Hoạt động du lịch và giải pháp tăng cường đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch ở các tỉnh Nam Trung Bộ

+ Xây dựng mạng lưới liên kết đào tạo truyền bá kinh nghiệm trong hoạt động du lịch để tăng cường năng lực cho nguồn lực cán bộ phục vụ du lịch, như tổ chức hội nghị về kinh nghiệm nâng cao năng lực cho cán bộ du lịch của các trường ĐH, CĐ, các nhà quản lý du lịch trên địa bàn các tỉnh Nam Trung bộ để rút kinh nghiệm và nhìn lại thực trạng hoạt động du lịch của địa phương mình, đơn vị mình. + Tổ chức các hội thi cán bộ du lịch giỏi để vừa động viên nhân rộng các gương điển hình, các cá nhân có những kinh nghiệm, có những thành tích trong hoạt động du lịch, vừa là dịp để mọi cán bộ phục vụ trong lĩnh vực này ngẫm nghĩ và điều chỉnh lại mình. Tóm lại, hoạt động du lịch là một lĩnh vực đòi hỏi sự kết hợp rất nhiều các hoạt động xã hội, trong đó vai trò nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực này, kể cả nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào hoạt động du lịch và cả nguồn nhân lực của toàn xã hội. Vì vậy, đầu tư cho du lịch trước hết là đầu tư phát triển nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực này. Phải thực sự ưu tiên phát triển nguồn nhân lực bên cạnh việc bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và danh thắng, nếu muốn giữ gìn sự phát triển du lịch bền vững. Có như vậy, du khách đến du lịch một địa phương trên địa bàn các tỉnh Nam Trung bộ không chỉ đam mê thích thú với văn hóa và thiên nhiên cảnh vật nơi đây, mà còn hài lòng với lối ứng xử chuyên nghiệp của những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Và như vậy, mới tạo điều kiện cho du lịch phát triển bền vững, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa các tỉnh Nam Trung bộ nói riêng và cả nước nói chung

pdf7 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động du lịch và giải pháp tăng cường đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch ở các tỉnh Nam Trung Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑAÏI HOÏC ÑOÂNG AÙ Soá 04-201188   TrAO ÑOåI Nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách để giúp các tỉnh Nam Trung bộ vừa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của mình vừa thúc đẩy các hoạt động phát triển du lịch trên địa bàn miền Trung. Phát triển du lịch được Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng nêu rõ là “... một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm phát triển Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Về phía chủ quan, lãnh đạo các tỉnh Nam Trung bộ và nhân dân nơi đây đã xác định được tầm quan trọng đặc biệt của việc phát triển du lịch để vừa tăng thu nhập, phát triển ngành nghề kinh tế vừa tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. Bởi vậy trong thời gian qua, du lịch các tỉnh Nam Trung bộ đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Du khách biết nhiều đến các di sản văn hoá ở khu vực này, như: - Văn hoá tiền sử, sơ sử trên đất Nam Trung bộ với hệ thống các di tích tiền Sa Huỳnh, như Bàu Dũ, với loại hình “Cồn sò điệp”, Bàu Trám, bãi Ông và các di tích thời đại Sa Huỳnh ở Quảng Nam, như Tam Mỹ, Tam Giang, Gò Đình, Đồi