- Tàu thuyền được ngư dân sử dụng để khai
thác vùng gò nổi, rạn đá chưa nhiều, chỉ có khoảng
144 tàu của 4 tỉnh (Quảng Tri, Quảng Ngãi, Ninh
Thuận và Tiền Giang) tham gia đánh bắt. Tàu thuyền
sản xuất nghề này có dải công suất khá rộng, từ
33cv đến 450cv; trong đó số tàu lắp máy công suất
dưới 50cv là 37 chiếc, chiếm 25,69%, không phù
hợp với quy định về vùng hoạt động [2].
- Nghề lưới rê khai thác ở vùng gò nổi là nghề
đánh bắt tự phát, hết sức mới mẻ do ngư dân tự mò
mẫm về cả thiết kế, chế tạo cũng như kỹ thuật khai
thác nên hiệu quả đánh bắt chưa được ổn định. [4]
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nghề lưới
rê khai thác vùng gò nổi, rạn đá dốc lục địa miền
Trung bước đầu đã đạt được hiệu quả trên các mặt
như sau:
- Về kinh tế tuy chưa ổn định nhưng bước đầu
đã mang lại hiệu quả cao hơn hẳn so với nghề lưới
rê khai thác ở ngư trường truyền thống.
- Nghề lưới rê cố định tầng đáy khai thác vùng
gò nổi sẽ là cơ hội giúp cho việc chuyển đổi nghề
nhằm giảm áp lực khai thác cho nguồn lợi vùng biển
ven bờ.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng nghề lưới rê cố định tầng đáy khai thác cá tại gò nổi và vùng rạn đá dốc thềm lục địa biển miền Trung Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 43
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
THỰC TRẠNG NGHỀ LƯỚI RÊ CỐ ĐỊNH TẦNG ĐÁY KHAI THÁC CÁ
TẠI GÒ NỔI VÀ VÙNG RẠN ĐÁ DỐC THỀM LỤC ĐỊA BIỂN
MIỀN TRUNG VIỆT NAM
THE REALITY OF FIXED BOTTOM GILL NETS FISHING OF UNDERSEA HILLS
AND THE CONTINENTAL SHELF- SLOPE IN THE CENTRAL COAST OF VIETNAM
Nguyễn Văn Lung1, Phan Trọng Huyến2
Ngày nhận bài: 18/3/2015; Ngày phản biện thông qua: 20/4/2015; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015
TÓM TẮT
Các số liệu trong bài báo này, được tiến hành điều tra, thu mẫu và phỏng vấn trực tiếp 144 tàu thực tế làm nghề lưới
rê khai thác cá đáy vùng gò nổi, rạn đá, dốc lục địa miền Trung. Nghề lưới rê khai thác vùng gò rạn miền Trung chủ yếu
tập trung ở 4 tỉnh, trong đó Tiền Giang và Ninh Thuận có số tàu nhiều nhất (45 chiếc); tiếp theo là Quảng Ngãi (34 chiếc);
ít nhất là Quảng Trị chỉ có 20 chiếc. Đội tàu này có dải công suất khá rộng, từ 33 ÷ 450cv, trong đó nhóm tàu lắp máy
công suất nhỏ (33 ÷ 89cv) chiếm tỷ lệ cao nhất (50%), chủ yếu tập trung ở các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi và Ninh Thuận.
Tiếp theo là loại tàu thuộc nhóm công suất máy lớn (250 ÷ 450cv) chiếm (31,25%), chủ yếu tập trung ở tỉnh Tiền Giang.
Ngư cụ khai thác ở đây gồm cả lưới rê đơn và rê 3 lớp, trong đó lưới rê đơn được sử dụng trên cả 4 tỉnh (Quảng Trị,
Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Tiền Giang); còn nghề lưới rê 3 lớp chỉ có ở hai tỉnh Ninh Thuận và Quảng Trị.
Kết quả khảo sát cho thấy, 100 % mẫu lưới rê đều có kích mắt lưới phù hợp quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT
về kích thước mắt lưới tối thiểu được phép sử dụng trong nghề lưới rê [1].
