Thương nghiệp nông thôn trung du Bắc Bộ qua trường hợp chợ làng ở huyện Phú Bình - Tỉnh Thái Nguyên

Hình ảnh này của các chợ làng trung du Bắc Bộ (qua trường hợp chợ làng ở Phú Bình) vẫn cơ bản đúng với nhận định của GS Phan Đại Doãn về chợ làng vùng châu thổ: "mạng lưới chợ vừa là biểu hiện của sự bế tắc của kinh tế tiểu nông, vừa là biện pháp giải quyết bế tắc đó. Nó thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá trong kinh tế tiểu nông, đồng thời nó cũng góp phần bổ sung và duy trì kinh tế tiểu nông". Hai mặt khác biệt này cùng tồn tại, cùng phát huy tác dụng tạo nên tính ổn định (hoặc thay đổi rất chậm) của cấu trúc hàng hoá chợ. Chợ làng không những không làm giải thể kinh tế tiểu nông làng xã mà còn góp phần củng cố cấu trúc kinh tế truyền thống lấy nông nghiệp làm cơ sở [1,69]. Như thế, tổng quan mà nói chợ nông thôn ở Phú Bình nói riêng - chợ làng trung du Bắc Bộ nói chung - khác biệt với chợ phiên miền núi, và mang nhiều nét ảnh hưởng của chợ phiên vùng đồng bằng Bắc Bộ hơn.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thương nghiệp nông thôn trung du Bắc Bộ qua trường hợp chợ làng ở huyện Phú Bình - Tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 85 - 89 85 THƯƠNG NGHIỆP NÔNG THÔN TRUNG DU BẮC BỘ QUA TRƯỜNG HỢP CHỢ LÀNG Ở HUYỆN PHÚ BÌNH - TỈNH THÁI NGUYÊN Đỗ Hằng Nga* Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Trong lịch sử, chợ làng ra đời là kết quả của sự phát triển quan hệ hàng hóa và thủ công nghiệp. Ở vùng đồng bằng, trung du, hay miền núi, chợ làng đều có vai trò thương nghiệp rất quan trọng. Với vị trí cầu nối giữa vùng đồng bằng châu thổ với miền núi non hiểm trở phía Bắc, đến nay diện mạo chợ làng ở huyện Phú Bình vẫn bảo lưu nhiều sắc thái của chợ truyền thống, thể hiện trên các khía cạnh như cách thức họp chợ, địa điểm và thời gian họp chợ, thành phần thương nghiệp ở chợ,... Sự tồn tại của mạng lưới chợ làng ở địa phương trung du này trong lịch sử và trong thời hiện đại không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn là sự kết hợp của nếp sống, tập quán văn hóa giữa cư dân miền trung du với cư dân đồng bằng và cư dân miền núi. Từ khóa: Thương nghiệp, trung du, chợ, làng xã, Phú Bình. Theo "Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam" định nghĩa: “chợ là nơi gặp nhau giữa cung và cầu các hàng hoá, dịch vụ, vốn, là nơi tập trung hoạt động mua bán hàng hoá giữa người sản xuất, người buôn bán và người tiêu dùng. Quy mô tính chất của chợ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế. Chợ có vai trò chủ yếu là nơi tiêu thụ hàng hoá, đồng thời cũng có ảnh hưởng kích thích ngược lại đối với sản xuất. Ở nhiều vùng miền núi, chợ còn là nơi sinh hoạt văn hóa của đồng bào các dân tộc. Chợ là nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày, những buổi nhất định, tức là đã hình thành nên các chợ phiên. Quy mô và tính chất của chợ rất đa dạng: có loại chợ nông thôn tự sản, tự tiêu; có loại chợ mang tính chất khu vực hay một vùng rộng lớn... Có thể xem chợ là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của một địa phương.