Thực trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định

Bình Định là 1/28 tỉnh, thành giáp biển, được xem cửa ngõ phía Đông rất quan trọng đối với vùng kinh tế Tây Nguyên, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. Trong thời gian qua, Bình Ðịnh đã có nhiều cố gắng tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cảng biển, KKT, đô thị, xây dựng các khu, cụm công nghiệp, các khu du lịch. Từ đó, đã hình thành nên bộ khung lãnh thổ với 3 tiểu vùng dựa trên cơ sở phát huy vai trò các hành lang quốc lộ 19, quốc lộ 1A, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về biển và đất đai của tỉnh.

pdf8 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 12/03/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 04(16)/2010: tr. 119-126 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ TỈNH BÌNH ĐỊNH HOÀNG QUÝ CHÂU Trường Đại học Quy Nhơn Tóm tắt: Bình Định là địa phương có điều kiện khá thuận lợi về vị trí địa lí và sự phân hóa lãnh thổ tương đối rõ nét về nguồn lực tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực cùng với sự phân bố các hình thức TCLTKT mang tính đặc thù của lãnh thổ. Cũng chính từ đó, tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định đã được xác định theo ba tiểu vùng kinh tế. Mỗi tiểu vùng có những thế mạnh riêng. MỞ ĐẦU Bình Định là địa phương có vị trí địa lí khá thuận lợi, được xem là đầu mối phía Đông của trục đường 19 - hành lang kinh tế Đông - Tây nối giữa Duyên hải và Tây Nguyên tốt nhất. Đặc biệt, Bình Định có cảng Quy Nhơn và tương lai gần có cảng Nhơn Hội với hậu phương cảng rộng lớn và hấp dẫn đối với các tỉnh Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Thái Lan. Ngoài ra, Bình Định còn có sự phân hóa khá rõ nét về lãnh thổ giữa bộ phận phía Tây và bộ phận phía Đông với những lợi thế nổi bật có ý nghĩa đối với tổ chức lãnh thổ kinh tế (TCLTKT). Từ đó, tạo điều kiện hình thành ở địa phương này ba tiểu vùng kinh tế với sự kết hợp các hình thức TCLTKT khá đa dạng. 1. MỘT SỐ HÌNH THỨC TCLTKT TỈNH BÌNH ĐỊNH Với những lợi thế về vị trí địa lí, nguồn lực tự nhiên và kinh tế - xã hội, Bình Định có khả năng phát triển một số hình thức TCLTKT chủ yếu như sau: 1.1. Hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Một trong số các hình thức TCLTNN phát triển khá nổi bật trên địa bàn tỉnh Bình Định, đó là trang trại. Tính đến năm 2008 toàn tỉnh Bình Định có 1.019 trang trại [1]. Trong thời gian qua, số lượng trang trại trên địa bàn tỉnh Bình Định có chiều hướng giảm dần, càng về sau mức độ giảm càng nhanh hơn. Tuy nhiên, sự tăng, giảm số lượng trang trại có sự khác biệt nhau giữa các đơn vị hành chính trong tỉnh. Đáng chú ý nhất là các huyện Tuy Phước, Phù Cát, An Lão và Vĩnh Thạnh có sự giảm sút rất rõ về số trang trại. Ngược lại, các huyện Hoài Ân, An Nhơn và thành phố Quy Nhơn, số trang trại tăng lên một cách đáng kể. Sự thay đổi về số lượng trang trại liên quan với hướng đầu tư kinh doanh và thị trường tiêu thụ sản phẩm trang trại. Trang trại ở Bình Định thường tập trung với số lượng khá nhiều (trên 100 trang trại) tại các huyện đồng bằng và trung du có diện tích đất tự nhiên tương đối lớn như Phù Mỹ, Phù Cát và Hoài Ân. Năm 2008, diện tích đất đai trang trại chiếm