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tính đến năm 2014, tổng số tàu nghề lưới rê khai thác cá đáy vùng gò nổi miền
Trung chỉ có 144 chiếc là quá ít so với tiềm năng nguồn lợi của ngư trường này. Bước đầu cho thấy nghề lưới rê khai thác
vùng gò nổi đã thu được kết quả cao hơn so với lưới rê ở ngư trường truyền thống, trong đó nghề lưới rê đơn, kích thước
mắt lưới 2a=200mm của tỉnh Tiền Giang có năng suất và chất lượng sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu cao nhất (70%) [3].
Từ khóa: thực trạng, lưới rê cố định, gò nổi, rạn đá, dốc thềm lục địa, biển miền Trung
ABSTRACT
The data in this paper was collected by surveying and interview directly with fi shermen of 144 fi shing boats at (who
are exploiting fi sh gill nets at the undersea hill, reef) continental slope in the Central Coast of Vietnam. Fishery work is
most located at four provinces include Tien Giang and Ninh Thuan with the largest numbers (45 ships), and Quang Ngai
(34 ships) and Quang Tri (20 ships). This vessels have large capacity range from 33 to 450cv with the low capacity ships
(33-89cv). Accounting the highest rate of 50% focused mainly in Quang Tri, Quang Ngai and Ninh Thuan. The next group
is large capacity (250-450cv) (31,25%), concentrated mostly in Tien Giang province.
The fi shing gear are the gill net and three – layer gill net. The single gill net has been used in all four provinces
(Quang Tri, Quang Ngai, Ninh Thuan, Tien Giang) and three-layer gill net has been used at two provinces only (Ninh
Thuan, Quang Tri).
The results of a survey show that 100 % of fi shing gear sample reaches the regulation of Ministry of Agricultthoonand
rural development in minimum size meshes
The results of research also show, up to 2014, the total number of 144 fi shing vessels at the bottom of undersea hill,
reef in the Central Coast is still too small in compare with the potential resource of the fi shery sector. The initial result
show that fi shing gear in undersea hill, reef have the higher profi t in compare with the traditional fi shing method (ground
fi shing). The using gill net of mesh size (2a=200mm) in the Tien Giang province reached productivity and quality which
meets the highest export standard (70%)
Keywords: Reality,bottom gill nets, undersea hill, continental slope, the Central Coast
1 ThS. Nguyễn Văn Lung: Nghiên cứu sinh ngành Công nghệ Khai thác thủy sản 2010 - Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Phan Trọng Huyến: Trường Đại học Nha Trang
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
44 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, ngư dân các tỉnh
ven biển miền Trung (chủ yếu là các tỉnh Quảng Trị,
Quảng Ngãi, Ninh Thuận) và tỉnh Tiền Giang đã đưa
tàu ra khai thác vùng gò nổi, rạn đá dốc thềm lục địa
(trong bài báo gọi là vùng gò nổi) bằng lưới rê cố
định tầng đáy.
Những thông tin khảo sát ban đầu về nghề lưới
rê tầng đáy đang khai thác tại vùng gò nổi miền
Trung đã mang lại những kết quả bước đầu đáng
quan tâm. Trước hết, do sản phẩm đánh bắt của
nghề này là những loài thủy đặc sản quý hiếm, có
giá trị xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao cho ngư dân.
Thứ hai, nghề lưới rê cố định khai thác cá đáy phù
hợp với ngư trường là vùng gò nổi mà các nghề
khác (lưới kéo, lưới vây,...) không thể khai thác
được. Thứ ba, đây là nghề cá xa bờ có hiệu quả
đã và đang thu hút ngư dân tự phát đưa tàu ra khai
thác vùng khơi góp phần giảm áp lực đánh bắt cho
vùng biển ven bờ.