Vang,... Đặc biệt là di chỉ khảo cổ học Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi và các di chỉ khảo cổ cùng thời ở Bình Định, Phú Yên, như di chỉ Cồn Đình, Gò Ốc, Giồng Đồn, Hòn Một...Tất cả những điều đó minh chứng sự hội tụ văn hoá tiền Sa Huỳnh - Sa Huỳnh - tiền Chămpa trên mảnh đất này từ thời tiền, sơ sử. - Văn hoá Chămpa với đầy đủ những di tích và huyền thoại của nó, như khu đền thờ Mỹ Sơn, di tích Trà Kiệu, Phật viện Đồng Dương, nhóm tháp Khương Mỹ, Chiêm Đàn, Bằng An... ở Quảng Nam; thành Châu Sa, thành Cổ Lũy, thành Bàn Cờ và nhiều các loại tượng Chàm, bia ký Chàm ở Quảng Ngãi; các đền tháp, thành luỹ ở Phú Yên, như tháp Nhạn, tháp Đông Tác, tháp Núi Bà, thành Hồ,... Đền, tháp, thành lũy Chăm không to lớn, đồ sộ như đền tháp Ấn Độ, Khơme, nhưng không kém phần uy linh, đường bệ, “ kiến trúc Chăm có những nét đặc sắc riêng về chất liệu và kỹ thuật xây dựng: tháp Chăm được xây bằng những viên gạch lớn với lớp vữa kết dính rất mỏng, tưởng chừng không có mạch hồ”(1). Đó được coi là những sắc thái kiến trúc độc đáo của một nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Chăm.  PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh* (*) Phụ trách khoa Du lịch Đại học Đông Á (1) Sở VHTT Quảng Nam (2006), tr.212  TrAO ÑOåI ÑAÏI HOÏC ÑOÂNG AÙ Soá 04-2011 89   - Văn hoá dấu tích lịch sử - cách mạng vô cùng phong phú và đa dạng của miền Trung với hệ thống thành luỹ, dinh trấn, hoàng thành, kinh thành từ thời các chúa Nguyễn và triều Nguyễn, như khu di tích Trường Lũy được xây dựng từ thế kỷ XVII, có chiều dài khoảng 130km, kéo dài từ huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (tỉnh Bình Định), Phủ đường Tam Kỳ, Nghĩa Trũng viên ở Quảng Nam; lăng mộ, nhà lưu niệm các danh nhân văn hóa, các chí sĩ yêu nước, như lăng mộ và đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, Trần Khánh Dư, Trần Quý Cáp, Hoàng Diệu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,... ở Quảng Nam; mộ và đền thờ của Lương Văn Chánh, Lê Thành Phương ở Phú Yên... Đó là hệ thống cảng thị và phố thị cổ ở Hội An, Nước Mặn ở Bình Định... Đó là hệ thống di tích lịch sử cách mạng vô cùng phong phú và đa dạng, như di tích núi Chùa, chùa Hang, nhà lao Hội An, Thông Đăng, di tích các vụ thảm sát Sơn - Cẩm - Hà, Vĩnh Trinh, Thủy Bồ, Bình Dương, khu di tích nước Oa, địa đạo Phú An, Kỳ Anh, chiến thắng Núi Thành ở Quảng Nam, vụ thảm sát Sơn Mỹ ở Quảng Ngãi, vụ thảm sát ở Bình Sơn, Tây Sơn ở Bình Định, vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh, địa đạo Gò Thì Thùng, di tích lịch sử - văn hóa quốc gia Vũng Rô ở Phú Yên,... Ngoài các di tích văn hoá nói trên, Nam Trung bộ còn lưu giữ nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể và cảnh quan sinh thái tự nhiên thơ mộng, trữ tình, như: - Văn hoá sinh thái vùng miền đa dạng với một Nam Trung bộ của bờ biển và đầm phá, của đồng bằng ven sông, của đồi bãi và núi rừng; GS. Trần Quốc Vượng khi nói về xứ Quảng, đã viết: “Dưới cái nhìn địa - văn hóa, xứ Quảng là một đa phức thể (multiplex) văn hóa săn - hái - nương rẫy - khai thác vàng (Bồng Miêu và vùng xung quanh), ngọc - khoáng sản, lâm sản ở vùng cao, văn hóa trồng trọt và chăn nuôi