* Qua các bộ chính sử, chúng ta biết rằng từ cuối thế kỷ XV, với thể lệ lập chợ của vua Lê Thánh Tông, chợ làng đã hình thành ở hầu hết các vùng nông thôn. Nhà nước định lệ “các huyện, châu, xã ở các xứ trong nước, nhân dân ngày một nhiều, nơi nào muốn chia mở chợ mới để tiện mua bán thì quan phủ, huyện, châu khám xét quả thực tiện lợi cho dân thì làm bản tâu lên, cho theo tiện lợi mà họp * ĐT: 0923136980 chợ” (Đại Việt sử ký toàn thư, T.III, tr.259). Chợ làng ra đời là kết quả của sự phát triển quan hệ hàng hóa và thủ công nghiệp. Trong xã hội nông thôn Việt Nam nói chung và nông thôn trung du Bắc Bộ nói riêng, gia đình tiểu nông vừa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị tiêu thụ các sản phẩm do chính các hộ gia đình làm ra. Một phần sản phẩm dư thừa được đem mua bán, trao đổi ở chợ. Chợ làng - chợ nông thôn, vì thế có vai trò thương nghiệp rất quan trọng. Chợ làng truyền thống ở Phú Bình có từ bao giờ không ai nhớ nổi và không có sách vở nào của các làng xã ghi chép lại. Nhưng sự tồn tại của mạng lưới chợ làng quê miền trung du ở địa phương này trong lịch sử và cả ở thời hiện đại, chắc chắn không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn là sự kết hợp đẹp đẽ của nếp sống, tập quán văn hóa giữa cư dân miền trung du với cư dân miền núi và miền xuôi. DIỆN MẠO CHỢ LÀNG - CHỢ NÔNG THÔN Ở HUYỆN PHÚ BÌNH Mật độ các chợ Theo kết quả điều tra nghiên cứu của một số nhà chuyên môn như giáo sư Nguyễn Đức Nghinh và Nguyễn Thị Hòa thì không phải bất cứ làng Việt nào cũng có chợ. Ở một số tỉnh đồng bằng có dân cư đông đúc như Thái Bình và Hà Nam thì cứ khoảng 7 km2 có 1 chợ, và từ 3 đến 6 làng có 1 chợ [4]. Là một địa phương trung du Bắc Bộ - "đệm" giữa Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 85 - 89 86 miền núi và châu thổ, mật độ chợ nông thôn ở Phú Bình có phần thưa thớt hơn. Toàn huyện có tất cả 21 xã với 315 thôn làng nhưng chỉ có 12 chợ (tỉ lệ là 1,8 xã thì có một chợ, hay 26 thôn làng thì có một chợ; bài viết này tác giả chỉ đề cập đến chợ truyền thống). Mật độ chợ trên số đơn vị tụ cư cơ sở thấp hơn so với một vài địa phương khác trong tỉnh như huyện Đại Từ (25 chợ/31 xã), huyện Định Hóa (18chợ/24 xã), hay huyện Đồng Hỷ (14chợ/18 xã). Số lượng ít và sự phân bố khá thưa thớt của chợ nông thôn ở Phú Bình càng khẳng định vai trò của chợ đối với đời sống của cư dân trong vùng. Người dân đến chợ để mua các vật dụng, nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất nông nghiệp, đồng thời đem bán các sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi gia đình. Cách thức họp chợ Trừ các chợ huyện, chợ thị trấn (không mang tính chất thương nghiệp nông thôn thuần túy), thì hầu hết các chợ làng ở Phú Bình cũng như ở các huyện khác trong tỉnh Thái Nguyên đều là dạng chợ phiên, họp theo những chu kỳ nhất định. Do đó, phiên nào cũng nhộn nhịp, tấp nập kẻ mua người bán. Theo GS Phan Đại Doãn, sự phát triển của chợ làng sẽ tạo ra một “vùng liên làng” theo chu kỳ phiên họp trong từng tháng. Một số làng gần nhau được phân chia họp chợ trước sau theo thời gian tuần tự tạo ra sự lưu thông hàng hoá trong "một vòng khép". Cứ như vậy, lần lượt suốt tháng quanh năm, ngày nào người nông dân cũng có điều kiện trao đổi hàng hoá ở các chợ làng [1,69]. Hiện tượng “vùng liên làng” có ở nhiều nơi trên đất nước ta. Trung du Bắc Bộ cũng không ngoại lệ. 12 chợ nông thôn ở Phú Bình tạo thành nhiều chu kỳ chợ luân phiên kế tiếp họp vào những ngày nhất định trong tháng. Để tiện theo dõi, tác giả đã nhóm các chợ cùng khu vực địa lý trong huyện Phú Bình thành nhóm như sau: Nhóm chợ I: Chợ Tân Khánh (xã Tân Khánh) họp vào các ngày 1, 3, 6, 8, 11, 13, 16, 18, 21, 23, 26, 28; chợ Lũ Yên (xã Đào Xá) họp vào các ngày 