Do đặc điểm địa hình và đặc điểm hải dương
khí tượng của ngư trường này rất phức tạp nên hoạt
động sản xuất có sự khác biệt so với nghề lưới rê
ở ngư trường truyền thống. Mặt khác, do quá trình
hình thành nghề đánh bắt này mang tính tự phát
nên ngư dân phải tự mò mẫm từ khâu chế tạo ngư
cụ đến trang bị kỹ thuật cũng như việc tìm kiếm ngư
trường và tổ chức sản xuất. Từ những đặc điểm này
dẫn đến kỹ thuật và công nghệ khai thác của nghề
lưới rê cố định khai thác cá tầng đáy ở vùng gò nổi
miền Trung Việt Nam còn nhiều hạn chế, hiệu quả
đánh bắt cũng chưa thật ổn định.
Để có cơ sở khoa học nhằm khuyến cáo cho
ngư dân nên đầu tư vào nghề này hay không thì
việc tiến hành những nghiên cứu sâu, đánh giá
được mức độ hiệu quả đánh bắt của nghề lưới rê
tầng đáy khai thác cá vùng gò nổi là rất cần thiết.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là
phương pháp phi thực nghiệm, trong đó các số
liệu thứ cấp được thu thập từ các tài liệu về quản
lý và quy hoạch nghề cá của tỉnh miền Trung và
Tiền Giang.
Các số liệu sơ cấp được khảo sát trực tiếp bằng
phiếu điều tra gồm những thông tin tàu thuyền, trang
thiết bị, ngư cụ, thuyền viên, ngư trường, mùa vụ và
sản lượng khai thác.
Mẫu phiếu được điều tra theo phương pháp
điều tra mẫu ngẫu nhiên và đại diện.
Xử lý số liệu điều tra: Theo phương pháp thống
kê mô tả trên phần mềm SPSS 14.0 và MS. Excel.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Kết quả điều tra thực trạng nghề lưới rê khai
thác cá vùng gò nổi miền Trung
1.1. Thực trạng về tàu thuyền nghề lưới rê khai thác
cá vùng gò nổi
Tàu thuyền làm nghề lưới rê khai thác cá đáy
vùng gò nổi miền Trung Việt Nam chỉ có 144 chiếc
tập trung ở 4 tỉnh Tiền Giang; Ninh Thuận; Quảng
Ngãi; Quảng Trị, được phân bố theo địa phương và
nhóm công suất, như trong bảng 1.
Bảng 1. Cơ cấu tàu thuyền nghề lưới rê tầng đáy khai thác cá rạn theo công suất và địa phương
Công suất 33-49cv 50-89cv 90-149cv 150-249cv 250-450cv Tổng (chiếc)
Quảng Trị 16 4 0 0 0 20
Quảng Ngãi 9 15 6 3 1 34
Ninh Thuận 12 16 12 4 1 45
Tiền Giang 0 0 0 2 43 45
Tổng (chiếc) 37 35 18 9 45 144
Từ bảng 1, cho thấy tàu thuyền nghề lưới rê cố
định khai thác tầng đáy vùng gò nổi, có công suất
từ 33cv đến 450cv. Loại tàu lắp máy công suất nhỏ
(33÷89cv) chiếm tỷ lệ cao nhất (50%), chủ yếu tập
trung ở các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi và Ninh
Thuận. Tiếp theo là loại tàu thuộc nhóm công suất
máy lớn (250÷450cv) chiếm (31,25%), chủ yếu tập
trung ở tỉnh Tiền Giang. Loại tàu lắp máy công suất
trung bình (90÷149cv) chỉ chiếm 18,75%, chủ yếu là
các tỉnh Quảng Ngãi và Ninh Thuận.