ở vùng đồng bằng, văn hóa chài cá, buôn bán, chế tạo thủy tinh ở vùng biển”(1). Và xứ Quảng trong nền cảnh chung của Nam Trung bộ là như vậy. - Văn hoá tộc người với những nét đặc trưng rất phong phú và đa dạng. Nơi đây lưu giữ nhiều nét bản sắc văn hoá các tộc người nói ngôn ngữ Việt - Mường, Hán - Hoa, Môn - Khơme, Nam Đảo. Nét đặc sắc văn hoá tộc người ở đây là tính đa dạng và độc đáo về loại hình, như loại hình kinh tế - văn hoá hái lượm săn bắn và nương rẫy ở vùng núi cao của người Cơtu, người Bana, Êđê, Xêđăng, Kor, văn hóa nương rẫy và ruộng nước vùng gò đồi bán sơn địa của người Hrê, người Chăm Hroi, văn hóa nông nghiệp dùng cày của người Việt ở vùng đồng bằng duyên hải mà cho đến nay còn lưu giữ rất nhiều những yếu tố truyền thống, như nhà rường, trang phục áo dài khăn đóng, cấu trúc dòng họ, giáp, phe, đền, miếu, đình, chùa... - Sinh thái tự nhiên thơ mộng, trữ tình, như bãi biển Sơn Trà - Điện Ngọc, núi Bà Nà, Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng, Cù Lao Chàm ở Quảng Nam... (1) Sở VHTT Quảng Nam (2006), tr.37 ÑAÏI HOÏC ÑOÂNG AÙ Soá 04-201190   TrAO ÑOåI Rõ ràng trên mảnh đất Nam Trung bộ chứa đựng rất nhiều danh thắng và giá trị văn hoá đặc trưng; nhiều danh thắng và giá trị văn hoá trong số đó đã được khai thác hiệu quả vào hoạt động du lịch, như bãi biển Sơn trà, núi Bà Nà, thánh địa Mỹ Sơn, phố thị Hội An,... Có những giá trị văn hoá đang ở dạng tiềm năng du lịch, như hoạt động lễ hội, làng văn hóa sinh thái, văn hoá tộc người...Tuy nhiên ở mỗi địa phương, thế mạnh về tiềm năng du lịch có sự khác nhau. Đà Nẵng có thế mạnh về dịch vụ du lịch, về du lịch sinh thái biển, văn hoá làng nghề, văn hoá Chăm, văn hoá đình chùa, như bãi biển Sơn Trà, nghề chạm khắc đá, bảo tàng Chàm; Quảng Nam có thế mạnh về du lịch văn hoá lịch sử với di sản văn hoá thế giới Hội An và Mỹ Sơn; Quảng Ngãi là văn hóa tộc người thiểu số Chăm Hroi, Bana, Kor, du lịch Trường Lũy, du lịch chứng tích tội ác chiến tranh Sơn Mỹ và du lịch khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất; Bình Định là du lịch quê hương Nhà Tây Sơn và bảo tàng Quang Trung; Phú Yên lại có thế mạnh là du lịch sinh thái biển, du lịch danh thắng (đầm Ô Loan, thắng cảnh gành Đá Đĩa, vũng Rô), di tích lịch sử văn hóa và lịch sử cách mạng (tháp Nhạn, thành Hồ, Cổ Thành, địa đạo gò Thì Thùng...). Thế mạnh văn hóa đó kết hợp với những chính sách ưu tiên hợp lý của các tổ chức chính quyền trên địa bàn của các tỉnh Nam Trung bộ và sự quan tâm của thế giới về các di sản văn hóa tiêu biểu trên vùng đất này... Tất cả những điều đó đã thúc đẩy du lịch các tỉnh Nam Trung bộ phát triển. Chính du lịch nơi đây đã tạo nên một nguồn thu đáng kể và cung cấp việc làm cho một số lượng đông đảo người dân địa phương. Theo bà Võ Thị Thắng, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục du lịch Việt Nam, du lịch luôn đạt 10% tổng GDP và cung cấp việc làm cho khoảng 10,7% lực lượng lao động ở nước ta(1), thì du lịch các tỉnh Nam Trung bộ tổng thu nhập và cung cấp việc làm cho người lao động không dưới những con số đó. Tuy nhiên, việc phát triển du lịch của một địa phương điều quan trọng hàng đầu là phải hoạch định một chiến lược phát