Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý rừng
Trên cơ sở phân tích thực trạng QLR và sự
tham gia quản lý bảo vệ rừng của người
dân, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần nâng cao khả năng QLR tại RĐD
Hữu Liên như sau:
- Tiếp tục thực hiện giao khoán bảo vệ rừng
cho hộ gia đình quản lý, gắn trách nhiệm hơn
nữa với các hộ và có chế tài mạnh hơn để xử
lý các hộ vi phạm hợp đồng, nếu hộ nào vi
phạm hợp đồng trong 2 năm liên lục thì
không giao khoán bảo vệ trong năm tiếp theo;
- Kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo ban quản lý
RĐD, cử lần lượt cán bộ đi tập huấn nâng cao
năng lực về công tác quản lý bảo vệ rừng;
- Đổi mới cách thức hoạt động của đội 12
bằng cách phối hợp tổ chức các lớp tập huấn,
tuyên truyền cho cộng đồng dân cư về luật
bảo vệ và phát triển rừng, các văn bản liên
quan đến bảo vệ rừng.;
- Ban quản lý RĐD cần phối hợp chặt chẽ hơn
nữa với chính quyền và các tổ chức trong xã,
thôn để thực hiện công tác QLR, phối hợp với
ngân hàng để hướng dẫn người dân vay vốn
đầu tư vào sản xuất, nâng cao năng xuất, chất
lượng các mặt hàng nông sản.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng quản lý và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong công tác quản lý bảo vệ rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48
43
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƢƠNG
TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG TẠI RỪNG ĐẶC DỤNG HỮU LIÊN,
HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
Nguyễn Hữu Giang*
Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng diện tích và chất lƣợng rừng tại rừng đặc dụng Hữu Liên bị suy
giảm liên tục là do công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng còn nhiều bất cập, việc quản lý sử
dụng tài nguyên rừng không những chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao mà còn chƣa đáp ứng đƣợc nhu
cầu phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Kết quả nghiên cứu thấy rằng hình thức
quản lý rừng và đất rừng do hộ gia đình quản lý là có hiệu quả nhất, hiệu quả thấp nhất là do Ban
quản lý rừng đặc dụng quản lý. Tất cả ngƣời dân ở các thôn bản sống trong RĐD đã tham gia xây
dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” tuy nhiên hầu hết ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết này.
80,07% số hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi
trong trồng rừng, việc chỉ thuê khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý QĐD với ngƣời dân
đã không tạo ra sinh kế ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua thực hiện chƣơng trình 661.
Từ khóa: Quản lý rừng, rừng, cộng đồng, rừng đặc dụng, Hữu Liên; Lạng Sơn
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng đặc dụng (RĐD) Hữu Liên lần đầu tiên
đƣợc Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng quyết định
thành lập vào năm 1986 có diện tích 3.000ha.
Năm 1992 đƣợc Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ
NN&PTNT) quy hoạch lại. Năm 2006 đƣợc
UBND tỉnh Lạng Sơn tái thành lập với diện tích
10.640ha, Ban quản lý RĐD Hữu Liên là một
đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở NN&PTNT
tỉnh Lạng sơn. Toàn bộ diện tích RĐD Hữu
Liên nằm trên địa phận của 5 xã thuộc huyện
Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Sự bùng nổ dân số,
sự phát triển không ngừng của xã hội đã dẫn
đến nhu cầu sinh hoạt của ngƣời dân sống
trong khu vực RĐD Hữu Liên ngày càng tăng
đặc biệt là nhu cầu về gỗ làm nhà, đóng đồ,
củi đun... Mặt khác nhu cầu gỗ, lâm sản ngoài
gỗ trên thị trƣờng nhất là các loại gỗ quý
hiếm rất cao nên ngƣời dân đã bị các đối
tƣợng xúi giục lôi kéo, tiếp tay cho các hành
vi khai thác, mua bán vận chuyển lâm sản trái
phép đã dẫn đến hậu quả là TNR tại RĐD
Hữu Liên bị xâm hại. Từ yêu cầu thực tế trên,
rất cần thực hiện nghiên cứu về thực trạng quản
lý và sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng
trong công tác quản lý rừng (QLR) tại RĐD
Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
nhằm tìm ra hình thức QLR có hiệu quả nhất.