1.2. Thực trạng về ngư cụ nghề lưới rê cố định tầng
đáy tại vùng gò nổi miền Trung Việt Nam
Ngư cụ nghề lưới rê khai thác cá đáy vùng gò
nổi, rạn đá ở biển miền Trung gồm 2 loại chính là
lưới rê đơn và lưới rê 3 lớp. Kết quả khảo sát thực
trạng ngư cụ nghề lưới rê khai thác cá đáy vùng gò
nổi, rạn đá có các đặc điểm chính được thể hiện
trong bảng 2 và bảng 3.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 45
Từ bảng 2 và bảng 3 cho có nhận xét như sau:
- Lưới rê đơn được sử dụng trên cả 4 tỉnh
(Quảng Trị, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Tiền Giang);
còn nghề lưới rê 3 lớp chỉ có ở hai tỉnh Ninh Thuận
và Quảng Trị. Lưới rê đơn của 4 tỉnh có thông số
cấu tạo khác nhau: Chiều dài cheo lưới thay đổi từ
50 đến 70m; nhỏ nhất là lưới của Quảng Ngãi (50m)
và dài nhất là Ninh Thuận, Tiền Giang (70m). Chiều
cao cheo lưới của các tỉnh sai khác nhau không
đáng kể, riêng lưới rê đơn Tiền Giang có chiều cao
5m; các tỉnh còn lại chỉ có 4m.
- Lưới rê 3 lớp của tỉnh Ninh Thuận có độ chênh
chiều cao kéo căng lớp trong và lớp ngoài (1,49 lần)
nhỏ hơn độ chênh chiều cao lưới rê Quảng Trị (1,57
lần) nên khi lắp ráp xong, cheo lưới rê Quảng Trị sẽ
tạo độ chùng lớn hơn cheo lưới rê Ninh Thuận.
1.3. Thực trạng thuyền viên nghề lưới rê cố định
tầng đáy hoạt động tại gò nổi miền Trung Việt Nam
Kết quả phỏng vấn 200 thuyền viên thu được
những thông tin về lao động của nghề lưới rê cố
định tầng đáy hoạt động tại gò nổi và vùng rạn như
bảng 4.
Bảng 2. Thông số kỹ thuật các mẫu lưới rê đơn khai thác cá vùng gò nổi
TT Thông số Quảng Trị Quảng Ngãi Ninh Thuận Tiền Giang
1 Chiều dài cheo lưới (m) 60 50 70 70
2 Chiều cao cheo lưới(m) 4 4 4 5
3 Vật liệu chỉ lưới PA mono PA mono PA mono PA mono
4 Kích thước 2a (mm) 200 100 80÷140 185 ÷ 200
5 Độ thô chỉ d (mm) 0,8 0,35 0,35 1÷1,05
6 Hệ số rút gọn trên 0,5 0,38 0,47 0,44
7 Hệ số rút gọn dưới 0,6 0,4 0,6 Không có
8 Vật liệu-Ф giềng phao PA-Ф3 PE-Ф6 PA-Ф3 PP-Ф8
9 Vật liệu-Ф giềng chì PE Ф4 PE-Ф2 PA-Ф1,2 Không có
Bảng 3. Thông số kỹ thuật các mẫu lưới rê 3 lớp khai thác cá vùng gò nổi, rạn đá
Vị trí Thông số Đơn vị Quảng Trị Ninh Thuận
Tấm
lưới
trong
Chiều dài cheo lưới mắt 925 2700
Chiều cao cheo lưới mắt 24 24
Kích thước mắt lưới (2a) mm 120 130
Đường kính chỉ lưới (d) mm 0,3 0,5
Vật liệu chỉ lưới PA mono PA mono
Hệ số rút gọn ngang trên 0,54 0,45
Hệ số rút gọn ngang dưới 0,56 0,55
Tấm
lưới
ngoài
Chiều dài cheo lưới mắt 204 600
Chiều cao cheo lưới mắt 4 3,5
Kích thước mắt lưới (2a) mm 460 540
Đường kính chỉ lưới (d) mm 0,5 0,8
Vật liệu chỉ lưới PA mono PA mono
Hệ số rút gọn trên 0,64 0,55
Hệ số rút gọn dưới 0,64 0,66
Bảng 4. Kết quả điều tra về thuyền viên nghề lưới rê cố định tầng đáy hoạt động tại vùng gò nổi
Chỉ số đánh giá Các mức đánh giá Tỷ lệ %
Trình độ học vấn
Cấp tiểu học 65
Cấp Trung học cơ sở 29
Cấp Trung học phổ thông 06
Chuyên môn nghề nghiệp
của thuyền viên
Đã qua đào tạo 0
Chỉ học theo kinh nghiệm thực tế 100
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
46 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Từ bảng 4 cho thấy thuyền viên nghề lưới rê cố
định khai thác cá tầng đáy khu vực gò nổi hầu hết
có học vấn thấp. Theo kết quả thống kê có khoảng
65% trong tổng số người được hỏi có học vấn ở
bậc tiểu học, thực tế tỷ lệ này cao hơn nhiều, thậm
chí trong số đó còn có nhiều người mù chữ hoặc tái
mù chữ.