triển du lịch bền vững. Muốn làm được điều đó, chúng ta cần phải chú trọng đến môi trường xã hội thân thiện, sản phẩm văn hóa phục vụ du lịch đa dạng, môi trường thiên nhiên và sản phẩm thiên nhiên phục vụ du lịch thơ mộng, hữu tình và không thể thiếu nhân tố nguồn lực con người phục vụ trong lĩnh vực du lịch. Bởi vậy muốn phát triển bền vững du lịch, chúng ta phải tính đến đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho lĩnh vực này, vì nếu thiếu nhân tố đó thì dù có nhiều sản phẩm văn hóa, có nhiều di sản văn hóa được thế giới công nhận, và dù thiên nhiên có thơ mộng hữu tình đến đâu thì du lịch vẫn không thể phát triển một cách bền vững được, ví như một số khách du lịch nước ngoài than phiền về việc họ bị “chặt chém”, bị biến thành “bò sữa”, bị “đối xử thiếu văn hóa” “vì chèo kéo, chụp ảnh, mua quà lưu niệm” và “việc làm dối, xây dựng kịch bản thiên lệch về văn hóa truyền thống”(2). Việc không đào (1) Võ Thị Thắng (1998), tr. 16 (2) Trần Diễm Thúy (2010), tr 22 TrAO ÑOåI ÑAÏI HOÏC ÑOÂNG AÙ Soá 04-2011 91   tạo một cách bài bản đội ngũ làm công tác du lịch và việc thiếu sự truyền bá, giáo dục văn hóa cho người dân địa phương đã làm cho bộ mặt của du lịch bị kệch cỡm, nhiễu loạn. Vì vậy muốn phát triển du lịch vấn đề trước nhất là đào tạo nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực này. Phải nói rằng trong những năm gần đây, việc đào tạo và thu hút nguồn nhân lực phục vụ du lịch ở tỉnh Nam Trung bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực. Trước hết, phải thấy rằng trên địa bàn của tỉnh và khu vực miền Trung đã có nhiều trường đại học quan tâm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch: ĐH Đông Á, ĐH Quảng Nam, ĐH Phan Chu Trinh, ĐH Sư phạm Đà Nẵng, ĐH Huế, ĐH Duy Tân, ĐH Phú Xuân đã mở các chuyên ngành Du lịch, đào tạo những sinh viên có kiến thức về văn hóa, về nghiệp vụ du lịch. Cũng cần phải nói thêm là lãnh đạo các sở ban ngành của các tỉnh Nam Trung bộ đã có những quan tâm tích cực đến việc phát triển du lịch nói chung và đạo tạo cán bộ phục vụ du lịch nói riêng, nên nhìn chung nguồn lực hoạt động trong lĩnh vực này đã đáp ứng cơ bản yêu cầu phức tạp của môi trường ngành công nghiệp không khói. Nhiều cán bộ đã từng bước đi vào chuyên môn hóa các lĩnh vực du lịch khác nhau, như chuyên môn hóa hướng dẫn viên du lịch, lữ hành du lịch, lễ tân, nhà hàng, buồng, bàn, bar... Tuy nhiên, việc đào tạo đội ngũ làm công tác du lịch ở các tỉnh Nam Trung bộ nói riêng và cả nước nói chung còn đang gặp nhiều bất cập, nguồn nhân lực phục vụ lĩnh vực này không đạt được kết quả như mong đợi. Bởi vì đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch không chỉ có trình độ văn hóa, sự hiểu biết sâu rộng về đất nước, con người Việt Nam, khu vực và thế giới mà còn cần có những nghiệp vụ, thao tác cần thiết về các lĩnh vực phục vụ du lịch; thiếu một trong những yếu tố đó, nguồn lực sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch bền vững. Theo chúng tôi, đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch ở nhiều địa phương trong đó có các tỉnh Nam Trung bộ đang tồn tại những hạn chế sau đây: - Thiếu những hiểu biết cần thiết về nghiệp vụ du lịch; đó