Tel: 0982688286; Email: huugiangkn@gmail.com
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng QLR và sự tham
gia của cộng đồng địa phƣơng trong công tác
quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở đi sâu tìm hiểu
các hoạt động bảo vệ, sử dụng rừng, từ đó xác
định đƣợc khó khăn, bất cập và đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLR.
Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng quản lý rừng đặc dụng;
- Sự tham gia quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả QLR.
Phƣơng pháp nghiên cứu
- Kế thừa tài liệu từ một số báo cáo tổng kết,
đánh giá về tình hình quản lý rừng do Ban
quản lý rừng đặc dụng, UBND các xã cung
cấp (trong 5 năm gần đây);
- Phƣơng pháp RRA để phỏng vấn có định
hƣớng với tổng số 25 lãnh đạo của cơ quan
quản lý trực tiếp (Sở Nông nghiệp và PTNT,
huyện Hữu Lũng, Ban quản lý rừng và 5 xã
có rừng);
- Sử dụng một số công cụ PRA: Đi lát cắt, Sơ
đồ tài nguyên, Sơ đồ venn, phƣơng pháp phân
tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội thách thức
(SWOT) và điều tra phỏng vấn trực tiếp 120 hộ
gia đình tiêu biểu trong khu vực;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 - 48
44
- Phƣơng pháp xử lý số liệu: Sử dụng thống
kê toán học dƣới dạng các bảng biểu để tổng
hợp các thông tin thu đƣợc.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thực trạng quản lý rừng đặc dụng
Rừng đặc dụng Hữu Liên hiện đang có 4 hình
thức QLR chủ yếu đó là: (i) Rừng và đất rừng
do cộng đồng quản lý (Gọi là tổ giữ rừng):
Mỗi thôn bản tùy theo diện tích rừng đƣợc
quản lý nhiều hay ít mà lập ra từ 1 - 4 tổ giữ
rừng, mỗi tổ có từ 3-7 thành viên. Hoạt động
của tổ giữ rừng là phối hợp với kiểm lâm và
đội 12 của xã để thƣờng xuyên tiến hành kiểm
tra, giám sát và đôn đốc ngƣời dân trong thôn
thực hiện tốt việc bảo vệ diện tích rừng đã ký
hợp đồng bảo vệ. Tổ giữ rừng đƣợc hƣởng
thù lao hàng tháng trích từ nguồn quỹ của
thôn, mức hƣởng do hội nghị toàn thôn quyết
định. Trong đó kiểm lâm hỗ trợ
200.000đ/tháng cho công tác quản lý bảo vệ,
phần quỹ còn lại do bà con đóng góp hoặc lấy
từ tiền xử phạt các vụ vi phạm TNR hay thu
tiền của những ngƣời không tham gia lao
động công ích (Mức thu từ 15.000 - 30.000
đồng tùy theo thực trạng kinh tế của từng
thôn); (ii) Rừng do ban quản lý rừng đặc dụng
Hữu Liên quản lý, tổng số 3.308 ha; (iii) Đội
12 của các xã (Đội 12 đƣợc thành lập theo
Chỉ thị số 12/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính
phủ). Hoạt động của Đội 12 là tổ chức tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật về rừng tới
cộng đồng dân cƣ trong các thôn bản thông
qua hệ thống loa thông tin đại chúng và tăng
cƣờng phối hợp với kiểm lâm tuần tra bảo vệ
rừng, kiểm tra trên khâu lƣu thông, vận
chuyển lâm sản trái phép, bắt giữ và xử lý các
đối tƣợng vi phạm và (iv) Rừng do hộ gia đình
quản lý: Kết quả ký hợp đồng bảo vệ rừng với
hộ gia đình năm 2009 đƣợc thể hiện qua bảng 1.