Về chuyên môn nghiệp vụ thì 100% thuyền
viên đều chưa được đào tạo, bồi dưỡng qua trường
lớp nào, ngoại trừ các chức danh thuyền trưởng,
máy trưởng buộc phải có để đủ điều kiện đưa tàu
đi sản xuất.
1.4. Thực trạng về sản phẩm đánh bắt của nghề lưới
rê cố định tầng đáy tại gò nổi miền Trung
Trực tiếp khảo sát 285 mẫu sản phẩm đánh bắt
được của nghề lưới rê cố định khai thác tại gò nổi
cho thấy có 30 loài chính, trong đó 8 loài có tần suất
bắt gặp chiếm tỷ lệ trên 5% được trình bày như ở
bảng 5.
Bảng 5. Thống kê tần suất và tỷ lệ cá đánh bắt được
TT Tên địa phương Tên khoa học Tần suất bắt gặp Tỷ lệ %
1 Cá bò da giấy Aluterus monoceros 21 7,4
2 Cá bè Scomberroides lysan 22 7,7
3 Cá dấm Dentex maroccanus Valencienes 29 10,2
4 Cá đổng sộp Pristipomoides fi lamentosules 16 5,6
5 Cá gáy mõm dài (cá hè) Lethrinusminiatus 20 7,0
6 Cá kẽm xám Plectorhynchus schotaf 48 16,5
7 Cá mập trắng Carcharhinus dussumieri 15 5,3
8 Cá mú chấm to Plectropomus leopardus 18 6,3
Từ bảng 5 cho thấy tần suất bắt gặp nhiều nhất
là cá kẽm chiếm 16,5%; thứ 2 là cá dấm; chiếm
10,2%; tiếp đến là các loài cá Gáy, cá Bò da, cá Bè
chiếm trên 7%.
2. Phân tích, đánh giá về thực trạng nghề lưới rê
khai thác cá đáy ở vùng gò nổi
2.1. Phân tích, đánh giá thực trạng về tàu thuyền
Về số lượng tàu thực tế hoạt động đánh bắt
nghề lưới rê khai thác cá đáy ở vùng gò nổi chỉ
có 144 chiếc là quá ít so với tiềm năng nguồn lợi
cũng như phạm vi ngư trường.
Về công suất, đội tàu này sử dụng dải công
suất khá rộng, từ 33cv đến 450cv, trong đó số tàu
lắp máy công suất dưới 50cv là 37 chiếc, chiếm
25,69%, không phù hợp với quy định về vùng hoạt
động [2].
2.2. Đánh giá thực trạng về ngư cụ
Để đánh giá đúng thực trạng lưới rê khai thác
cá tầng đáy ở gò nổi, rạn đá dốc thềm lục địa miền
Trung có thể dựa vào số liệu so sánh ở bảng 8.