là những những thao tác, kỹ năng hợp lý nhằm đáp ứng các nhu cầu trong hoạt động du lịch, như nghiệp vụ lữ hành, hướng dẫn, nghiệp vụ lễ tân, khách sạn, nhà hàng... Việc đào tạo một đội ngũ cán bộ phục vụ du lịch không chỉ có những kiến thức nghiệp vụ được học trong các trường ĐH, CĐ mà còn phải có sự liên kết thực hành ở các doanh nghiệp, công ty ngoài xã hội; ngược lại, chỉ có những kiến thức thực hành ngoài công ty xí nghiệp mà không được đào tạo qua các trường lớp du lịch thì sẽ mất căn bản, vì chỉ nắm được những thao tác du lịch cụ thể, riêng lẻ mà thiếu nền tảng của một người làm công tác du lịch. Thực tế, có một số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này không qua những trường lớp đào tạo du lịch mà chỉ tiếp nhận các tri thức nghiệp vụ qua thực hành ở các khách sạn nhà hàng; hơn nữa “các kỹ năng thực hiện công việc cụ thể ở từng bộ phận trong doanh nghiệp du lịch còn mơ hồ,... giao tiếp bằng ngoại ngữ, ÑAÏI HOÏC ÑOÂNG AÙ Soá 04-201192   TrAO ÑOåI quản lý nhân sự, maketting và bán hàng, tài chính kế toán còn lúng túng”(1). - Thiếu đào tạo các cán bộ chuyên nghiệp ở các lĩnh vực khác nhau của hoạt động du lịch; trong đào tạo ở các trường, thường chỉ truyền đạt cho sinh viên những kiến thức chung về văn hóa và nghiệp vụ phục vụ du lịch, thiếu đào tạo chuyên sâu các chuyên ngành để hình thành đội ngũ cán bộ chuyên môn hóa công việc phục vụ du lịch của mình. Vì vậy ở các trường cần phải có chương trình đào tạo chuyên sâu các chuyên ngành khác nhau, như hướng dẫn viên du lịch, marketing du lịch, lữ hành du lịch, lễ tân khách sạn,... - Thiếu việc tuyên truyền quảng bá công tác xã hội hóa du lịch về tận các địa phương để hình thành một đội ngũ những người làm công tác du lịch sâu rộng trong toàn dân, cả những người dân trực tiếp tham gia hoạt động du lịch, như dẫn đường, sản xuất các mặt hàng phục vụ du lịch mua sắm, lĩnh vực du lịch tại nhà, du lịch cộng đồng... để mỗi người dân trở thành một cán bộ phục vụ du lịch. Bởi vậy công tác đào tạo cán bộ phục vụ cho du lịch cũng cần phải tính đến một đội ngũ chuyên môn hóa quảng bá các hoạt động du lịch cho cộng đồng xã hội. - Một điểm yếu của đội ngũ cán bộ phục vụ du lịch là khả năng hiểu biết văn hóa địa phương, khả năng chủ động tìm tòi sáng tạo những cái mới trong sản phẩm du lịch, trong khai thác lữ hành du lịch, trong hướng dẫn viên du lịch, trong lễ tân khách sạn nhà hàng. Họ thường phục vụ cho khách du lịch theo khuôn mẫu đã định sẵn, như bài hướng dẫn cho du khách đến một di tích lịch sử thì từ năm này sang năm khác đều không thay đổi, một tour du lịch được khai thác năm này sang năm khác không có gì mới, những mặt hàng lưu niệm, những món ăn ở nhà hàng khách sạn dường như cứ thế mà tồn tại. - Tiềm năng du lịch văn hóa của Nam Trung bộ rất phong phú nhưng việc quy hoạch, thiết kế và quảng bá để biến tiềm năng thành sản phẩm du lịch chưa được chúng ta thực hiện thật hiệu quả. Từ trước đến nay có không ít những tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực du lịch chỉ tập trung khai thác các tour du lịch đã định sẵn, và các công ty du lịch lữ hành quảng bá, khai thác các tour du lịch chồng chéo lên nhau. Việc mở rộng các