Theo khoản 8, Quyết định số 02/CP, ngày
15/1/1994, quá trình ký kết hợp đồng bảo vệ
rừng với các hộ gia đình trong RĐD Hữu
Liên bắt đầu từ năm 1994. Đến hết năm 2009,
Ban quản lý RĐD đã giao 7.332ha rừng cho
427 hộ sống tại 23 thôn của 5 xã quản lý. Các
hợp đồng bảo vệ rừng đƣợc ký đối với các
trƣờng hợp mà các điều kiện không phù hợp
để di dời dân cƣ sống trong khu bảo vệ
nghiêm ngặt, cho phép các hộ sống hài hòa
trong sự bảo vệ quản lý. Trong khuôn khổ các
hợp đồng này, các hộ gia đình đƣợc phép thu
lƣợm củi đun và các sản phẩm không thuộc
gỗ khác nhƣng không đƣợc phép chặt cây.
Đổi lại họ đƣợc nhận 90.000đ/ha/năm, các
hợp đồng có giá trị trong 1 năm và có thể thay
đổi. Cán bộ Ban quản lý RĐD kiểm tra hàng
năm và có thể hủy bỏ hợp đồng đối với các hộ
gia đình quản lý không tốt, năm 2009 vẫn có
103/427 hộ vi phạm hợp đồng.
Để tìm hiểu hiệu quả quản lý rừng, đề tài đã
tiến hành phỏng vấn 120 hộ về vai trò của các
bên trong việc quản lý rừng, kết quả thể hiện
ở bảng 2.
Bảng 1. Kết quả ký hợp đồng bảo vệ rừng với hộ gia đình năm 2009
TT Xã
Số thôn tham gia
QLR
Số hộ tham gia
(hộ)
Diện tích
(ha)
Số hộ vi phạm
hợp đồng (hộ)
1 Yên Thịnh 7 124 1.860 33
2 Hữu Liên 12 263 4.658 63
3 Hữu Lễ 1 17 253 5
4 Vạn Linh 2 10 211 1
5 Hòa Bình 1 13 350 1
Cộng 23 427 7.332 103
Bảng 2. Hiệu quả quản lý rừng của các bên tham gia
Mức độ
Các bên tham gia
Rất hiệu quả Hiệu quả Trung bình Ít hiệu quả Không hiệu quả
1. Hộ gia đình 81.67 15 3.33 0 0
2. Tổ giữ rừng 0 0 39.17 60.83 0
3. Ban QLR đặc dụng 0 0 0 90.83 9.17
4. Đội 12 0 0 0 56.35 43.65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48
45
Kết quả cho thấy: Hiệu quả quản lý rừng cao
nhất là hộ gia đình (96,67% ý kiến đánh giá là
rất hiệu quả và có hiệu quả 3,33% ý kiến ở
mức trung bình). Ở cách quản lý này, mặc dù
quyền sở hữu tài nguyên rừng không thuộc về
ngƣời dân nhƣng quan hệ giữa ngƣời dân với
Ban quản lý RĐD và các bên tham gia khác là
chặt chẽ do các mối quan hệ xã hội, làng xã,
gia đình tạo dựng nên. Mặt khác ngƣời dân
phải tự chịu trách nhiệm với diện tích rừng đã
ký kết do vậy hiện tƣợng vi phạm hợp đồng ít
hơn. Tiếp theo là đến Tổ giữ rừng (39,17%
đánh giá ở mức trung bình còn lại là ít hiệu
quả). Với ban QLR và đội 12 thì 100% ý kiến
đánh giá ở mức ít và không có hiệu quả. Đội
12 không quản lý trực tiếp rừng mà chỉ phối
hợp với kiểm lâm, tổ giữ rừng để phổ biến,
tuyên truyền, tuần tra kiểm soát. Nhƣ vậy,
hiệu quả QLR trực tiếp kém nhất là rừng do
Ban quản lý RĐD Hữu Liên quản lý. Phân
tích thực trạng để tìm ra nguyên nhân sự kém
hiệu quả trong công tác QLR của ban quản lý
RĐD Hữu Liên nhƣ sau:
- Tổ chức nhân sự: Từ 01/01/2008 Ban quản
lý đƣợc kiện toàn lại gồm có 09 ngƣời, trong
đó cán bộ có trình độ đại học 04 ngƣời, cán
bộ có trình độ trung cấp 05 ngƣời. Ban quản
lý phân làm 02 phòng là phòng hành chính
tổng hợp 03 ngƣời (gồm 01 lãnh đạo, 01 kế