2, 5, 7, 12, 15, 17, 22, 25, 27 âm lịch; chợ Bảo Lý (xã Bảo Lý) họp vào các ngày 4,9,14,19,24,29 âm lịch. Nhóm chợ này đáp ứng nhu cầu mua bán cho 8 xã vùng tả ngạn sông Máng, gồm Đồng Liên, Bàn Đạt, Đào Xá, Tân Khánh, Tân Kim, Tân Thành, Tân Hòa và Bảo Lý. Nhóm chợ II: Chợ Đình (xã Xuân Phương) họp vào các ngày 4,9,14,19,24,29 âm lịch; chợ Đồn (xã Kha Sơn) họp vào các ngày 1, 3, 6, 8, 11, 13, 16, 18, 21, 23, 26, 28; chợ Tân Đức (xã Tân Đức) họp vào các ngày 2, 5, 7, 10, 12, 15, 17, 20, 22, 25, 27, 30 âm lịch. Nhóm chợ này đáp ứng nhu cầu mua bán cho 7 xã vùng có địa hình trung bình gồm Xuân Phương, Kha Sơn, Dương Thành, Thanh Ninh, Lương Phú, Tân Đức, Hương Sơn. Nhóm chợ III: Chợ Quán Chè (xã Nga My) họp vào các ngày 4, 14, 24 âm lịch; chợ Hanh (xã Thượng Đình) họp vào các ngày 1, 3, 6, 8, 11, 13, 16, 18, 21, 23, 26, 28; chợ Cầu (xã Nhã Lộng) họp vào các ngày 2, 5, 7, 12, 15, 17, 22, 25, 27 âm lịch. Nhóm chợ này đáp ứng nhu cầu mua bán cho 6 xã vùng nước kênh núi Cốc gồm Hà Châu, Nga My, Điềm Thụy, Thượng Đình, Nhã Lộng, Úc Kỳ. Qua cách nhóm các chợ như trên cho thấy các phiên chợ phân bố theo địa giới khu vực phủ kín các ngày trong tháng (âm lịch). Các chợ cách nhau từ 2 đến 6 km họp thành một nhóm với sự xen kẽ phiên họp, nhờ vậy mà khâu cung cầu mua bán các sản phẩm nông nghiệp, hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng của nông dân trong huyện được điều hòa. Địa điểm họp chợ Theo truyền thống, các chợ nông thôn Việt Nam nói chung và ở Phú Bình nói riêng đều được nhóm họp trên một khu đất rộng khá bằng phẳng, có vị trí giao thông đường bộ hoặc đường thủy thuận tiện, nơi tập trung đông dân cư. Chợ Đồn ở trung tâm xã Kha Sơn hay chợ Cầu ở trung tâm xã Nhã Lộng đều nằm sát Quốc lộ 37, con đường bộ quan trọng dẫn nối tất cả các đường liên làng liên thôn trong xã lên thị trấn. Chợ Đình của làng Phương Độ (gọi là chợ Đình vì chợ họp trên một khu đất rộng ngay phía sau đình làng) thì nằm cạnh lối lên xuống của bến sông, có vai trò thương nghiệp quan trọng không chỉ với Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 85 - 89 87 dân làng Phương Độ (xã Xuân Phương) mà còn đối với dân của một số làng lân cận khác như Xuân La, Úc Kỳ (một xã nằm bên kia sông Cầu - đối diện với Phương Độ), Nhã Lộng, Tân Kim, Bảo Lý... Chợ Tân Đức của xã Tân Đức nằm ven con sông Đào đã có từ thời Pháp thuộc. Thành phần buôn bán Không khác nhiều chợ làng truyền thống ở đồng bằng Bắc Bộ, thương nghiệp chợ làng ở Phú Bình bao gồm: Một số người buôn bán chuyên nghiệp, có lều quán như hàng xén, hàng vải, hàng thịt, hàng cá, hàng lương thực, hàng thực phẩm chế biến... số lượng không nhiều lắm; Một số nông dân chạy chợ “đòn gánh đè vai, lấy công làm lãi” thường xuất hiện vào dịp nông nhàn, hoặc từ những nhà đông người “thừa nhân lực”; và những người tiểu nông đem các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủ công ra trao đổi [1,68]. Hàng hóa trao đổi ở chợ Như ở hầu hết các chợ quê khác, cơ cấu hàng hóa được buôn bán trao đổi ở các chợ nông thôn Phú Bình chủ yếu là các sản phẩm của nông nghiệp và các mặt hàng phục vụ cho đời sống và hoạt động sản xuất của cư dân thuần nông. Bởi vậy, dễ thấy khi thóc, gạo, ngô, khoai, sắn, rau quả là hàng hóa được bày bán chủ yếu ở chợ. Theo nguồn tư liệu điền dã từ lời kể của các cụ cao niên thì trước kia một số chợ phiên ở nông thôn Phú Bình cũng có bán những mặt hàng nông sản chuyên