượng lãi suất hợp lý đối với nhiều nước khi trả các khoản nợ,do lãi suất giữa các nước chắc chắn có sự khác nhau. Việc kiểm soát số nợ phải thật cẩn thận, nếu không dễ dấn tới không có khả năng thanh toán và khủng hoảng kinh tế như ở Thái Lan và một số nước ASEAN. CHƯƠNG III TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH. I. Tác động của đồng Euro đến nền kinh tế Việt Nam: Quan hệ ngoại giao Việt Nam – EU chính thức được thiết lập từ năm 1990, và cũng kể từ đó, mối quan hệ này dần được phát triển trên cơ sở hợp tác toàn diện. Do vậy sự ra đời của đồng Euro đã có những tác động theo từng mức độ khác nhau trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - thương mại, tài chính… của Việt Nam. Tác động đến quan hệ thương mại Việt Nam – EU: Trong những năm qua, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng được mở rộng. Quan hệ thương mại Việt Nam - EU phát triển rất khả quan, trong 10 năm từ 1990-1999 với quy mô tăng hơn 12 lần và tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 32%. Năm 1999, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt gần 4.500 triệu USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu hơn 3.300 triệu USD, nhập khẩu 1.120 triệu USD. Những mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang EU bao gồm hàng dệt may, giày dép, thủy sản, cà-phê, thủ công mỹ nghệ... Việt Nam nhập khẩu từ EU chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghiệp, hóa chất, tân dược, thực phẩm chế biến... Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và EC cam kết dành cho hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi phổ cập (GSP), gia hạn và tăng hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Trị giá xuất khẩu của Việt Nam  Triệu USD 1995 1997 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 ASEAN 996.9 1913.5 2516.3 2619.0 2553.6 2434.9 2953.3 4056.1 5743.5 6632.6 8110.3 APEC 3998.2 6322.6 7486.2 10097.6 10084.0 11966.9 14832.0 19502.3 24169.7 29337.9 35048.8 EU 664.2 1607.8 2515.3 2845.1 3002.9 3162.5 3852.6 4968.4 5517.0 7094.0 9096.4 OPEC 131.7 199.3 713.4 643.2 757.7 861.5 759.3 813.5 877.5 1415.9 1687.3 Trị giá nhập khẩu của Việt Nam từ EU Triệu USD  1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 EU 710.4 1153.2 1335.2 1246.3 1094.9 1317.4 1506.3 1840.6 2477.7 2681.8 2581.2 3129.2 5142.4 ( Nguồn: Tổng cục thống kê) Hợp tác thương mại giữa EU và Việt Nam có nhiều bước phát triển nhảy vọt cả về chất và lượng. Nếu như khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao - năm 1990 - kim ngạch thương mại đạt khoảng vài triệu USD, thì đ ến n ăm 2007 đạt hơn 9 tỷ USD, đưa EU trở thành đối tác thương mại lớn của Việt Nam với việc tiếp nhận h ơn 18.7% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2008 thương mại hai chiều Việt Nam – châu Âu đạt hơn 21,08 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt hơn 12,4 tỷ USD, chiếm 19,78% kim ngạch xuất khẩu của cả nước; nhập khẩu gần 8,68 tỷ USD, chiếm 10,75% kim ngạch nhập khẩu của cả nước. So với năm 2007, xuất khẩu tăng 78,81% trong khi nhập khẩu tăng 97,49%. Đồng Euro ra đời đã đem lại nhiều thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đó là: Thứ nhất, việc hình thành một thị trường thống nhất về giá cả và đồng tiền thanh toán sẽ thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU, bởi vì các doanh nghiệp này sẽ không phải tập trung quá mức vào các đồng tiền khác nhau của các quốc gia khác nhau trong khối EU. Việc ký kết các hợp đồng dễ dàng hơn, giảm được rủi ro về tỷ giá. Toàn bộ ngoại tệ thu về từ xuất khẩu sang EU được hoạch toán và theo giõi trong một tài khoản duy nhất, từ đó giảm được chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu. Các doanh nghiệp cũng có thể so sánh mức giá chênh lệch của cùng một mặt hàng ở thị trường các quốc gia thành viên để lựa chọn thị trường xuất khẩu thích hợp nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Bên cạnh đó, đồng Euro cũng mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trong một môi trường minh bạch,rõ ràng vì các doanh nghiệp Việt Nam có thể xem xét, so sánh tình hình tài chính, kinh doanh của các đối tác ở các quốc gia trong khu vực đồng Euro. Mặt khác việc sử dụng một đồng tiền chung trong khu vực EU cũng làm giảm chi phí giao dịch trong nội bộ khối này, làm cho hàng nhập khẩu từ EU trở nên rẻ hơn. Thêm vào đó, doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam có thể so sánh các mức giá hàng nhập khẩu để lựa chọn đối tác cung cấp hàng nhập khẩu, đăc biệt khi mặt hàng mà Việt nam nhập khẩu từ EU chủ yếu lại là thiết bị máy móc phụ vụ đầu vào cho tiến trình công nghiệp hoá đất nước. Thứ hai, đồng Euro ra đời đã tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại với những nước khác trong khối EU hiện đang có ít quan hệ thương mại như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Lucxambua... Khi cả châu Âu chỉ sử dụng một đồng tiền chung, thì hàng hoá Việt Nam một khi đã xâm nhập được vào một nước bạn hàng quen thuộc nào đó (như Pháp, Anh, Hà Lan…) chắc chắn sẽ được các nước khác biết đến mà không phải tốn chi phí tiếp thị, quảng cáo. Hơn nữa, các nước này có trình độ phát triển thấp hơn, khách hàng ít khó tính hơn, do vậy hàng hoá Việt nam dễ dàng thâm nhập hơn. Điều này là một thuận lợi lớn để Việt Nam mở rộng kim ngạch xuất khẩu sang EU. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, đồng Euro ra đời cũng đặt ra những khó khăn, thách thức trong quan hệ thương mại Việt Nam – EU. Đó là: Thứ nhất, giá bán hàng hoá của Việt Nam sang EU sẽ phải tuân thủ quy luật giảm dần do giá cả của hàng hoá của EU có xu hướng giảm khi đồng tiền chung ra đời. Sự giảm giá này là tất yếu và dễ so sánh giữa các thành viên với nhau, do vậy, nếu giá cả hàng hoá Việt Nam nhập sang EU cao, điều này sẽ rất dễ nhận ra và có thể làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường EU. Thứ hai, đồng Euro ra đời đã tạo điều kiện cho sự liên kết chặt chẽ hơn, mở rộng các quan hệ nội bộ khối hơn, đặc biệt là bảo hộ khu vực có chiều hướng gia tăng bằng các hàng rào phi thuế quan như các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, nhãn mác sản phẩm… Điều này đòi hỏi hàng xuất khẩu của Việt nam sang EU phải có sưk cải tiến công nghệ và chất lượng bảo quản hơn để có thể đáp ứng các nhu cầu đó. Thứ ba, đồng Euro ra đời không chỉ mở ra triển vọng thương mại Việt Nam – EU mà còn mở ra cơ hội phát triển mối quan hệ thương mại giữa EU với các khu vực và quốc gia khác như Đông Âu, Trung Đông, Địa Trung Hải, châu Phi, Đông Á… Do vậy, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng hoá của các nước và các khu vực khác. Trong tình trạng hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn chủ yếu tập trung ở kỹ thuật trung bình, hàng hoá gia công lắp ráp chiếm tỷ trọng lớn, mẫu mã chưa phong phú, chất lượng chế biến chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm mà EU đặt ra… thì đây là khó khăn lớn đòi hỏi các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam sang EU phải tiếp tục nâng cấp công nghệ và trình độ quản lý, tạo ra sức cạnh tranh mới cho hàng hoá xuất khẩu sang EU. Trong khoảng thời gian hình thành, đồng Euro đã tạo được khá nhiều những thiện cảm của các nhà đầu tư trong khu vực và nước ngoài cũng như được chờ đón đến tay người tiêu dùng vào 01/01/2002. Có thể nói, ngay từ lúc bắt đầu lưu hành trên thị trường ngày 01/01/1999, đồng Euro chưa thực sự mang lại một dấu ấn về một đồng tiền mạnh. Tuy nhiên, sau nhiều biến động kinh tế ở Mỹ những năm vừa qua (chiến tranh, lập quân sự ở Afghanistan, Irag…) và mới đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã đưa nền kinh tế Mỹ xuống dốc nghiêm trọng. Vì lẽ đó đồng USD của Mỹ cũng có sự biến động về tỷ giá gây ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. Trong khi đó, đồng Euro vẫn không bị chao đảo, mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính hầu như đã nhấn chìm toàn bộ thị trường châu Âu. Các chuyên gia kinh tế đã nhận định đồng Euro như “nơi trú ẩn an toàn” cho nguồn vốn của giới đầu tư vì nó đã tạo ra sức hấp dẫn các nhà đầu tư ở chỗ tạo được một cảm giác tin tưởng gần như tuyệt đối. Rõ ràng, đây là bước ngoặt mới cho đồng Euro trên con đường khẳng định vị thế thống lĩnh thị trường tiền tệ thế giới mà đồng USD của Mỹ đang nắm giữ. Tác động của đồng Euro đến quan hệ đầu tư Việt Nam – EU: Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa nhanh chóng như hiện nay, Việt Nam không ngừng đổi mới và phát triển các chính sách kinh tế, cơ sở hạ tầng… theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc phát triển đất nước không phải chuyện một sớm một chiều mà cần phải có thời gian để đưa ra được các chính sách kịp thời và hợp lý. Bên cạnh đó, nhu cầu về vốn là rất lớn, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. EU không chỉ là bạn hàng, là đối tác trong môi trường thương mại, xuất nhập khẩu của Việt Nam mà còn là nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư không nhỏ vào Việt Nam. Năm 1998, EU đã có 197 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký lên tới 4,5 tỷ USD và tăng lên rất nhanh trong những năm tiếp theo. Trong giai đoạn 1990-2001, EU đã có 313 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là 4.183,15 triệu USD, chiếm 10% tổng FDI vào Việt Nam. Trong đó, Pháp có 168 dự án được cấp phép với tổng số vốn 2.583,7 triệu USD; Hà Lan có 46 dự án, tổng số vốn 1.159,95 triệu USD; Đức có 45 dự án với tổng vốn 233 triệu USD; Italia có 17 dự án và tổng vốn 74,1 triệu USD… Những nước này có tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam lớn nhất trong số 8 nước EU có vốn đầu tư vào Việt Nam. Chỉ riêng năm 2001, Việt Nam đã thu hút được 32 dựa án đầu tư từ EU với số vốn đăng ký là 1001 triệu USD. Bảng 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU vào Việt Nam giai đoạn 1990-2001 (Đơn vị tính: triệu USD) STT Nước Số dự án Tổng vốn đăng ký Vốn pháp định 1 Pháp 168 2.582,7 1.346,7 2 Hà Lan 46 1.159,95 642,8 3 Đức 45 233,0 91,9 4 Italia 17 74,1 26,8 5 Áo 8 60,1 52,7 6 Bỉ 20 50,2 19,8 7 Lúc Xăm Bua 8 22,9 11,6 8 Tây Ban Nha 1 0,2 0,1 Tổng 313 4.183,15 2.192,4 % trong tổng FDI vào Việt Nam 8,52 10,05 11,7 (Nguồn: Niên giám thống kê, 2001) EU tập trung đầu tư vào Việt Nam