toán, 01 văn thƣ thủ quỹ kiêm tạp vụ) và
phòng kỹ thuật tuyên truyền kiêm địa bàn
gồm 06 ngƣời;
- Do công tác QLR chƣa đồng nhất từ Ban
quản lý RĐD cũ thuộc Hạt Kiểm Lâm sang
Ban quản lý RĐD mới thuộc Sở NN&PTNT
tỉnh Lạng Sơn có khe hở nên bọn lâm tặc lợi
dụng và một số cán bộ Ban quản lý RĐD mới
là chủ rừng nhƣng thiếu trách nhiệm, lợi dụng
chức quyền thu tiền hối lộ lâm luật của bọn
lâm tặc và cấu kết với một số tổ trƣởng tổ giữ
rừng làm sai quy chế bảo vệ rừng;
- Cán bộ lãnh đạo Ban quản lý RĐD là ngƣời
mới, còn nhiều hạn chế về chuyên môn
nghiệp vụ, chƣa có kinh nghiệm trong lãnh
đạo điều hành đơn vị (Trƣởng Ban quản lý về
nhận công tác từ 10/10/2007, hiện chƣa có
Phó trƣởng ban);
- Nhân viên trong Ban QLR cũng là ngƣời
mới tham gia công tác nên còn bỡ ngỡ, chƣa
có kinh nghiệm, chƣa ai đƣợc tham gia tập
huấn về quản lý rừng;
- Địa bàn hoạt động rộng, địa hình phức tạp,
xa sự giám sát của lãnh đạo, phƣơng tiện đi
lại không có. Cơ sở vật chất và các trang thiết
bị phục vụ cho công tác còn quá nghèo nàn
nên cũng ảnh hƣởng lớn đến tâm lý của cán
bộ và chất lƣợng công việc.
Kết quả nghiên cứu về các hoạt động khai
thác, sử dụng rừng của ngƣời dân cho thấy
thu nhập từ lâm nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ so với
tổng thu nhập của hộ. Với hộ nghèo thu nhập
từ lâm nghiệp khoảng 2,5 triệu đồng chiếm
22,27%, hộ trung bình 3,5 triệu đồng chiếm
20,03% và hộ khá là gần 4 triệu đồng chiếm
14,89%.
Hình 1. Thu nhập từ lâm nghiệp so với tổng thu Hình 2. Tỷ lệ % các loại lâm sản đƣợc thu hái từ rừng
Thu nhập từ lâm nghiệp so với tổng thu nhập
0
5,000,000
10,000,000
15,000,000
20,000,000
25,000,000
30,000,000
Đ
ồ
n
g
/n
ă
m
Tổng thu
Lâm nghiệp
Tổng thu 11,593,740 18,035,802 26,324,313
Lâm nghiệp 2,581,844 3,613,094 3,919,688
Hộ nghèo Hộ trung bình Hộ khá
Loại lâm sản được thu hái từ rừng
40
68
57
92
13
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Cây thuốc Thực phẩm Nguyên liệu thủ
công
Vật liệu xây
dựng
Khác
T
ỷ
l
ệ
%
s
ố
h
ộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 - 48
46
Lâm sản ngƣời dân thu hái từ rừng rất đa dạng
và đƣợc chia thành 5 loại đó là làm thuốc, thực
phẩm, nguyên liệu thủ công, vật liệu xây dựng
và một số công dụng khác. Trong số này nhiều
sản phẩm đƣợc sử dụng ở địa phƣơng, phần
còn lại nhƣ động vật rừng và cây thuốc đƣợc
ngƣời dân địa phƣơng đem bán. Việc chặt cây
để làm nhà, đóng đồ, làm hàng rào và củi đun
là nhu cầu chính đáng của ngƣời dân, tuy nhiên
trên thực tế việc lạm dụng khai thác những loài
cây gỗ có giá trị ( Nghiến, Hoàng Đàn) đang
diễn ra hết sức phức tạp và quyết liệt mặc dù
ngƣời dân hiểu đƣợc rằng việc chặt cây lấy gỗ
đƣợc coi là phạm pháp cho dù với bất cứ mục
đích gì, ngoại trừ dùng cho việc làm nhà nhƣng
phải đƣợc sự đồng ý của chính quyền địa
phƣơng. Mùa cao điểm khai thác gỗ là vào
những tháng cuối năm trong khoảng từ tháng
8-12 âm lịch.