Bảng 8. So sánh thông số kỹ thuật lưới rê khai thác cá đáy gò nổi và lưới rê đáy truyền thống
TT Thông số Truyền thống Các tỉnh miền trung Tiền Giang
1 Chiều dài cheo lưới (m) 50 50-70 70
2 Chiều cao cheo lưới(m) 7 4 5
3 Kích thước 2a (mm) 40÷180 80 ÷ 140 185 ÷ 200
4 Độ thô chỉ d (mm) 0,06÷0,85 0,35÷0,80 1÷1,05
5 Hệ số rút gọn trên 0,5 0,38÷0,5 0,44
7 Vật liệu PA mono PA mono PA mono
Từ bảng 8 cho thấy lưới rê tầng đáy khai thác
cá rạn có cấu tạo chiều cao nhỏ hơn so với lưới rê
đáy truyền thống. Đặc điểm này phù hợp với chiều
cao gò nổi, vừa tiết kiệm được vật liệu mà vẫn đủ
chiều cao lưới để chặn cá. Chỉ lưới được sử dụng
cùng loại vật liệu PA mono nhưng lưới rê khai thác
vùng rạn có độ thô và kích thước 2a lớn hơn lưới
rê truyền thống là phù hợp với đánh bắt loại cá lớn
thường cư trú vùng rạn.
Nhìn từ khía cạnh khác, bảng 3-3 cho thấy, lưới
lớp giữa cao 3,12m, nhưng khi lắp vào lớp màn bao
thì chiều cao thực tế chỉ còn là 1,32m, hệ số độ
chùng đứng là 0,4. Do lưới PA nặng nên chìm xuống
và tạo thành một lớp lưới bùng nhùng sát giềng chì,
phần lưới này không có tác dụng mắc cá nhưng lại
dễ gây vướng vào rạn đá.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 47
2.3. Đánh giá thực trạng về thuyền viên
Phần lớn thuyền viên làm việc trên tàu lưới rê khai thác cá đáy vùng gò nổi miền Trung có trình độ học vấn
thấp chủ yếu là trình độ tiểu học (chiếm tỉ lệ 50,06%). Thực trạng này dẫn đến việc đào tạo để cấp các chứng
chỉ chuyên môn theo quy định cũng như áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nghề cá biển, đưa pháp luật vào
cuộc sống của ngư dân... gặp nhiều khó khăn. Đây cũng là một trong những yếu tố tác động rất lớn tới nhận
thức của người dân đối với các hoạt động khai thác thủy sản gây hại đối với môi trường, nguồn lợi thủy sản.
2.4. Phân tích, đánh giá về sản phẩm khai thác
Bảng 9. Số liệu đánh giá chất lượng sản phẩm khai thác nghề lưới rê của các địa phương
Thông số khảo sát Đơn vị tính
Lưới rê đơn Lưới rê 3 lớp
Q.Ngãi N.Thuận T.Giang Q.Trị N.Thuận
Tỷ lệ cá xuất khẩu % 15 20 70 50 55
Giá trị sản phẩm 1000 đồng/1kg 36 35 49 45 47
Kích cỡ sản phẩm kg/con 0,5 0,5 2 1 1
Từ bảng 9 cho thấy lưới rê đơn Tiền Giang khai thác vùng rạn SK1 nên sản phẩm có kích thước lớn (2kg/
con) hơn các địa phương khác, theo đó tỷ lệ cá xuất khẩu cũng cao nhất (70%).
Theo một khía cạnh khác thì, hiệu quả đánh bắt của lưới rê cố định tầng đáy khai thác cá rạn, gò nổi miền
Trung còn phụ thuộc vào kích thước mắt lưới. Kết quả thống kê kích thước cá đánh bắt phụ thuộc vào kích
thước mắt lưới được thể hiện ở bảng 10.