loại hình du lịch văn hóa sinh thái núi, văn hóa sinh thái đồng bằng, du lịch văn hóa tộc người thiểu số ở vùng rừng núi, du lịch cộng đồng, du lịch home stay, du lịch mạo hiểm, du lịch chữa bệnh, du lịch hội nghị, du lịch thể thao... chưa được quan tâm và đầu tư quy hoạch, thiết kế. Bởi vậy các tour du lịch hiện nay ở Nam Trung bộ như những món ăn định sẵn, đã đến lúc bão hòa “nhàm chán”, trong khi đó những tour du lịch mới lạ dường như vẫn chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. - Sự liên kết hợp tác trong hoạt động du lịch của các tổ chức, các công ty du lịch, lữ hành ở các tỉnh Nam Trung bộ chưa được bền chặt; hiện nay đang tồn tại một hiện tượng cạnh tranh du lịch thiếu lành mạnh giữa các (1) Nguyễn Văn Mạnh (2007), tr. 8  TrAO ÑOåI ÑAÏI HOÏC ÑOÂNG AÙ Soá 04-2011 93   địa phương trong khu vực; các công ty du lịch trong khu vực hoạt động riêng lẻ, thiếu tính thống nhất và liên kết. Điều này đã được ông Yoshiaki Noguchi phát biểu tại hội thảo “Miền Trung, điểm đến với du khách Nhật Bản” tổ chức tại Hội An ngày 15/05/2010 đại ý: Tại Việt Nam, du lịch Huế, Hội An, Mỹ Sơn được coi là những vùng riêng biệt, theo ông, tất cả đều nằm trong một Concept du lịch “Đặc trưng du lịch vùng” với sự phối hợp chặt chẽ của các công ty du lịch để truyền đạt sức hút của vùng du lịch này đến du khách . - Cuối cùng, một điểm yếu cũng cần phải đề cập đến ở đây trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch là việc thiếu tổ chức thường xuyên và thậm chí là không tổ chức các hội thảo, các hội thi liên quan đến lĩnh vực du lịch để truyển đạt kinh nghiệm cho nhau, thấy được những điểm mạnh và yếu của các tổ chức phục vụ du lịch, tuyên dương những gương điển hình. Vì vậy, hoạt động của cán bộ trong lĩnh vực này thiếu cọ xát, sáng tạo; điều đó đã tạo nên một sức ỳ, tính bảo thủ trong hoạt động phục vụ du lịch của mình. Từ những thuận lợi và khó khăn trên, thiết nghĩ chúng ta cần có những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Nam Trung bộ nói riêng và cả nước nói chung; những giải pháp đó là: + Tập trung mọi nguồn lực của nhà nước và nhân dân, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức trên thế giới để tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho du lịch. Các trường ĐH trên địa bàn của các tỉnh Nam Trung bộ cần phải chú trọng kết hợp đào tạo văn hóa phục vụ du lịch và các nghiệp vụ cần thiết, tăng cường sự kết hợp giữa nhà trường mà trực tiếp là sinh viên ngành du lịch với các doanh nghiệp, các công ty hoạt động du lịch trên địa bàn, để vừa hướng nghiệp cho sinh viên vừa kết hợp lý luận và thực tiễn nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ vừa nắm vững các kiến thức văn hóa vừa có kỹ năng nghiệp vụ phục vụ cho du lịch; ngành học này nên có một thời gian học cơ sở chung và sau đó chia thành các phân ban chuyên ngành, như chuyên ngành hướng dẫn viên du lịch, marketing du lịch, lữ hành du lịch... + Thường xuyên mở các lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đang công tác trong các tổ chức liên quan đến lĩnh vực du lịch để đào tạo lại, tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ và cấp chứng chỉ cần thiết. Theo đó, các tổ chức