Lâm sản ngoài gỗ rất đa dạng và đƣợc hầu hết
các hộ gia đình thu hái để sử dụng và bán. Kết
quả điều tra cho thấy: Có tổng số 81 loài thực
vật lâm sản ngoài gỗ đƣợc ngƣời dân khai thác
sử dụng, trong đó có tới 48 loài đƣợc ngƣời
dân sử dụng làm dƣợc liệu, chiếm 59,3%;
Nhóm loài làm rau ăn có 20 loài, chiếm
24,7%; Nhóm loài lấy bột có 5 loài, chiếm
6,2% và nhóm loài làm thủ công mỹ nghệ có 8
loài, chiếm 9,9%. Nhƣ vậy, ngƣời dân khai
thác các loài lâm sản ngoài gỗ để làm dƣợc
liệu chiếm tỷ lệ cao nhất, đây là điểm cần lƣu ý
trong quản lý tài nguyên cây thuốc và kiến
thức bản địa về sử dụng thảo mộc làm thuốc
của các cộng đồng dân tộc thiểu số đặc biệt là
trong cộng đồng ngƣời Dao.
Sự tham gia quản lý bảo vệ rừng của cộng đồng
Tham gia xây dựng “Quy ƣớc bảo vệ rừng” ở
cấp thôn bản: Tất cả các thôn bản đều đã xây
dựng xong quy ƣớc bảo vệ rừng, bên cạnh đó
việc ký cam kết bảo vệ rừng của ngƣời dân đã
đƣợc triển khai đến tất cả các thôn bản có
ngƣời dân sống trong RĐD, tuy nhiên hầu hết
ngƣời dân chƣa quan tâm đến bản cam kết
này do họ không nhận đƣợc sự hỗ trợ gì để
cải thiện cuộc sống. Các bản cam kết này
đƣợc lập bằng tiếng phổ thông trong khi trên
địa bàn có 70% dân số là ngƣời dân tộc thiểu
số, trong số đó khoảng 30% không biết tiếng
phổ thông nên họ không hiểu. Vai trò của các
già làng chƣa đƣợc phát huy trong các hoạt
động văn hóa, xã hội và công tác bảo vệ rừng
(do già làng không có phụ cấp gì).
Sự tham gia của các hộ gia đình vào chƣơng
trình 661: Qua phỏng vấn cho thấy 80,07% số
hộ không biết gì về chƣơng trình 661 và các
chính sách liên quan đến cơ chế hƣởng lợi
trong trồng rừng. Ngƣời dân chỉ biết tham gia
trồng rừng, bảo vệ rừng theo thuê khoán của
Ban quản lý. Điều này cho thấy chính sách
chƣa đƣợc phổ biến đến dân, Ban quản lý
nắm giữ chính sách và thực hiện theo kế
hoạch riêng, ngƣời dân mất cơ hội chọn lựa
các giải pháp thích hợp cho mình. Nghiên cứu
cho thấy sự hƣởng lợi của các hộ chủ yếu là
(i) Đƣợc thuê và trả công trồng, chăm sóc,
bảo vệ rừng trồng tuy nhiên số hộ tham gia
cũng không nhiều, tối đa là 15%. Sự thuê
khoán lao động theo thời vụ giữa Ban quản lý
RĐD với ngƣời dân đã không tạo ra sinh kế
ổn định lâu dài cho hộ gia đình thông qua
thực hiện chƣơng trình 661 và (ii) Ký hợp
đồng bảo vệ rừng tự nhiên: Việc ký hợp đồng
bảo vệ rừng giữa hộ gia đình với ban quản lý
RĐD đƣợc thực hiện hàng năm, tuy nhiên vẫn
còn một số hộ vi phạm hợp đồng mà nguyên
nhân chính là thiếu tiền để chi trả cho các
hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Khi thiếu tiền,
ngƣời dân có thể chặt cây lấy gỗ bán mặc dù
họ biết làm nhƣ vậy là vi phạm. Rõ ràng là
trách nhiệm của một số ngƣời dân chƣa cao,
ngƣời dân không có chuyên môn nên ngoài
việc sử dụng các sản phẩm từ rừng thì họ
không có tác động nào để xây dựng và phát
triển rừng. Công tác bảo vệ rừng có ảnh
hƣởng tiêu cực đến đời sống nông hộ nhƣ
giảm thu nhập và giảm sản lƣợng khai thác
các sản phẩm khác từ rừng, bên cạnh đó cũng
có những ảnh hƣởng tích cực từ công tác này.