biệt. Chẳng hạn, chợ Đình (xã Xuân Phương) trước đây hàng hóa đem trao đổi chủ yếu là thóc. Người nhiều thóc thì đem ra bán bớt, người ít thóc nhưng cần tiền cũng đành mang thóc đi bán. Thóc Phương Độ đủ nắng, đủ nước nên hạt mẩy lại ngon gạo thu hút được nhiều lái buôn xa gần miền xuôi cũng như miền ngược. Ngoài ra, đến mùa thì ở chợ Đình lại xuất hiện thêm một mặt hàng đặc sản của địa phương là cam, quýt. Cũng theo lời các cụ cao tuổi ở làng thì trước đây cả bãi soi rộng lớn ven sông Cầu chỉ để trồng loại quả này. Đến mùa quả chín, đỏ rực cả một vùng bãi sông. Cam quýt của làng hợp đất hợp nước Phương Độ, lại thêm sự chăm sóc khéo léo và chuyên cần của con người nên cho quả vừa ngọt vừa thơm được coi là đặc sản của huyện Tư Nông xưa [2,49]. Sách "Đại Nam nhất thống chí" có ghi ở trang 156 rằng: "Cam vàng quýt đỏ huyện Tư Nông" là vật cống tiến, dâng lễ trong các dịp hội làng xưa kia. Cuốn Tiểu chí Thái Nguyên của Công sứ Echinar thì viết "Đặc sản của Phú Bình là quýt, trên suốt dọc sông Cầu những vườn quýt nối tiếp nhau. Quýt ở đây rất nổi tiếng, nhất là vùng Phương Độ" (tr.153). Nhưng từ ngày hợp tác hóa nông nghiệp, cả vùng bãi soi của làng bị chia nhỏ cho từng đội sản xuất. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp không có tác dụng kích thích sức sản xuất của từng cá nhân. Thiếu sự đầu tư chăm sóc nên vùng bãi soi trồng quýt bị tàn lụi dần. Cho đến nay, câu chuyện về làng ven sông trồng quýt chỉ còn lại trong tâm trí của những người cao tuổi. Ngoài các sản phẩm của trồng trọt như thóc, gạo, hoa quả, rau đậu các loại, hàng hóa ở chợ còn có các sản phẩm của đánh bắt và chăn nuôi như các loại cá, trứng, gà, vịt, lợn giống, thịt lợn,... Mỗi phiên thường có từ 10 đến 15 phản thịt, nếu trùng với ngày Sóc vọng hoặc hội làng thì con số này có thể lớn hơn, tùy theo mức độ tiêu thụ thịt của ngày hôm đó mà các lái thịt nhanh chóng điều hòa, hoặc lấy thêm hoặc mang bớt thịt sang bán ở chợ khác [2,49]. Mặc dù trên địa bàn huyện Phú Bình có 2 con sông chảy qua là sông Cầu và sông Đào (sông Máng), nhưng đáng chú ý là lượng tôm cá được bán ở các chợ không nhiều. Mỗi phiên chỉ có vài ba hàng cá, trong số đó có những hàng buôn chuyên nghiệp mang cá từ nơi khác đến bán. Điều này được lý giải là do thực tế những năm gần đây nước sông Cầu bị ô nhiễm do chất thải của một số nhà máy, xí nghiệp, cộng thêm các hoạt động khai thác cát sỏi bừa bãi trên sông khiến cho môi trường sinh thái của sông bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đây không còn là điều kiện sinh trưởng thuận lợi cho các đàn cá lớn, khiến cho nguồn thủy sản vốn đã nghèo nay lại càng trở nên khan hiếm hơn [2,50]. Để bù đắp cho sự thiếu hụt lượng tôm, cá tươi mà ở các chợ còn có Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 85 - 89 88 nhiều hàng bán các loại cá khô được đưa từ miền biển lên để làm thức ăn cho người. Ngoài ra, các chế phẩm như đầu cá, tôm tép, cá tạp nhỏ đã được sơ chế phục vụ cho chăn nuôi. Bên cạnh chức năng cung cấp thực phẩm nhằm đáp ứng cho nhu cầu ăn uống của nhân dân, chợ nông thôn ở Phú Bình còn là nơi mà người dân các làng xã có thể mua bán các vật dụng cho sinh hoạt gia đình và phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đó là các sản phẩm của đan lát mây tre và rèn thủ công do chính tay người nông dân làm ra, từ rổ, rá, nong, nia, chổi rơm cho đến cày bừa, cuốc xẻng... Số lượng các hàng bán những đồ này không nhiều và thường người bán là cố định. Tuy nhiên, đây cũng chưa phải là hoạt động kinh tế chính của họ (như ở các làng nghề vùng đồng bằng), mặc dù sản phẩm là do chính tay họ làm ra. Người dân chỉ kết hợp làm thêm vào dịp nông nhàn hoặc khi có người đặt hàng. Thu nhập chính vẫn là từ nông nghiệp trồng lúa và hoa màu. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CHỢ LÀNG Ở PHÚ BÌNH VỚI CÁC CHỢ VÙNG ĐỒNG BẰNG VÀ MIỀN NÚI Qua thực tế tìm hiểu đặc điểm của mạng lưới chợ nông thôn ở Phú Bình, tác giả đi đến một số nhận định sau: Chợ làng vùng trung du Bắc Bộ (qua trường hợp chợ làng ở Phú Bình) không giống hoàn toàn với các chợ làng ở vùng đồng bằng. Nếu như ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, chợ làng khá dầy đặc và họp thường xuyên, đó là biểu hiện của nền kinh tế hàng hoá mở rộng, thì ở trung du Bắc Bộ mật độ các chợ làng thưa thớt hơn. Điều này là thực tiễn để chứng minh cho nhận định "chợ là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của một địa phương" mà tác giả đã nêu ở phần đầu bài viết. Như chúng ta đều biết, chợ ở các làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ - nơi có các ngành nghề thủ công truyền thống phát triển đưa đến sự tập trung nhiều làng nghề - thì cơ cấu mặt hàng được trao đổi có sự khác biệt rõ rệt, thể hiện qua sự phong phú về chủng loại và số lượng của các loại lương thực, thực phẩm, hàng tạp hóa. Đặc biệt là sự hiện diện của các gian hàng đầy ắp các sản phẩm của tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở địa phương... có sức lôi cuốn hấp dẫn khách buôn và khách du lịch gần xa như chợ Đại Bái bán đồ đồng; chợ Thổ Hà, chợ Bát Tràng chuyên bán hàng sành gốm; chợ Vân Chàng, chợ Nho Lâm chuyên bán hàng rèn sắt, v.v; thì các chợ nông thôn ở Phú Bình đơn thuần chỉ là một chợ quê với những mặt hàng trao đổi tương đối đơn giản. Các sử sách thời phong kiến cũng chỉ nhắc đến vùng đất này như một địa phương thuần nông "Dân phần nhiều làm ruộng, đánh cá, đốn củi, ..." (Đồng Khánh địa dư chí), chứ không thấy nhắc đến sự phổ biến của các làng nghề thủ công như miền xuôi. Ở đây, nền kinh tế tiểu nông còn mang tính tự sản tự tiêu, tự cấp tự túc nên một điều dễ hiểu là lưu lượng tiền tệ được trao đổi ở chợ không lớn. Các chợ làng vùng trung du Bắc Bộ (qua trường hợp chợ làng ở Phú Bình) càng khác biệt với các chợ phiên miền núi. Đối với vùng cao, chợ là đầu mối, là điểm nút của hầu hết những sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Ngoài mục đích mua bán, trao đổi hàng hóa, chợ phiên miền núi còn là nơi giao lưu văn hóa của đồng bào các dân tộc địa phương, là nơi gặp gỡ trò chuyện tâm tình của người thân và nam nữ thanh niên. Không gian phiên chợ không chỉ là không gian mua sắm mà còn là không gian của ngày hội. Trong khi đó, chợ phiên miền trung du như Phú Bình chỉ thực hiện một chức năng duy nhất là đầu mối trao đổi hàng hóa của dân làng sở tại và một số làng lân cận. Chức năng văn hóa như chợ phiên miền núi không có ở chợ nông thôn Phú Bình. Có sự khác biệt này là do địa hình trung du Bắc Bộ nói chung và Phú Bình nói riêng không quá khó khăn cho việc đi lại như miền núi. Vì thế, cư dân ở đây có nhiều cơ hội tiếp xúc cộng đồng hàng ngày. Chức năng văn hoá của phiên chợ mờ nhạt, và hầu như không còn trong xã hội hiện đại. Chợ làng vùng trung du Bắc Bộ (qua trường hợp chợ làng ở Phú Bình) là hình ảnh của kinh tế thương nghiệp