khoảng 1,3% diện tích đất nông nghiệp của tỉnh. Trong đó, bình quân diện tích đất đai trên một trang trại lớn nhất thuộc về loại hình trang trại lâm nghiệp (8,6 ha/trang trại), nhỏ nhất là loại hình trang trại chăn nuôi (1,5 ha/trang trại). Lao động trang trại chiếm khoảng 0,4% lao động đang làm việc trong khu HOÀNG QUÝ CHÂU 120 vực nông, lâm, thủy sản và thu nhập của trang trại cũng chiếm khoảng 0,4% tổng sản phẩm của khu vực đó. Trong thời gian đến, nếu nguồn vốn đầu tư được cải thiện, nhận được sự hỗ trợ về vốn vay của địa phương và ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các loại hình trang trại trên địa bàn tỉnh sẽ hoạt động có hiệu quả hơn, đặc biệt trang trại nuôi trồng thủy sản. Hình 1. Bản đồ hành chính tỉnh Bình Định tỉ lệ 1:600.000 1.2. Hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp Các hình thức TCLTCN ở tỉnh Bình Định khá đa dạng, bao gồm các điểm công nghiệp, khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) và trung tâm công nghiệp. Hệ thống các điểm công nghiệp được hình thành ngày càng nhiều và phân bố trên hầu hết các huyện trong tỉnh, song tập trung nhiều ở Quy Nhơn, An Nhơn, Hoài Nhơn, Tuy Phước và Tây Sơn. Phần lớn các điểm công nghiệp này phân bố ở những nơi có điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu, cơ sở hạ tầng, giao thông, gắn với các ngành THỰC TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ TỈNH BÌNH ĐỊNH 121 công nghiệp như: khai khoáng (đá granit, titan), chế biến (mì, dừa, hạt điều, lâm sản, thủy sản), sản xuất vật liệu xây dựng và một số mặt hàng tiêu dùng khác. Riêng huyện miền núi Vĩnh Thạnh có 2 nhà máy thủy điện là Vĩnh Sơn và Định Bình. Hiện nay, Bình Định có 2 khu công nghiệp và 4 cụm công nghiệp đang hoạt động. Đó là khu công nghiệp Phú Tài, Long Mỹ, cụm công nghiệp Quang Trung, Gò Đá Trắng, Hóc Bợm, Nhơn Bình. Trong đó, KCN Phú Tài là KCN đầu tiên của tỉnh. Ngoài ra, Bình Định đang có 6 khu công nghiệp và nhiều cụm công nghiệp đang và sẽ xây dựng ở hầu hết các huyện trong tỉnh, đó là: KCN Nhơn Hội, Nhơn Hòa, Hòa Hội, Cát Khánh, Bồng Sơn và Bình Nghi-Nhơn Tân; CCN Nhơn Phú, Phước An, Phú An, Bình Dương, Gò Mít [7]. 1.3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ khác * Tổ chức lãnh thổ du lịch Xuất phát từ lịch sử hình thành của vùng đất này gắn liền với nền văn hóa Chămpa, Bình Định là một trong những tỉnh, thành ở khu vực miền Trung có khá nhiều làng nghề. Các điểm du lịch làng nghề nổi tiếng, đó là: Làng nghề Rượu Bàu Đá Cù Lâm, làng nghề Tiện gỗ Nhạn Tháp, làng nghề Rèn Tây phương Danh (huyện An Nhơn), làng nghề Nón ngựa Phú Gia (huyện Phù Cát) và làng nghề Dệt vải thổ cẩm (huyện Vĩnh Thạnh); một số điểm di tích văn hóa Chăm nổi tiếng: Tháp Đôi (Quy Nhơn), Tháp Bánh Ít, tháp Bình Lâm (Tuy Phước), Tháp Dương Long, Tháp Thủ Thiện (Tây Sơn), Tháp Cánh Tiên, Tháp Phú Lốc (An Nhơn) và các chùa cổ: Chùa Ông Núi, Chùa Thập Tháp, Chùa Hang [4]. Vùng ven biển Bình Định còn có khả năng phát triển các điểm du lịch có giá trị, đó là các bãi tắm và đầm: Bãi tắm Quy Nhơn, Hải Giang (Quy Nhơn); Trung Lương, Vĩnh Hội (huyện Phù Cát); Tam Quan, Lộ Diêu (huyện Hoài Nhơn); Mũi Rồng (Phù Mỹ); Đầm Trà Ổ, Đầm Đề Gi (huyện Phù Mỹ, Phù Cát) Có 3 tuyến du lịch bao gồm: tuyến du lịch ven biển từ Sông Cầu - Quy Nhơn - Đề Gi - Tam Quan. Đây là không gian du lịch quan trọng nhất của tỉnh. Trong đó có trung tâm du lịch là thành phố Quy Nhơn và tuyến du lịch Phương Mai - Núi Bà là tuyến du lịch trọng điểm quốc gia; tuyến dọc quốc lộ 19 và Đông Trường Sơn từ Quy Nhơn - An Nhơn - Tây Sơn - Vĩnh Thạnh và Đông Trường Sơn; tuyến du lịch dọc Quốc lộ 1A kéo dài theo chiều dài của tỉnh, giáp với Quảng Ngãi ở phía Bắc và Phú Yên ở phía Nam. Hiên nay, trên địa bàn tỉnh Bình Định có một số khu du lịch đặc trưng với khả năng phát triển mạnh, thu hút nhiều khách du lịch nhất, đó là: khu du lịch thắng cảnh Ghềnh Ráng - Quy Hoà, khu du lịch Bảo tàng Quang Trung - Nguyễn Huệ, khu du lịch thắng cảnh Hầm Hô, khu du lịch Thành Hoàng Đế (Thành Đồ Bàn), khu du lịch suối khoáng Hội Vân và khu du lịch Núi Bà. Các khu du lịch khác chủ yếu tập trung ở thành phố Quy Nhơn: khu du lịch bán đảo Phương Mai - đầm Thi Nại, khu du lịch tập trung ở phía nam tuyến Quy Nhơn - Sông Cầu. HOÀNG QUÝ CHÂU 122 Ngoài ra, còn có 4 cụm du lịch, đó là: cụm du lịch Quy Nhơn và phụ cận; cụm du lịch Tây Sơn - An Nhơn và phụ cận; cụm du lịch Hoài Nhơn và phụ cận, trong đó thị trấn Bồng Sơn là trung tâm du lịch, dịch vụ của khu vực phía Bắc tỉnh; cụm du lịch Định Bình - Vĩnh Sơn và Đông Trường Sơn. * Đô thị: Dân số đô thị tỉnh Bình Định là 406,4 nghìn người (năm 2008), chiếm 27,4% tổng dân số toàn tỉnh. Các đô thị hình thành và phát triển dọc theo hành lang quốc lộ 1A và quốc lộ 19, hợp thành một cấu trúc không gian tuyến - điểm. Các đô thị có tốc độ phát triển nhanh hầu hết tập trung dọc theo tuyến quốc lộ 1A, như: thành phố Quy Nhơn, thị trấn Diêu Trì, Bình Định và Bồng Sơn. Tính đến nay, trên toàn tỉnh Bình Định có 15 đô thị, trong đó thành phố Quy Nhơn là đô thị loại I trực thuộc tỉnh, là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh. Các đô thị khác là đô thị loại V, huyện lị hoặc trực thuộc huyện [5]. Dựa vào điều kiện tự nhiên, đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định, toàn tỉnh có thể chia làm 3 vùng phát triển dân cư đô thị như sau: Vùng thành phố Quy Nhơn và khu vực phụ cận; vùng hành lang Quốc lộ 1A và dải ven biển; vùng trung du, miền núi. * Hành lang kinh tế (HLKT) đường 19: HLKT đường 19 là một trong những trục Đông - Tây, liên kết trực tiếp giữa Bình Định và các tỉnh Bắc Tây Nguyên. Đây cũng là một trong những tuyến đường bộ đối ngoại quan trọng nhất của Tây Nguyên, liên kết với vùng ven biển và các nước trên thế giới. Hành lang này dài khoảng 250 km, trong đó đoạn qua địa phận tỉnh Bình Định là 70 km và qua Gia Lai là 180 km, được xây dựng sớm với chất lượng tốt nhất trong hệ thống trục ngang ở miền Trung. Trên địa bàn tỉnh Bình Định, HLKT đường 19 chạy dọc sông Kôn, qua các huyện Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và kết nối với cảng Quy Nhơn. Đây là khu vực tập trung dân cư đông đúc, trình độ dân trí cao gắn với văn hóa Tây Sơn và văn hoá ChămPa tạo điều kiện ngành du lịch phát triển. Bên cạnh đó có thủy điện Vĩnh Sơn, thuỷ điện Định Bình đã tạo cho ngành công nghiệp phát triển ở một mức độ nhất định. Cùng với Quy Nhơn, Phú Tài cũng như các ngành công nghiệp khác trong dải hành lang cũng được phát triển như khai