ở các lĩnh vực như công nghiệp xây dựng, dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp. Hầu hết các dự án đầu tư vào Việt Nam có hiệu quả, tạo doanh thu lớn và thu hút 23.000 lao động của Việt Nam. Euro ra đời đã đem lại rất nhiều thuận lợi đối với các nhà đầu tư EU khi chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài và tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam như trong các khía cạnh sau: Thứ nhất, đồng Euro giúp cho việc tính toán, thẩm định các dự án cụ thể được tiến hành nhanh hơn, dễ dàng hơn vì các dự án của các nước EU dều dùng chung một đơn vị tiền tệ khá ổn định, hấp dẫn các nhà đầu tư châu Âu như Euro. Thứ hai, Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu duy trì mức lãi suất thấp đã tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho việc luân chuyển vốn sang các nước đang phát triển, nơi có lãi suất cao hơn, chi phí lao động thấp hơn, nguồn nguyên liệu sẵn có hơn, nhất là khi đồng Euro đã đi vào hoạt động ổn định và tạo ra sức mạnh tương xứng với đồng USD. Thứ ba, nếu như trước đây các nhà đầu tư nắm trong tay 12 đồng tiền quốc gia khác nhau để kinh doanh chênh ệch tỷ giá và phân tán rủi ro thì bây giờ chỉ còn lại duy nhất đồng Euro nên cơ hội thu lợi nhuận khi đầu tư vào chứng khoán EU bị thu hẹp. Vì thế, các nhà đầu tư sẽ chuyển hướng sang thị trường chứng khoán Châu Á (trong đó có Việt Nam), tuy có nhiều rủi ro hơn nhưng hứa hẹn khả năng sinh lợi lớn hơn vì các quốc gia này có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các nước phát triển. Tuy nhiên hầu hết các dự án đầu tư của EU vào Việt Nam đều được tính toán dựa vào đồng USD, chỉ có một số nước như Anh, Pháp, Đức dùng tiền nội tệ của mình để thanh toán nên khi đồng Euro biến động sẽ có ảnh hưởng nhất định đến tất cả các dự án đang thực hiện và các dự án mới. Thứ tư, đối với những dự án đang thực hiện, đồng Euro giảm giá làm các nhà đầu tư dao động, gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án đầu tư. Lúc này vốn ứ đọng, các hoạt động liên quan như nhân lực, môi trường… sẽ gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Vì đồng USD được dùng để tính toán hầu hết các dự án đầu tư của EU vào Việt Nam và đang gây bất lợi cho quan hệ đầu tư Việt Nam – EU. Khi đồng USD lên giá so với đồng Euro thì các nhà đầu tư EU phải chịu chi phí đầu vào cao hơn so với các nhà đầu tư nước ngoài khác tại Việt Nam. Điều này dẫn đến nguy cơ lớn các nhà đầu tư rút vốn khỏi thị trường đầu tư tại Việt Nam và cũng là một trong những nhân tố khiến dòng FDI vào Việt Nam trong vài năm qua suy giảm đáng kể. Thứ năm, đối với các dự án mới, kể cả các dự án sắp bắt đầu và các dự án thực hiện sau năm 2003 khi triển khai đều được tính bằng đồng Euro, hệ thống ngân hàng – tài chính Việt Nam cần có sự cải tổ nhất định về phương thức quản lý , về dự báo tiền tệ và phải tính toán được những rủi ro do đồng Euro mang lại để các dự án có thể thực hiện đúng tiến độ như dự kiến và tránh được những ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Nói tóm lại, chí khi nào đồng Euro hực sự mạnh trên thị trường tiền tệ thế giới, những tác động tích cực đến mơi trường đầu tư của Việt Nam mới rõ ràng và hiệu quả. Hiện nay, sự biến động thất thường của đồng Euro đang đem lại rủi ro cho các nhà đầu tư EU cũng như gây ảnh hưởng nhất định đến khả năng thu hút đầu tư từ EU vào Việt Nam. Để chờ đón một đồng Euro đủ mạnh trong tương lai gần, Việt Nam cần phải có những cải cách thích hợp về môi trường đầu tư, hệ thống tài chính – ngân hàng, phát triển nguồn nhân lực để tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư đến từ khu vực Châu Âu. Tác động đến hệ thống tài chính – tiền tệ của Việt Nam Tác động đến quan hệ vay nợ Việt Nam – EU: Vừa là đối tác thương mại, vừa là nơi cung cấp vốn đầu tư cho Việt Nam, EU còn là nhà tài trợ lớn thứ hai của Việt Nam. EU cam kết viện trợ 2,4 tỷ USD cho Việt Na, chiếm 20% tổng vốn ODA từ các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Vốn vay ODA của EU tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực phúc lợi xã hội: xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế…để giúp Việt Nam hội nhập từng bước vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, việc các thành viên EU phải tuân thủ 5 tiêu chuẩn gia nhập khối đồng tiền chung nhằm đảm bảo cho đồng Euro là đồng tiền mạnh và ổn định đã buộc các quốc gia EU phải thực hiện chính sách tiết kiệm ngân sách ngặt nghèo, xúc tiến mạnh mẽ phát triển kinh tế trong nước. Nhưng theo ông Christoph Wiesner, Phó Đại Sứ - Đại Biện lâm thời phái đoàn EU tại Việt Nam cho rằng “bất cứ lần mở rộng mới nào của EU cũng đều có lời đồn đại EU tập trung “vực dậy” các thành viên mới trong nội khối mà ít quan tam đến việc hướng ra nước ngoài. Nhưng điều ngược lại xảy ra mà Việt Nam là ví dụ điển hình. Khi EU mở rộng, đầu tư vào Việt Nam tăng nhanh, hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào 1 nước EU thì có thể xuất khẩu sang các thành viên còn lại. Người Việt Nam đang ở các nước thành viên mới có thể tự do đi lại đến các thành viên cũ để tạo nên cầu nối thương mại, đầu tư quan trọng giữa