Bảng 10. Thống kê kích cơ cá đánh bắt được theo kích thước mắt lưới (2a)
TT Loại lưới 2a (mm) Cỡ cá đánh bắt Chất lượng
1 Lưới Rê đơn 100 0,4 kg/con Không xuất khẩu
2 Loại lưới rê đơn 140÷200 1÷ 2,5 kg/con Xuất khẩu
3 Lớp giữa lưới rê 3 lớp 130÷150 0,5 ÷1,2 kg/con Xuất khẩu
Từ bảng 10 cho thấy muốn mang lại hiệu quả cao phải sử dụng lưới có kích thước 2a từ 130mm trở lên để
bắt được loại cá có kích thước đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
2.5. Phân tích, đánh giá về kết quả sản xuất
Khảo sát thực tế chuyến biển của tàu lưới rê tầng đáy khai thác tại gò nổi miền Trung, của các tỉnh, có số
ngày rất khác nhau. Một chuyến biển của ngư dân Quảng Trị chỉ có 3 đến 4 ngày; Ninh Thuận là 7 đến 10 ngày;
Quảng Ngãi 28 ngày và dài nhất là Tiền Giang 60 ngày. Để tiện so sánh kết quả khai thác giữa các tàu chúng
tôi lấy số ngày của chuyến biển chung cho các địa phương là 60 ngày/chuyến, sử dụng hệ số quy đổi và kết
quả tính toán như ở bảng 11.
Bảng 11. Số liệu tổng hợp kết quả khai thác nghề lưới rê của các địa phương quy đổi
Chỉ số thống kê Đơn vị
Lưới rê đơn Lưới rê 3 lớp
Q.Ngãi N.Thuận T.Giang Q.Trị N.Thuận
Hê số quy đổi 60 ngày/chuyến 2,14 8,57 1 17,14 7,06
Độ dài thực tế chuyến biẻn Ngày/chuyến 28 7 60 3÷4 7÷10
Năng suất đánh bắt kg/1000m lưới 10 8 15 5,5 9
Sản lượng khai thác Kg/tàu/chuyến 6400 2996 15000 3428 6354
Doanh thu Tr.đồng/tàu/chuyến 364 214 525 343 445
Chi phí Tr.đồng/tàu/chuyến 107 86 155 86 106
Lãi ròng Tr.đồng/tàu/chuyến 103 128 182 154 198
Từ bảng 11 cho thấy lưới rê tầng đáy khai thác vùng gò nổi miền Trung của Tiền Giang cho năng suất và
sản lượng cao nhất, dẫn đến kết quả là doanh thu chuyến biển cũng cao nhất. Tuy vậy, chi phí chuyến biển của
Tiền Giang lại cao nhất, gấp hai lần chi phí của Ninh Thuận, dẫn đến kết quả là lãi ròng chuyến biển của lưới
rê Tiền Giang thấp hơn Ninh Thuận. Mặc dù tàu Tiền Giang có chuyến biển dài ngày nhất để tránh chi phí đi lại
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
48 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
nhưng do ngư trường xa nên vẫn không khắc phục
được tổn thất này. Trong khi đó do ngư trường gần
nên tàu Ninh Thuận có độ dài chuyến biển ngắn (chỉ
bằng 1/8 của Tiền Giang) nhưng chi phí vẫn thấp
hơn 2 lần. Từ sự phân tích trên cho thấy yếu tố ngư
trường ảnh hưởng rất lớn đến kết quả khai thác của
nghề rê tầng đáy tại gò nổi miền Trung.
3. Một vài ý kiến đề xuất
Từ kết quả nghiên cứu, phân tích thực trạng
nghề lưới rê cố định khai thác cá đáy vùng gò nổi,
rạn đá dốc lục địa biển miền Trung, xin đề xuất
như sau:
- Cần có những nghiên cứu sâu về nghề này
và tiến hành khảo sát các đặc điểm về ngư trường,
nguồn lợi, các yếu tố khí tượng hải dương để giúp
cho ngư dân yên tâm đầu tư sản xuất.
- Về tàu thuyền: Cần khuyến cáo ngư dân đầu
tư tàu có công suất lớn, vỏ tàu vững chắc để an
toàn trong điều kiện ngư trường xa bờ, sóng gió lớn,
tàu có khả năng bám biển dài ngày để giảm chi phí
đi lại.
- Về tổ chức sản xuất: Cần tổ chức tàu mẹ thu
mua tại ngư trường để đảm bảo chất lượng sản
phẩm xuất khẩu, giảm bớt chi phí đi lại do ngư
trường xa bờ.