thác, chế biến đá granit, chế biến gỗ, sản xuất mía đường, sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ và hàng tiêu dùng. Đặc biệt, một bộ phận dân cư trên trục hành lang này có khả năng tiếp cận thị trường theo hướng phát triển các ngành thương mại, du lịch và dịch vụ [3]. * Khu kinh tế (KKT) Nhơn Hội: KKT Nhơn Hội thuộc bán đảo Phương Mai, tỉnh Bình Định, có diện tích tự nhiên khoảng 12.000 ha, được thành lập theo Quyết định số 141/2005/QĐ -TTg ngày 14/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu trở thành hạt nhân tăng trưởng, trung tâm đô thị công nghiệp - dịch vụ - du lịch của vùng KTTĐ miền Trung. Hiện nay, KKT này đang được đẩy mạnh xây dựng hạ tầng và thu hút đầu tư [6]. KKT Nhơn Hội nằm ở vị trí trung tâm trên các tuyến giao lưu quốc tế và liên vùng, tuyến trục Bắc - Nam và Đông - Tây của miền Trung, trên hành lang của tuyến đường hàng hải quốc tế, là cửa ngõ hướng biển của các nước trong Tiểu khu vực Mekong mở THỰC TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ TỈNH BÌNH ĐỊNH 123 rộng, đặc biệt là với các nước Lào, Campuchia và Thái Lan. Vì Vậy, KKT Nhơn Hội có vị trí thuận lợi về giao lưu quốc tế, góp phần mở rộng thị trường với các vùng khác trong cả nước cũng như trong khu vực. Trong tương lai, khi cảng Nhơn Hội được hình thành sẽ hỗ trợ cho cảng Quy Nhơn hiện hữu (vì hạn chế về mặt bằng không còn khả năng mở rộng), sản lượng hàng thông qua cảng sẽ tăng nhanh và nhiều tuyến đường biển đến các cảng cũng sẽ mở ra. Quan hệ giao thương thông qua hệ thống đường giao thông quốc gia cũng sẽ tăng lên tương ứng và tạo điều kiện phát triển kinh tế cả vùng. 2. THỰC TRẠNG TCLTKT TỈNH BÌNH ĐỊNH Dựa trên cơ sở các lí thuyết phát triển không gian, các chỉ tiêu giá trị phản ánh sự phát triển và phân bố, sự phân hóa khá rõ nét về các nguồn lực và sự phân bố các hình thức TCLTKT mang tính đặc thù của lãnh thổ, TCLTKT tỉnh Bình Định được xác định theo 3 tiểu vùng: Tiểu vùng phía nam, Tiểu vùng Duyên hải phía Đông và Tiểu vùng Trung du, miền núi phía Tây. * Tiểu vùng phía Nam: Vùng “ Dọc Quốc lộ 19 và thành phố Quy Nhơn” bao gồm các huyện: Tây Sơn, An Nhơn, Vân Canh, Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn Tiểu vùng này bao gồm 5 đơn vị hành chính, với diện tích 2.236 km2, chiếm khoảng 37% diện tích toàn tỉnh, với số dân trung bình (năm 2008) là 783,7 nghìn người, chiếm 52,8% dân số toàn tỉnh. Giá trị sản xuất vật chất của tiểu vùng chiếm tỉ trọng rất cao, khoảng 66,5%. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế chiếm khoảng 52%, tập trung chủ yếu trong khu vực II và III. Tỉ lệ đô thị hóa chiếm đến 43,2%, gấp 1,56 lần mức bình quân cả tỉnh (tỉ lệ đô thị của tỉnh là 27,7%) [2]. Trong đó, thành phố Quy Nhơn là đô thị loại I trực thuộc tỉnh và 5 thị trấn: Tuy Phước, Diêu Trì (thuộc huyện Tuy Phước), Bình Định, Đập Đá (thuộc huyện An Nhơn), Phú Phong (thuộc huyện Tây Sơn) và Vân Canh (thuộc huyện Vân Canh) là đô thị loại V. Thế mạnh của tiểu vùng này là khả năng phát triển hệ thống cảng biển, đó là hệ thống cảng Quy Nhơn và cảng Nhơn Hội (trong tương lai). Vấn đề phát triển hành lang ven biển với cửa ra Quy Nhơn trong thế liên kết với hành lang ven biển miền Trung và đón trước cửa ra cho khu