Việt Nam và EU”. Đối với các khoản vay nợ của Việt Nam đối với EU được ký kết trước ngày 1/9/1999, nếu được tính bằng đồng Ecu thì đến thời điểm ngày 1/9/1999 sẽ được tự động chuyển sang đồng Euro theo tỷ lệ 1 Ecu = 1 Euro với mức lãi suất và phương thức trả nợ giữ nguyên như hiệp định đã ký kết. Đối với các đồng tiền mạnh của EU – 12 như Francs Pháp, DM Đức…, Việt Nam chuyển thẳng sang tính bằng đồng Euro theo tỷ giá cố định giữa đồng tiền quốc gia đó với đồng Euro mà Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu đã công bố ngày 31/12/1998. các khoản nợ tính bằng các đồng tiền khác như Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… thì Việt Nam chuyển dần sang đồng Euro năm 1999. Các khoản vay nợ từ các nước chưa tham gia Euro như Anh, Đan Mạch, Thụy Điển thì Việt Nam không phải tính lại. Khi đồng Euro ra đời, các quốc gia đều phải quyết định về vấn đề nợ nước ngoài công cộng, đa dạng hóa thành phần và cơ cấu nợ ngoại tệ. thành phần nợ ngoại tệ có liên quan đến vấn đề thu nhập ngoại tệ từ hoạt động ngoại thương. Nợ bằng đồng Euro của Việt Nam sẽ có chiều hướng gia tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ nước ngoài vì quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU đang trên đà phát triển. Việt Nam phải chuyển đổi nợ sang đồng Euro vì dự trữ ngoại tệ chủ yếu của Việt Nam là đồng USD nên nếu USD tăng giá so với Euro thì Việt Nam phải tốn nhiều chi phí khi trả nợ cho EU. Phần lớn các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam với bên ngoài đều tính bằng USD (chiếm 80% tổng phương tiện thanh toán đối ngoại). nếu đồng Euro mạnh so với đồng USD thì sẽ là tăng chi phí dự trữ và sử dụng đồng USD khi phải thanh toán với khu vực EMU bằng Euro. Về viện trợ, EU dùng đồng Euro để viện trợ cho Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ này có nguy cơ giảm sút do ECB đảm bảo tính ổn định của Euro trong giai đoạn đầu chính thức lưu thông, các nước thành viên EMU phải duy trì những điều kiện gia nhập liên minh này do Hiệp ước Maastricht đã đặt ra. Sự ra đời của Euro đang làm thay đổi tỷ trọng dự trữ ngoại tệ thế giới. các ngân hàng trung ương trên thế giới đang tìm cách đa dạng hóa danh mục vồn đầu tư và đồng Euro là phương án thay thế bên cạnh đồng USD và Yên Nhật. Thành phần dự trữ quốc tế chủ yếu dựa vào các hoạt động kinh tế của một quốc gia như định tỷ giá, thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và cơ cấu nợ. Nếu các hoạt động kinh tế phụ thuộc một đồng tiền nhất định, đồng tiền đó sẽ chiếm phần đa số trong dự trữ chính thức của Ngân Hàng Trung Ương quốc gia. Về dự trữ ngoại tệ, theo dự kiến của Ủy ban Châu Âu, đồng Euro sẽ trở thành một đồng tiền dự trữ chính cạnh tranh với USD. Trong ngắn hạn, điều này rất khó thực hiện vì tốc độ tăng trưởng kinh tế của EU chậm chạp và cơ cấu lao động còn kém linh hoạt. Euro ra đời là thay đổi đáng kể trong cơ cấu dự trữ ngoại tệ của các nước đang phát triển, thay vì dự trữ các đồng tiền của các quốc gia thành viên EMU thì bây giờ Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam chỉ cần dự trữ đồng Euro để phục vụ các hoạt động kinh tế đối ngoại với các nước EMU. Đồng Euro ra đời và có tính ổn định cao đang dần phá thế độc tôn của đồng USD từ đó giúp các nước đang phát triển có thể phân tán rủi ro hối đoái mà đồng USD gây ra cũng như tránh được sự phụ thuộc quá mức vào nền kinh tế Mỹ ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Như vậy các nước đang phát triển nói chung cũng như Việt Nam nói riêng sẽ không phải lệ thuộc vào Mỹ khi có các biến động kinh tế và sẽ không phải thực hiện những chính sách không có lợi cho người dân do Mỹ áp đặt. Như vậy, đồng Euro ra đời với tính bền vững và ổn định đã phần nào làm giảm thiểu những rủi ro, những ảnh hưởng tiêu cực mà đồng USD mang lại. Nó góp phần tạo sự ổn định cho hệ thống tiền tệ thế giới nhằm tạo điều kiện cho các nước đang phát triển duy trì và đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế của mình. Tác động đến tỷ giá hối đoái Từ trước đến nay, tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam đã lệ thuộc một cách chặt chẽ và tất yếu vào đồng USD với tuyệt đại đa số dự trữ của Việt Nam đều tính bằng USD (khoảng 80%). Trong khi đó Việt Nam lại có quan hệ với nhiều nước Châu Âu kể cả Đông và Tây Âu nên sự gắn chặt giá VND vào USD đã tăng thêm áp lực lên việc xác định giá trị đồng tiền Việt Nam. Euro ra đời sẽ cạnh tranh quyết liệt với đồng USD trong lưu thông tiền tệ thế giới. Do đó, một đồng tiền yếu như VND sẽ khai thác được những lợi thế này để xây dựng chế độ tỷ giá thích hợp. Sự hợp tác ngày càng chặt chẽ về thương mại và dầu tư giữa Việt Nam và EU càng thúc đẩy phương án sử dụng đồng Euro bên cạnh USD và Yên Nhật trong rổ tiền tệ thay vì tỷ giá đồng Việt Nam luôn gắn với một đồng tiền duy nhất là đồng USD. Việt Nam và tín hiệu vui đối với quan hệ đầu tư và viện trợ của Việt Nam - EU Đầu tư trực tiếp (FDI): Hiện tại EU đang ở vị trí thứ hai sau Nhật về vốn FDI giải ngân. Theo ước tính của Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xét về tổng vốn FDI giải ngân, Liên minh châu Âu (EU) hiện