- Về ngư cụ: Khuyến cáo ngư dân sử dụng lưới
rê đơn, kích thước mắt lưới lớn (2a=200mm), độ thô
chỉ lưới lớn để phù hợp với việc đánh bắt cá sống
ở chân rạn.
- Về thuyền viên: Cần lựa chọn những người
có sức khoẻ tốt, có kinh nghiệm đi biển và có học
vấn từ trung học cơ sở trở lên và phải tổ chức bồi
dưỡng, huấn luyện tay nghề, chuyên môn nghề
lưới rê tại Trung tâm huấn luyện thuyền viên tàu cá
Trường Đại học Nha Trang.
IV. KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu về thực trạng nghề lưới
rê khai thác cá đáy vùng gò nổi miền Trung cho
phép đưa ra một số kết luận sau:
- Vùng gò nổi, rạn đá dốc lục địa miền Trung
là một ngư trường còn mới mẻ, chứa đựng nhiều
tiềm năng về nguồn lợi đặc hải sản, là điều kiện
thuận lợi mở ra hướng mới để phát triển nghề khai
thác hải sản xa bờ. Tuy nhiên, ngư trường này chưa
được nghiên cứu nhiều về các đặc điểm hải dương
khí tượng cũng như địa hình đáy biển là một trong
những trở ngại lớn cho ngư dân hoạt động khai thác
hải sản ở vùng này.
- Tàu thuyền được ngư dân sử dụng để khai
thác vùng gò nổi, rạn đá chưa nhiều, chỉ có khoảng
144 tàu của 4 tỉnh (Quảng Tri, Quảng Ngãi, Ninh
Thuận và Tiền Giang) tham gia đánh bắt. Tàu thuyền
sản xuất nghề này có dải công suất khá rộng, từ
33cv đến 450cv; trong đó số tàu lắp máy công suất
dưới 50cv là 37 chiếc, chiếm 25,69%, không phù
hợp với quy định về vùng hoạt động [2].
- Nghề lưới rê khai thác ở vùng gò nổi là nghề
đánh bắt tự phát, hết sức mới mẻ do ngư dân tự mò
mẫm về cả thiết kế, chế tạo cũng như kỹ thuật khai
thác nên hiệu quả đánh bắt chưa được ổn định. [4]
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nghề lưới
rê khai thác vùng gò nổi, rạn đá dốc lục địa miền
Trung bước đầu đã đạt được hiệu quả trên các mặt
như sau:
- Về kinh tế tuy chưa ổn định nhưng bước đầu
đã mang lại hiệu quả cao hơn hẳn so với nghề lưới
rê khai thác ở ngư trường truyền thống.
- Nghề lưới rê cố định tầng đáy khai thác vùng
gò nổi sẽ là cơ hội giúp cho việc chuyển đổi nghề
nhằm giảm áp lực khai thác cho nguồn lợi vùng biển
ven bờ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thủy sản (2006), Thông tư số 02/2006/TT-BTS ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Thủy sản hướng dẫn thi hành Nghị
định số 59/2005/NĐ - CP ngày 4 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ về điều kiện sản xuất, kinh doanh một số ngành nghề thủy
sản, Hà Nội.
2. Chính phủ (2010), Nghị định số 33/2010/NĐ-CP ngày 31/3/2010 về quản lý hoạt động khai thác thủy sản của tổ chức, cá
nhân Việt Nam trên các vùng biển, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Lung (2014), Nghiên cứu ứng dụng nghề lưới rê tầng đáy khai thác cá vùng gò nổi, rạn đá ngoài khơi miền Trung
Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ.
4. Nguyễn Văn Lung (2014), Thực trạng nghề lưới rê cố định tầng đáy khai thác cá vùng gò nổi và vùng rạn đá dốc lục địa biển
miền Trung Việt Nam. Báo cáo chuyên đề Tiến sĩ. Trường Đại học Nha Trang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_nghe_luoi_re_co_dinh_tang_day_khai_thac_ca_tai_go.pdf