mang tính tự sản tự tiêu ở các làng xã thuần nông. Đỗ Hằng Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 85 - 89 89 Mạng lưới chợ nông thôn ở Phú Bình là sản phẩm của quá trình mở rộng nền kinh tế hàng hoá nhỏ đã tồn tại lâu đời. Cơ cấu mặt hàng mang trao đổi ở chợ chủ yếu vẫn là nông sản mà phần nhiều là sự tự sản tự tiêu trong vòng của kinh tế tự túc tự cấp. Địa phương trung du này không nằm trong vùng làng nghề phát triển, nên chợ làng chỉ giải quyết được nhu cầu mua bán một số nhu yếu phẩm phục vụ cho sinh họat và sản xuất nông nghiệp của dân làng mà không có điều kiện để tạo ra mối liên kết trong sản xuất và tiêu thụ một mặt hàng thủ công nào. Chợ làng là nơi người tiểu nông bán những sản phẩm chưa dùng đến, và mua những mặt hàng gia đình đang thiếu hụt. Hình thức trao đổi ở chợ, xét cho cùng cũng là vật đổi vật, bán vật này để mua vật kia, vai trò của tiền tệ không lớn lắm. Hình ảnh này của các chợ làng trung du Bắc Bộ (qua trường hợp chợ làng ở Phú Bình) vẫn cơ bản đúng với nhận định của GS Phan Đại Doãn về chợ làng vùng châu thổ: "mạng lưới chợ vừa là biểu hiện của sự bế tắc của kinh tế tiểu nông, vừa là biện pháp giải quyết bế tắc đó. Nó thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá trong kinh tế tiểu nông, đồng thời nó cũng góp phần bổ sung và duy trì kinh tế tiểu nông". Hai mặt khác biệt này cùng tồn tại, cùng phát huy tác dụng tạo nên tính ổn định (hoặc thay đổi rất chậm) của cấu trúc hàng hoá chợ. Chợ làng không những không làm giải thể kinh tế tiểu nông làng xã mà còn góp phần củng cố cấu trúc kinh tế truyền thống lấy nông nghiệp làm cơ sở [1,69]. Như thế, tổng quan mà nói chợ nông thôn ở Phú Bình nói riêng - chợ làng trung du Bắc Bộ nói chung - khác biệt với chợ phiên miền núi, và mang nhiều nét ảnh hưởng của chợ phiên vùng đồng bằng Bắc Bộ hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Phan Đại Doãn, Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006. [2]. Trần Thị Thái Hà, Yếu tố kinh tế - văn hóa cổ truyền của một làng Việt trung du Bắc Bộ, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử bảo vệ tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội. [3]. Nguyễn Quang Ngọc, Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2009. [4]. Nguyễn Đức Nghinh, Trần Thị Hòa, Chợ làng trước cách mạng Tháng Tám, Tạp chí Dân tộc học, số 2/1981. [5]. Tư liệu điền dã. SUMMARY COMMERCIAL IN THE NORTH MIDLANDS IN CASE OF THE VILLAGE MARKETS IN PHU BINH - THAI NGUYEN PROVINCE Do Hang Nga* College of Sciences – TNU In the past, the village market was born as a result of the development of relations and handicraft goods. In the plains, midland and mountainous, commercial roles of village markets is very important. Connecting the plains and the mountains, here and now, the village markets in Phu Binh are preserving many characteristics of traditional market, example the ways of organizing markets, place and time to make the market, composition of traders... The existence of market in Phu Binh is not only makes economic sense but also cultural significance, it is a combination selective of delta and northern mountains. Key words: Commercial, midland, markets, villages, Phu Binh. Phản biện khoa học: TS. Lương Thị Hạnh – Trường Đại học Khoa học - ĐHTN * ĐT: 0923136980

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuong_nghiep_nong_thon_trung_du_bac_bo_qua_truong_hop_cho_l.pdf