là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn thứ hai ở Việt Nam với 7 tỉ đô la Mỹ, chỉ sau Nhật Bản. EU có tỉ lệ cao nhất xét trên nền tảng cộng dồn mức đầu tư được giải ngân trên tổng mức đầu tư cam kết. Cụ thể, EU cam kết đầu tư 11,8 tỉ đô la và đã giải ngân 7 tỉ đô la (chiếm 60%). Tỉ lệ này cao gấp bốn lần mức trung bình (xét theo vốn giải ngân so với vốn cam kết) của cả nước trong năm 2008, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài cam kết 64 tỉ đô la và giải ngân 11,5 tỉ đô la. Báo cáo của EU về tình hình kinh tế Việt Nam 2009 cho biết EU đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, tiêu thụ khoảng 8,3 tỉ euro giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam (khoảng 12,2 tỉ đô la Mỹ), vượt qua thị trường Mỹ (11,86 tỉ đô la). Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng gấp đôi nguồn vốn FDI vào năm 2010. Trong đó, Việt Nam sẽ xúc tiến đàm phán để ký kết các hiệp định bảo hộ đầu tư với các nước thành viên EU với mục tiêu đưa vốn đầu tư FDI từ EU năm 2010 bằng 1,5 - 2 lần năm 2004. Tính đến tháng 12/2004, các nước EU đã đầu tư vào Việt Nam với 473 dự án có tổng số vốn là 6,9 tỷ USD, dẫn đầu danh sách các nước và vũng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. EU đã được mở rộng lên 25 thành viên với hầu hết các quốc gia châu Âu đã củng cố và nâng cao vị thế của EU và EU đang đặt mục tiêu bao quát toàn châu Âu trong tương lai. Điều này mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam khi có nhiều nước thành viên EU có thiện cảm và quan hệ hữu nghị với Việt Nam. Đặc biệt, EU luôn quan tâm và đáng giá cao sự năng động của thị trường Việt Nam và ASEAN nói chung. Năm 2008, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (FDI) tiếp tục tăng cao. Vốn FDI đăng ký trong năm 2008 (tính đến ngày 20/12/2008) đạt trên 64 tỷ USD, mức tăng kỷ lục kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài 1987 đến nay, tăng hơn 3 lần năm 2007. Viện trợ ODA: Theo bản báo cáo, tổng giải ngân của các dự án và chương trình của EU tại Việt Nam trong năm 2002 lên tới 311 triệu EUR, tăng 4% so với năm 2001 và chiếm tới 20% tổng giải ngân ODA cho Việt Nam. Trong đó, viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 78%, còn lại 22% là các khoản vay và tín dụng. "Điều đó thể hiện rõ vai trò then chốt của EU trong hỗ trợ phát triển tại Việt Nam và cũng chứng tỏ tính hiệu quả của việc thực hiện nguồn vốn ODA đã được nâng cao rõ rệt". ODA của EU chiếm 11,5% tổng vốn ODA cam kết và 9% tổng vốn giải ngân cho Việt Nam. Trong đó, EU là nhà viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho Việt Nam và tốc độ giải ngân ODA ngày càng tăng. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ diễn ra hôm nay, Liên minh châu Âu (EU) tuyên bố khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA) dành cho Việt Nam năm 2007 dự kiến là 720 triệu euro, tương đương 956,8 triệu USD. EU là đối tác đầu tiên công bố cam kết ODA dành cho Việt Nam năm tới. Cam kết về ODA của EU cho VN năm tới giảm nhẹ so với mức 799 triệu euro cho năm 2006. Trong đó, nguồn vốn vay cam kết giảm từ mức 426 triệu euro xuống còn 345 triệu euro cho năm 2007. Tuy nhiên, phần viện trợ lại tăng từ mức 373 triệu euro lên 375 triệu euro. Trong số các nước EU, Pháp cam kết ODA lớn nhất với 281,10 triệu euro, trong đó vốn vay đạt 246,50 triệu euro và viện trợ đạt 34,60 triệu euro. Kế đó là Anh với 74,85 triệu euro (toàn bộ là phần viện trợ); Đan Mạch, với 64,9 triệu euro, trong đó viện trợ 51,5 triệu euro... EU cam kết tiếp tục hỗ trợ ODA cho Việt Nam, đồng thời hỗ trợ về mặt kỹ thuật nhằm thực hiện tốt việc sử dụng nguồn vốn này vì quan điểm của EU sẽ là tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đạt được chỉ tiêu quốc gia có thu nhập trung bình vào năm 2010. Cam kết ODA của các thành viên EU năm 2007: Nước Viện trợ (Triệu euro) Vốn vay (Triệu euro) Tổng cam kết(Triệu euro) Bỉ 9,65 6,03 15,68 Cộng hoà Czech 1,61 0 1,61 Đan Mạch 51,5 13,4 64,9 Phần Lan 18,3 0 18,3 Pháp 34,60 246,5 281,1 Đức 21,5 36,25 57,75 Hungary 0,39 0 0,39 Ireland 17,43 0 17,43 Italy 4,05 38,1 42,15 Luxembourg 10 0 10 Ba Lan 0,25 0 0,25 Hà lan 45 0 45 Tây Ban Nha 14 5 19 Thuỵ Điển 31,5 0 31,5 Anh 74,85 0 74,85 EC 40 0 40 Tổng 374,63 345,28 719,91 (Nguồn: VN Express) Những hạn chế trong đầu tư và viện trợ của EU vào Việt Nam Đầu tư trực tiếp (FDI): Sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là từ EU vào Việt Nam trong năm vừa qua đã làm cho những mặt hạn chế vốn có nhưng chưa, hoặc chậm được khắc phục của môi trường đầu tư nước ta ngày càng bộc lộ rõ nét và trở nên gay gắt hơn. Thứ nhất, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành. Vì vậy trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án (hầu hết các địa phương đều phản ánh vấn đề này). Thứ hai, công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Một số địa phương cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả năng thị trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp. Thứ ba, sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu. Tình trạng thiếu điện dẫn tới cắt điện luân phiên, cắt điện không theo lịch khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn không nhỏ trong việc điều hành và hoàn thành kế hoạch sản xuất. Thứ tư, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt. Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong 3 năm trở lại đây càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự án đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện. Trong khi đó, chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước quá lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Tình trạng đình công đang diễn ra và trở thành áp lực đáng kể với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Thứ năm, công tác giải phóng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được các địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch ngành, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói chung và thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói riêng. Nhiều địa phương đang lâm vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án quy mô lớn như đã cam kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Việc đền bù thu hồi đất, tái định cư, giải phóng mặt bằng và xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào kết nối vào khu vực dự án đầu tư đang là khó khăn lớn nhất đối với triển khai một số dự án FDI quy mô lớn hiện nay, đặc biệt đối với dự án 100% vốn nước ngoài. Theo quy định của Luật Xây dựng, chính quyền địa phương chịu trách nhiệm toàn bộ khâu giải phóng mặt bằng và bàn giao đất sạch cho nhà đầu tư. Tuy nhiên do phải sử dụng ngân sách địa phương để đền bù thu hồi đất và thủ tục giải ngân đối với nguồn vốn ngân sách quá phức tạp và mức đền bù theo quy định chung của Nhà nước không đáp ứng yêu cầu của người được đền bù nên tiến độ giải phóng mặt bằng rất chậm. Tâm lý e ngại nhà đầu tư không triển khai dự án đúng tiến độ sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Như vậy trên thực tế ngân sách nhà nước phải chi một khoản rất lớn ngay từ lúc giải phóng mặt bằng, trong khi đó nếu thực sự dự án có hiệu quả thì cũng phải nhiều năm sau mới có thu ngân sách. Điển hình là một số dự án đầu tư quy mô lớn, sử dụng nhiều diện tích đất mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư tại một số địa phương. Việc sử dụng đất nông nghiệp để đầu tư các khu công nghiệp, khu đô thị, sân golf đang được dư luận gần đây quan tâm. Do các địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nên có tình trạng cấp phép nhiều dự án sử dụng diện tích lớn đất nông nghiệp để đầu tư khu công nghiệp, khu đô thị, sân Golf. Thứ sáu, chủ trương phân cấp trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài là đúng đắn, tuy nhiên trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng bộ, kịp thời, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại một số địa phương còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ nên đã nảy sinh vấn đề cạnh tranh thiếu lành mạnh trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, thiếu sự liên kết vùng, khu vực, ảnh hưởng đến cơ cấu ngành, lĩnh vực đầu tư. Một số địa phương không thẩm tra kỹ về năng lực của các nhà đầu tư trong các dự án có quy mô lớn, chạy đua với nhau trong việc cấp phép các dự án lớn có quy mô hàng tỷ USD. Do vậy, khả năng triển khai các dự án này sẽ rất khó khả thi theo đúng cam kết của nhà đầu tư. Với chủ trương phân cấp như hiện nay, việc cung cấp thông tin đầu tư nước ngoài kịp thời của các địa phương lên trung ương, để phục vụ công tác quản lý, điều hành, phân tích và dự báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam của Chính phủ chưa được quy định rõ ràng. Việc thu thập thông tin về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI hiện đang là khó khăn lớn nhất đối với các cơ quan quản lý đầu tư các cấp, kế cả Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong khi cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác thông tin kinh tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu. Thứ bảy, việc xử lý chất thải của các dự án đầu tư nước ngoài tập trung tại các khu công nghiệp tập trung thuộc vùng kinh tế trọng điểm đã và đang ảnh hưởng nhất định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội, trong đó đặc biệt là đối với các dự án sản xuất quy mô lớn. Thực tế thời gian gần đây các cơ quan chức năng đã phát hiện một số vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường với các hành vi cố ý rất tinh vi của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm ở tất cả các khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến triển khai thực hiện dự án cũng như quá trình hoạt động của dự án đầu tư. Cuối cùng, công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho công tác xúc tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; Trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động; Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung chưa được xác định rõ ràng do còn thiếu một văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này. Viện trợ ODA: Hiện tại EU đang gặp một số vấn đề đáng quan ngại trong việc tăng cường tính hiệu quả của đồng vốn ODA. Trong đó, khối EU đề