quản lý du lịch của các tỉnh cần có những quy định chế tài về việc các cán bộ phải có những chứng chỉ du lịch cần thiết mới được quyền hoạt động trong các lĩnh vực này. + Thường xuyên tổ chức tuyên truyền bằng những hình thức lồng ghép vào các chương trình quảng cáo, các sinh hoạt đoàn đội, các tiết học ngoại khóa của học sinh các trường phổ thông và bằng các phương tiện thông tin hiện đại, như chương trình phát thanh truyền hình địa phương để lồng ghép các nội dung tuyên truyền văn hóa, giáo dục ý thức coi trọng văn hóa phục vụ du lịch cho ÑAÏI HOÏC ÑOÂNG AÙ Soá 04-201194   TrAO ÑOåI người dân, nhằm “...qua du lịch mọi người hiểu nhau hơn, đoàn kết với nhau hơn, thân thiện với nhau hơn, để cố kết hình thành một cộng đồng du lịch”(1). + Xây dựng mạng lưới liên kết đào tạo truyền bá kinh nghiệm trong hoạt động du lịch để tăng cường năng lực cho nguồn lực cán bộ phục vụ du lịch, như tổ chức hội nghị về kinh nghiệm nâng cao năng lực cho cán bộ du lịch của các trường ĐH, CĐ, các nhà quản lý du lịch trên địa bàn các tỉnh Nam Trung bộ để rút kinh nghiệm và nhìn lại thực trạng hoạt động du lịch của địa phương mình, đơn vị mình. + Tổ chức các hội thi cán bộ du lịch giỏi để vừa động viên nhân rộng các gương điển hình, các cá nhân có những kinh nghiệm, có những thành tích trong hoạt động du lịch, vừa là dịp để mọi cán bộ phục vụ trong lĩnh vực này ngẫm nghĩ và điều chỉnh lại mình. Tóm lại, hoạt động du lịch là một lĩnh vực đòi hỏi sự kết hợp rất nhiều các hoạt động xã hội, trong đó vai trò nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực này, kể cả nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào hoạt động du lịch và cả nguồn nhân lực của toàn xã hội. Vì vậy, đầu tư cho du lịch trước hết là đầu tư phát triển nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực này. Phải thực sự ưu tiên phát triển nguồn nhân lực bên cạnh việc bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và danh thắng, nếu muốn giữ gìn sự phát triển du lịch bền vững. Có như vậy, du khách đến du lịch một địa phương trên địa bàn các tỉnh Nam Trung bộ không chỉ đam mê thích thú với văn hóa và thiên nhiên cảnh vật nơi đây, mà còn hài lòng với lối ứng xử chuyên nghiệp của những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Và như vậy, mới tạo điều kiện cho du lịch phát triển bền vững, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa các tỉnh Nam Trung bộ nói riêng và cả nước nói chung TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Văn Mạnh (2007), “Đào tạo nguồn nhân lực bậc đại học cho ngành du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11 [2] Sở VHTT Quảng Nam (2006), Di tích và danh thắng Quảng Nam, tr.212 [3] Trần Đức Thanh (1999), Nhập môn khoa học du lịch, NXB ĐHQG Hà Nội, tr 141 [4] Võ Thị Thắng (1998), “Văn hóa và du lịch văn hóa”, Tạp chí Cộng sản, số 11. [5] Trương Điện Thắng (2010), “Người làm du lịch càng phải thể hiện tình yêu dân tộc mình”, báo Thanh Niên ngày 16.5 [6] Trần Diễm Thúy (2010), Văn hóa du lịch, NXB Văn hóa Thông tin, tr 22. (1) Trương Điện Thắng (2010), tr. 4

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfy_hoat_dong_du_lich_4816_1998109.pdf
Tài liệu liên quan