vực Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Thái Lan qua HLKT đường 19 được coi là ưu tiên số một. Mặt khác, để phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác lợi thế của cảng Quy Nhơn, việc xác định vùng hấp dẫn (vùng ảnh hưởng) có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thu hút hàng hoá, mở rộng giao lưu. Miền Trung là một dải đất dài và tuy hai cực Đà Nẵng, Nha Trang có vùng ảnh hưởng rộng lớn hơn cực Quy Nhơn, nhưng Đà Nẵng và Nha Trang (kể cả cực Quảng Ngãi - Vạn Tường tương lai) cũng khó lòng bao quát khoảng trống ở giữa, bao gồm cả lãnh thổ của vùng Bắc Tây Nguyên, của Nam Lào và Đông Bắc Campuchia nếu không có Quy Nhơn. Dọc HLKT đường 19 là khu vực tương đối phát triển so với các khu vực phụ cận khác, nối liền các thành phố, thị xã, thị trấn nên có khả năng tiêu thụ lớn về hàng tiêu dùng, tư HOÀNG QUÝ CHÂU 124 liệu sản xuất và nông sản thực phẩm... Trong đó, thành phố Quy Nhơn được xem như hạt nhân tạo vùng, là trung tâm kinh tế có khả năng phát triển toàn diện: công nghiệp, du lịch, dịch vụ cảng biển, đồng thời cơ sở hạ tầng nơi đây khá hoàn chỉnh. Thành phố Quy Nhơn gắn với cảng biển là “cửa ra” của hành lang Đông - Tây với chức năng trao đổi luồng hàng hoá xuất, nhập khẩu lớn của khu vực miền Trung gắn với Tây Nguyên và các tỉnh Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Thái Lan. Vị trí này tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác thị trường của vùng, cả nước và khu vực để tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu, là đầu mối thu gom, thu mua hàng hoá xuất, nhập khẩu của các tỉnh trong và ngoài vùng. Cũng như các khu kinh tế khác, KKT Nhơn Hội đang được quy hoạch phát triển đa ngành đa lĩnh vực. Tuy nhiên, vị trí xây dựng KKT này có nhiều lợi thế phát triển mà không khu vực nào có điều kiện tương tự. Điểm khác biệt nổi bật đó là KKT có sự tập trung mặt bằng liên tục với quy mô lớn hàng đầu so với các KKT của cả nước. Về giao thông, KKT có vị trí thuận lợi giao lưu thương mại quốc tế, có thể kết nối theo đường bộ với Lào, Campuchia và vùng Đông Bắc Thái Lan tạo thành hành lang Đông - Tây ở cực Nam vùng KTTĐ miền Trung. Đồng thời, còn có khả năng giao thương bằng đường biển đến các nước trong khu vực Đông Nam Á và quốc tế qua cụm cảng nước sâu Quy Nhơn hiện hữu với lượng hàng hóa thông qua hàng năm lớn hàng thứ 3 của Việt Nam và cảng Nhơn Hội sau này với quy hoạch công suất lớn gấp 3 lần cảng Quy Nhơn hiện nay. Các đô thị của tiểu vùng: Loại I (trực thuộc tỉnh): TP Quy Nhơn; Loại V: thị trấn Tuy Phước, Diêu Trì, Bình Định, Đập Đá, Phú Phong, Vân Canh. Các KCN đang hoạt động: Phú Tài, Long Mỹ; CCN đang hoạt động: Quang Trung, Nhơn Bình, Hóc Bợm, Gò Đá Trắng; KCN đang xây dựng: Nhơn Hội, Nhơn Hòa; CCN đang xây dựng: Phước An, Phú An, Nhơn Phú. Các khu du lịch đặc trưng: khu du lịch thắng cảnh Ghềnh Ráng - Quy Hoà, khu du lịch Thành Hoàng Đế, khu du lịch Bảo tàng Quang Trung - Nguyễn Huệ, khu du lịch thắng cảnh Hầm Hô, khu du lịch bán đảo Phương Mai - đầm Thi Nại, khu du lịch tập trung ở phía nam tuyến Quy Nhơn - Sông Cầu. * Tiểu vùng Duyên hải phía Đông: Vùng “Đồng bằng ven biển và ven Quốc lộ 1A” bao gồm các huyện: Hoài Nhơn, Phù Mỹ và Phù Cát Tiểu vùng này bao gồm 3 đơn vị hành