cập đến khả năng xây dựng năng lực, hệ thống quản lý của Việt Nam; việc đơn giản hoá các thủ tục, quyết định hành chính, tăng cường năng lực cán bộ; tính minh bạch rõ ràng hơn trong chính sách của Việt Nam, hiện tượng phân biệt đối xử giữa các công ty lớn và nhỏ trong việc thực hiện các dự án đầu tư ở Việt Nam. Đề xuất hướng giải quyết: Hạn chế quan liêu – vấn đề tạo ra khoảng cách giữa FDI giải ngân và cam kết tới 81%, tiếp tục quá trình tự do hóa thương mại gồm các cuộc đàm phán về FTA với các đối tác thương mại lớn như là EU Việc tiếp tục tăng cường hệ thống bảo vệ sở hữu trí tuệ, hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực cũng như cơ chế phá sản nhằm thu hút hơn nữa nguồn đầu tư có chất lượng cao đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ. Việc triển khai đúng thời hạn các cam kết WTO cần được lưu tâm đặc biệt, và cụ thể là hệ thống thuế suất đối với đồ uống có cồn nên được điều chỉnh để xóa tan nguy cơ có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Theo ông Christoph Wiesner, Phó Đại sứ, Đại biện lâm thời Phái đoàn EU tại Việt Nam cho rằng: + Việt Nam cần đẩy mạnh cải thiện vai trò nhà nước pháp quyền trong lĩnh vực kinh tế, tạo khung pháp lý với môi trường đầu tư hấp dẫn và hoan nghênh Việt Nam đang soạn thảo để có thể đưa vào áp dụng Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất. + Việt Nam cần phải đẩy mạnh hoạt động của hệ thống tòa án thương mại, đầu tư; tăng cường cơ chế cho sự hành nghề của các luật sư để đối phó với các vụ án kinh tế. + Nhiệm vụ quan trọng trước mắt khác của Việt Nam là phải đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán để các doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn. Làm tốt công tác này, chắc chắn sẽ tạo luồng sinh khí mới trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, giữa doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. II. Một số đề xuất chính sách chủ yếu: 1. Đa dạng hoá nợ: Trong thời gian qua, các biện pháp xử lý nợ của Việt Nam đối với các nước EU là như sau: Nhóm các khoản nợ tính bằng đồng ECU: kể từ ngày 1/1/1999, số nợ của Việt Nam tính bằng đồng ECU sẽ tự động chuyển sang đồng Euro với tỷ lệ 1:1, việc chuyển đổi này không ảnh hưởng gì trong quản lý nợ của Việt Nam, ngoài việc đưa vào đơn vị tiền tệ mới là đồng Euro. Nhóm các khoản nợ tính bằng đồng tiền của các nước trong khối Euro: các khoản nợ này được chia làm 2 nhóm. Một là, nhóm các đồng tiền mạnh như Mác Đức, Fránc Pháp, Việt Nam đã chuyển toàn bộ số dư nợ tính bằng hai đồng tiền này sang đồng Euro ngay từ 1999. Hai là, nhóm các đồng tiền tính bằng đồng tiền yếu hơn như đồng Lia Italia, Peseta Bồ Đào Nha…, thì số nợ này được chuyển dần sang đồng Euro trong năm 1999 và năm 2000. Trong xu hướng tỷ giá biến động thất thường. Vấn đề vay nợ và trả nợ giữa Việt Nam và các nước nói chung, đặc biệt là giữa Việt Nam và EU nói riêng, cần phải có sự nghiên cứu và quan tâm đúng mức sao cho phù hợp với kế hoạch chuyển đổi của từng nước. Đồng thời, cần cơ cấu lại nợ đa dạng hoá b ằng c ách vay nhi ều lo ại ngo ại t ệ kh ác nhau nh ằm tr ánh s ự phụ thuộc vào một đồng ngoại tệ mạnh, nhằm hạn chế những rủi ro về tỷ giá đối với nền kinh tế. 2. Đa dạng hoá dự trữ quốc gia: Dự trữ ngoại t ệ là công cụ đắc lực cho phép Ngân hàng Nhà Nước điều tiết thị trường ngoại hối nhằm tránh những dao động đột ngột của tỷ giá nhưng không cản trở đến xu hướng phát triển chung của thị trường. Trong xu hướng đồng USD có nhiều biến động tỷ giá trên thị trường thì việc đa dạng hoá quỹ dự trữ ngoại tệ sẽ cho phép việc tránh được việc giá trị của quỹ bị giảm khi có sự thay đổi tỷ giá giữa các đồng tiền mạnh. Vì vậy các biện pháp cần thiết phải tiến hành là: Ngân hàng Nhà Nước phải xem xét lại cơ cấu dự trữ ngoại hối hiện tại, để có những điều chỉnh tương ứng với mục tiêu đa dạng hoá dự trữ ngoại tệ. Nên chuyển một phần số dự trữ hiện có sang đồng Euro và các đồng ngoại tệ mạnh khác để giảm dần sự phụ thuộc vào đồng USD. 3. Chính sách hạn chế tình trạng đôla hoá: Theo Quỹ tiền tệ quốc tế: Đôla hoá nền kinh tế là tình trạng phổ biến của các nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi, khi mà tình trạng buôn lậu chưa kiểm soát được thường xuyên thâm hụt cán cân vãng lai, sức mua đối ngoại cuả đồng nội tệ còn hạn chế và chưa ổn định, hệ thống ngân hàng chưa phát triển, nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng còn nhiều tồn tại, nền kinh tế còn ở trình độ thấp, người dân có thói quen nắm giữ USD và vàng, khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ chưa có, các quy định pháp luật chưa được thực hiện nghiêm chỉnh… Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng đôla hoá như trên. Vấn đề là phải tạm thời chấp nhận, khai thác mắt tích cực của nó, hạn chế tác động bất lợi, thu hút nguồn kiều hối và thu hút vốn đầu tư nước ngoài đưa về nước; thu hút nguồn ngoại tệ trong xã hội vào hệ thống ngân hàng, tạm thời chấp nhận tình trạng đôla hoá tài sản có trong ngân hàng, hơn là đôla hoá trong xã hội. Các giải pháp dự kiến trong thời gian tới cần thực hiện như sau: Kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, thu hẹp phạm vi và đối tượng bán hàng và dịch vụ ở trong nước được phép thu bằng ngoại tệ, mà chỉ thu bằng nội tệ. Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, cũng như linh hoạt hơn khi Bộ Tài chính mở rộng việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu chiến lược của nền kinh tế. NHNN tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm sự can thiệp sâu vào hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại; rà soát các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá, bãi bỏ những quy định không phù hợp hay chồng chéo. 4. Cải tổ hệ thống ngân hàng: Trước sự ra đời của đồng Euro, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải có sự chuẩn bị và cải tổ để có thể thích ứng nhanh với những diễn biến của đồng tiền Euro trên thị trường thế giới. Cụ thể là: Một là, cũng như ngân hàng trung ương của các nước châu Á khác, ngân hàng Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng trước tác động của đồng Euro đối với dự trữ ngoại tệ, tỷ giá hối đoái và chính sách lãi suất trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Xu thế giảm lãi suất chung trên toàn thế giới, đặc biệt là Mỹ và EU đã tạo thuận lợi cho các nước châu Á ổn định tỷ giá, hạ lãi suất, làm yên lòng các nhà đầu tư. Vì vậy, khi nền kinh tế Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể trong một vài năm gần đây, ngân hàng nhà nước nên điều chỉnh hạ bớt trần lãi suất cho vay VND để tăng khả năng cạnh tranh và tạo đà tăng trưởng mới cho nền kinh tế. Hai là, các NHTM nên xem xét tập trung các tài khoản bằng các loại ngoại tệ của thành viên EMU để đổi sang đồng Euro và quyết định mởi tài khoản bằng đồng Euro tại một số ngân hàng lựa chọn. Ba là, ngân hàng thương mại Việt Nam cũng cần bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên về đồng Euro bằng cách tổ chức các hội thảo hay nhờ hướng dẫn nghiệp vụ của các chuyên gia từ châu Âu. 5. Tăng cường sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu: Cho đến nay thị trường EU vẫn là thị trường trọng điểm trong quan hệ thương mại của Việt Nam và có xu hướng sẽ được mở rộng trong những năm tới nhằm đẩy nhanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Vì vậy, cần phải có những biện pháp tích cực, hơn nữa dể tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường EU sau khi đồng Euro đã đủ sức mạnh của nó trên thị trường thế giới. Cụ thể là: Thứ nhất, Chính phủ nên tăng cường đàm phán cấp nhà nước với các nước EU để ký kết các hợp đồng về việc cho vay vốn hỗ trợ doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trên thị trường EU. Thứ hai, Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu vào EU. Chẳng hạn như tổ chức các cuộc hội thảo mang tính quốc gia để giúp cho doanh nghiệp quen dần với hệ thống tiền tệ mới, giúp các doanh nghiệp có được những thông tin về thị trường tiền tệ châu Âu, vấn đề chuyển đổi đồng Euro như thế nào, tỷ giá so với các đồng tiền khác được công bố ra sao. Thứ ba, để cho các doanh nghiệp có thể tham gia các hoạt động đầu tư, thương mại với các quốc gia EU, Nhà nước cần giúp các doanh nghiệp có sự tiếp xúc với đồng Euro, hướng các doanh nghiệp mở các tài khoản bằng đồng Euro để kịp thời thanh toán khi dao dịch thương mại diễn ra. Thứ tư, khi đồng Euro ra đời, cũng có nghĩa là Việt Nam cần đổi mới công nghệ chế biến hàng xuất khẩu hơn nữa để nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện mẫu mã, giá cả, từ đó tăng sức cạnh tranh của sản phẩm khi sản xuất sang thị trường EU. Thứ năm, nên mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, khai thác thêm các thị trường mới trong khu vực sử dụng đồng EU. 6. Cải thiện môi trường đầu tư: Nguồn vốn đầu tư là cực kỳ quan trọng cho việc phát triển kinh tế, trong thời kỳ đất nước ta còn đang trong tình trạng đang phát triển. Do vậy, chính phủ cần tăng cường các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư nhằm kịp thời xử lý các khó khăn vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư trên thế giới. Cụ thể là: Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng tạo sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng và ổn định. Thứ hai, xây dựng hệ thống cơ chế chính sách cụ thể để cải thiện môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, nhất là đối với các lĩnh vực địa bàn và các dự án ưu tiên khuyến khích đầu tư. Thứ ba, để đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, chính phủ nên chỉ đạo việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ tư, đơn giản hoá thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quy trìnhvà thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí kinh doanh và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Thứ năm, nâng cao năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, mở rộng thẩm quyền và trách nhiệm của các địa phương nhằm giải quyết kịp thời các vướng mắc hỗ trọ tốt nhất cho các nhà đầu tư. Thứ sáu, đầu tư cải thiện điều kiện hạ tầng cơ sở như cung cấp điện nước, thông tin cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận - ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU.doc
Tài liệu liên quan