Kết quả điều tra 120 ngƣời về sự ảnh hƣởng
của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống hộ,
cho thấy. (i) Có 5 vấn đề đƣợc ngƣời dân
đánh giá về sự ảnh hƣởng tiêu cực của hoạt
động bảo vệ rừng đến đời sống hộ đƣợc xếp
theo thứ tự từ cao đến thấp nhƣ sau: Giảm sản
lƣợng khai thác các sản phầm từ rừng (có
82% ý kiến); Giảm thu nhập (67% ý kiến);
Giảm diện tích chăn thả gia súc (48% ý kiến);
Giảm diện tích đất sản xuất (46% ý kiến); Các
ý kiến khác (21% ý kiến).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 – 48
47
Rõ ràng là khi rừng đƣợc bảo vệ nghiêm ngặt
hơn thì ngƣời dân không thể tự do khai thác
các sản phẩm từ rừng, họ không thể phá rừng
để lấy đất sản xuất nông nghiệp và không thể
tự do chăn thả gia súc. Tất cả các yếu tố này
đều làm giảm thu nhập của hộ. (ii) Có 6 vấn
đề đƣợc ngƣời dân đánh giá về những tác
động tích cực của bảo vệ rừng đến đời sống
hộ đó là: Môi trƣờng tốt hơn (69% ý kiến);
Nguồn nƣớc ổn định cho sinh hoạt, sản xuất
(68% ý kiến); Giảm lũ vào mùa mƣa (51% ý
kiến); Tăng thu nhập từ công bảo vệ rừng
(36% ý kiến); Cải thiện cơ sở hạ tầng (21% ý
kiến); Các ý kiến khác (16% ý kiến). Nhƣ vậy
ngƣời dân cũng đã nhận thấy đƣợc vai trò to
lớn của rừng với môi trƣờng và trực tiếp đến
cuộc sống, sinh hoạt của họ.
* Những hạn chế trong việc cuốn hút cộng
đồng tham gia vào quản lý rừng:
- Ngƣời dân sống trong và xung quanh RĐD
chƣa thấy đƣợc lợi ích do việc thành lập RĐD
mang lại. Họ chỉ thấy việc thành lập RĐD là
gây ra nhiều khó khăn trong cuộc sống của họ;
- Ranh giới của RĐD, ranh giới của vùng đệm
đƣợc xác định rõ ràng trên bản đồ tuy nhiên
trên thực địa thì rất khó khăn để xác định nên
nhiều khi ngƣời dân không biết mình có xâm
phạm vào ranh giới khu bảo tồn không;
- Thiếu sự phối hợp với các chƣơng trình
quốc gia hay các dự án trong lĩnh vực quản lý
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát triển
rừng (Giao đất, giao rừng, khoán khoanh nuôi
bảo vệ, trồng rừng...);
- Ngƣời dân thiếu vốn để đầu tƣ sản xuất,
thiếu kiến thức kỹ thuật về trồng, gieo ƣơm và
các kỹ thuật trong sản xuất lâm nông nghiệp.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý rừng
Trên cơ sở phân tích thực trạng QLR và sự
tham gia quản lý bảo vệ rừng của ngƣời
dân, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần nâng cao khả năng QLR tại RĐD
Hữu Liên nhƣ sau:
- Tiếp tục thực hiện giao khoán bảo vệ rừng
cho hộ gia đình quản lý, gắn trách nhiệm hơn
nữa với các hộ và có chế tài mạnh hơn để xử
lý các hộ vi phạm hợp đồng, nếu hộ nào vi
phạm hợp đồng trong 2 năm liên lục thì
không giao khoán bảo vệ trong năm tiếp theo;
- Kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo ban quản lý
RĐD, cử lần lƣợt cán bộ đi tập huấn nâng cao
năng lực về công tác quản lý bảo vệ rừng;
- Đổi mới cách thức hoạt động của đội 12
bằng cách phối hợp tổ chức các lớp tập huấn,
tuyên truyền cho cộng đồng dân cƣ về luật
bảo vệ và phát triển rừng, các văn bản liên
quan đến bảo vệ rừng...;
- Ban quản lý RĐD cần phối hợp chặt chẽ hơn
nữa với chính quyền và các tổ chức trong xã,
thôn để thực hiện công tác QLR, phối hợp với
ngân hàng để hƣớng dẫn ngƣời dân vay vốn