chính, với diện tích 1644 km2, chiếm khoảng 27,2% diện tích toàn tỉnh, với số dân trung bình (năm 2008) là 565,0 nghìn người, chiếm 38% dân số toàn tỉnh. Giá trị sản xuất vật chất của tiểu vùng chiếm khoảng 28% của tỉnh, lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế chiếm khoảng 38,6%, tập trung chủ yếu trong khu vực I. Tỉ lệ đô thị hóa rất thấp khoảng 10,4%, gấp 0,38 lần mức bình quân cả tỉnh [2]. Thế mạnh của tiểu vùng là có hơn 100 km đường bờ biển, có nhiều bãi tôm, cá, với diện tích đất và mặt nước nuôi trồng thủy sản khá lớn. Vì vậy, tiểu vùng này có khả năng phát triển mạnh các ngành kinh tế biển: ngành khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy THỰC TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ TỈNH BÌNH ĐỊNH 125 sản, làm muối, có khả năng khai thác, xuất khẩu quặng sa khoáng ti tan lớn nhất trong tỉnh. Về nông nghiệp, có khả năng phát triển cả trồng trọt, chăn nuôi và trồng rừng. Về công nghiệp, tập trung hầu hết các cơ sở chế biến nhất là chế biến nông sản gắn với cùng nguyên liệu, nhất là ở 2 huyện Hoài Nhơn và Phù Mỹ. Các KCN đang xây dựng: Cát Khánh, Hòa hội, Bồng Sơn; CCN đang xây dựng: Gò Mít, Bình Dương. Đối với ngành du lịch, có khả năng phát triển du lịch nghỉ dưỡng với cảnh quan bãi tắm kéo dài, đặc biệt có khu du lịch suối khoáng Hội Vân và du lịch văn hóa - tâm linh trên tuyến du lịch trọng điểm quốc gia Phương Mai-Núi Bà. Giao thông vận tải của tiểu vùng phát triển toàn diện, bao gồm đường biển, sắt, bộ và hàng không (sân bay Phù Cát) và là điểm nút giao lưu Bắc - Nam của tỉnh Bình Định, tạo điều kiện thuận lơi trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa. Dọc theo quốc lộ 1A, có 5 thị trấn Bồng Sơn, Tam Quan, Phù Mỹ, Bình Dương, Ngô Mây là đô thị loại V. Thị trấn Bồng Sơn (huyện Hoài Nhơn) là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật phía Bắc vùng ven biển Bình Định, trong tương lai sẽ trở thành thị xã - đô thị loại IV. * Tiểu vùng Trung du và miền núi phía Tây: Vùng “Trung du và miền núi” bao gồm các huyện: An Lão, Hoài Ân và Vĩnh Thạnh Tiểu vùng này bao gồm 3 đơn vị hành chính, với diện tích khá lớn 2.159 km2, chiếm đến 35,8% diện tích toàn tỉnh, với số dân trung bình (năm 2008) rất thấp 136,9 nghìn người, tương ứng với 9,2% dân số toàn tỉnh. Tiểu vùng này chỉ chiếm khoảng 5,5% giá trị sản xuất vật chất của tỉnh, lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế chiếm khoảng 9,4%, phần lớn tập trung trong khu vực I. Tỉ lệ đô thị hóa của tiểu vùng này thấp khoảng 10,8%, chỉ bằng 0,39 lần mức bình quân cả tỉnh [2]. Trong đó có 3 thị trấn: An Lão, Tăng Bạt Hổ, Vĩnh Thạnh là đô thị loại V. Điểm nhấn của tiểu vùng này là nguồn thủy năng, nơi đây đã hình thành và phát triển hai nhà máy thủy điện (Vĩnh Sơn và Định Bình thuộc huyện Vĩnh Thạnh), các hồ thủy lợi có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp và công nghiệp ở khu vực phía Tây của tỉnh. Tiểu vùng này có diện tích đất đai và rừng khá lớn có điều kiện phát triển kinh tế trang trại, hình thành các vùng chuyên canh có khả năng cung cấp nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến tinh bột mì, mía đường và chế biến dừa trong tỉnh. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật của tiểu vùng còn nhiều hạn chế, trình độ dân trí còn thấp, đại bộ phận là người dân tộc thiểu số: Ba na, Chăm, H’Rê..., do đó các hoạt động công nghiệp, dịch vụ còn kém phát triển. 3. NHẬN ĐỊNH VỀ THỰC TRẠNG TCLTKT TỈNH BÌNH ĐỊNH: TCLTKT tỉnh Bình Định được thể hiện theo 3 tiểu vùng với các cực và các ngành kinh tế phân bố một cách hợp lí vì đã khai thác được tiềm năng của từng tiểu vùng. Tuy nhiên, thực trạng TCLTKT tỉnh Bình Định vẫn còn một số bất cập. Chưa nhận thấy được vai trò cũng như mối liên kết giữa Bình Định với các địa phương khác trong vùng HOÀNG QUÝ CHÂU 126 KTTĐ miền Trung và vùng kinh tế lân cận (Tây Nguyên) dưới góc nhìn của TCLTKT. Một nhân tố mới sẽ có tác động đến TCLTKT của tỉnh một cách hợp lí hơn, cụ thể là cần phải tiến hành xem xét bối cảnh quốc tế và khu vực cũng như bối cảnh trong nước có tác động trực tiếp TCLTKT của địa phương trong thời gian tới. KẾT LUẬN Bình Định là 1/28 tỉnh, thành giáp biển, được xem cửa ngõ phía Đông rất quan trọng đối với vùng kinh tế Tây Nguyên, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. Trong thời gian qua, Bình Ðịnh đã có nhiều cố gắng tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cảng biển, KKT, đô thị, xây dựng các khu, cụm công nghiệp, các khu du lịch... Từ đó, đã hình thành nên bộ khung lãnh thổ với 3 tiểu vùng dựa trên cơ sở phát huy vai trò các hành lang quốc lộ 19, quốc lộ 1A, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về biển và đất đai của tỉnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Chi cục Thống kê Bình Định (2009). Niên giám thống kê 2009. Bình Định. [2] Phòng Thống kê 11 huyện, thành phố (2009). Niên giám thống kê 2009. Bình Định. [3] UBND tỉnh Bình Định (2000). Định hướng quy hoạch phát triển hành lang kinh tế đường 19, tháng 11/2000. Bình Định. [4] UBND tỉnh Bình Định, Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch (2000). Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Bình Định đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Bình Định. [5] UBND tỉnh Bình Định (2006). Quyết định về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị và khu dân cư nông thôn Bình Định đến năm 2020. Quy Nhơn. [6] UBND tỉnh Bình Định, Sở Kế hoạch và đầu tư (2010). Quy hoạch tổng thể phát triển, đầu tư và cơ chế chính sách phát triển khu kinh tế Nhơn Hội tỉnh Bình Định đến năm 2020. Bình Định. [7] UBND tỉnh Bình Định, Sở Công nghiệp (2000). Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp tỉnh Bình Định đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Bình Định. Title: THE SITUATION OF ORGANIZING ECONOMIC TERRITORY OF BINH DINH PROVINCE Abstract: Binh Dinh is a locality that has fairly good advantageously geographical position and the relatively clear distinction of natural resources, human resources. It also has a particular distribution of all types of organizing economic territories. Based on those characteristics, the organization economic territories in Binh Dinh has been divided into three small economic regions. Each has its own power. ThS. HOÀNG QUÝ CHÂU Khoa Địa lí, Trường Đại học Quy Nhơn. ĐT: 0983.311.034. Email: quychau_69@yahoo.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_to_chuc_lanh_tho_kinh_te_tinh_binh_dinh.pdf