đầu tƣ vào sản xuất, nâng cao năng xuất, chất
lƣợng các mặt hàng nông sản.
Bảo vệ rừng làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống nông hộ
46
82
48
67
21
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Giảm diện tích đất
sản xuất
Giảm sản lượng
khai thác các sản
phẩm khác từ rừng
Giảm diện tích
chăn thả gia súc
Giảm thu nhập Khác
%
s
ố
h
ộ
Bảo vệ rừng có tác động tích cực đến đời sống nông hộ
68
51
36
21
69
16
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Nguồn nước ổn
định cho sản
xuất và sinh
hoạt
Giảm lũ vào
mùa mưa
Tăng thêm thu
nhập từ công
khoán BVR
Cải thiện cơ sở
hạ tầng
Môi trường tốt
hơn
Khác
%
s
ố
h
ộ
Hình 4. Ảnh hƣởng của hoạt động bảo vệ rừng đến đời sống nông hộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Hữu Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 77(01): 43 - 48
48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bảo Huy và cộng sự (2005), “Báo cáo nghiên
cứu tham vấn hiện trường khu vực tây nguyên về
Lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn ở
Việt nam”, Chƣơng trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp
và đối tác, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Ngọc Lung (1998), “Forest
management system and forestry policies in Vietnam.
Proceeding of the national seminar on sustainable
forest management and forest certification” (Ho Chi
Minh City 1-12 February 1998)
[3]. Furey, N., L.X.Cảnh và Fanning, E (2000)
“Khảo sát đa dạng sinh học và đánh giá công tác
bảo tồn tại khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên”,
Chƣơng trình nghiên cứu rừng Frontier-Việt Nam do
Tổ chức khám phá môi trƣờng LONDON và Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Hà Nội
SUMMARY
THE CURRENT SITUATION OF FOREST MANAGEMENT AND THE
PARTICIPATORY OF LOCAL COMMUNITY IN FOREST PROTECTION
AT HUU LIEN SPECIAL-USE FOREST, HUU LUNG DISTRICT, LANG SON
Nguyen Huu Giang
College of Agriculture and Forestry – TNU
Inappropriate management of forest resources is a reason leads to continuous degradation of area
and quality of forest in Huu Lien special use forests. The low efficiency of forest resource
management doest not meet the needs of sustainable development in economic, social and
environment. The result of study shows that household management of forest and forest land is
the most effective management and Special used forest management board is the most low
effective management. All people living in villages of the special-used forest have participated in
the construction "Protecting forest convention" but most people have not interested in this pledge.
80,07% of households have not known anything about 661 programs and policies related to the
mechanism of benefit in the reforestation, the only hire seasonal labor exchange between the
special used-forest management with the people has not created the long-term stability of
livelihoods to households through the program 661
Keywords: Forest management, forest, community, special use forests, Huu Lien - Lang Son
Tel: 0982688286; Email: huugiangkn@gmail.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_quan_ly_va_su_tham_gia_cua_cong_dong_dia_phuong_t.pdf