3.3. Hiệu quả kinh tế của mỗi dạng hệ
thống NLKH huyện Võ Nhai
Mỗi dạng hệ thống có thành phần cây trồng,
vật nuôi khác nhau, với những công thức sản
xuất khác nhau, vì vậy mà hiệu quả kinh tế
của mỗi dạng hệ thống cũng khác nhau [3].
Để dễ dàng nhận thấy hiệu quả kinh tế trung
bình của các dạng hệ thống trong huyện Võ
Nhai hiện nay chúng tôi tổng hợp kết qu ả ở
bảng 03.3. Kết quả tính toán ở bảng trên cho
thấy hiệu quả kinh tế trung bình của các dạng
hệ thống có sự khác nhau khá rõ.
Dạng hệ thống cho hiệu quả kinh tế cao nhất
là: RcheRg cho t ổng thu nhập trung bình đạt
13.892.000 đ/ha/năm. Do trong dạng hệ thống
này cây chè là cây ch ủ lực của địa phương,
vài năm gần đây sản phẩm chè khô của huyện
Võ Nhaiđang có chất lượng tốt lên và bán
được giá nên cho thu nhập cao, tuy nhiên tổng
chi phí của dạng hệ thống này cũng khá lớn
lên tới 5.385.000 đ/ha/năm. Tiếp đến là dạng
hệ thống VAC cũng cho thu hiệu quả kinh tế
khá cao. T ổng thu nhập đạt 13.074.000
đ/ha/năm. Do trong d ạng hệ thống này thu
nhập chủ yếu là từ chăn nuôi và cây ăn quả,
không có thành phần rừng là một trong những
thành phần làm cho tổng thu n hập bình
quân/ha/năm của các dạng hệ thống giảm đi.
Tiếp theo là dạng hệ thống RVAC cũng cho
thu hiệu quả kinh tế tương đối cao. Tổng thu
nhập đạt 11.297.000 đ/ha/năm. Do trong dạng
hệ thống này thu nhập từ nhiều thành phần,
trong đó có cả chăn nuôi gia s úc, gia cầm và
nuôi cá. Tiếp đến là 2 dạng hệ thống RVCRg
và RVACRg cho hi ệu quả kinh tế ở mức
trung bình. T ổng thu nhập đạt 8.560.000
đ/ha/năm và 7.884.000 đ/ha/năm. Do trong
dạng hệ thống này thu nhập từ nhiều thành
phần, trong đó có cả rừng, cây ăn quả, cây
màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi cá.
Cuối cùng là dạng hệ thống RRg cho hiệu quả
kinh t ế thấp nhất. Tổng thu nhập chỉ đạt
4.482.000 đ/ha/năm. Do trong dạng hệ thống
này thu nhập chỉ có 2 thành phần là rừng và
lúa, ngô hoặc cây màu.
Như vậy hiệu quả kinh tế của các dạng hệ
thống phụ thuộc chặt chẽ vào thành phần cây
trồng, vật nuôi của hệ thống. Tuy nhiên
không phải lúc nào chún g ta cũ ng có th ể áp
dụng dạng hệ thống có hiệu quả kinh tế cao
vào sản xuất NLKH mà phải tuỳ vào từng
điều kiện cụ thể.
10 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 502 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng năng lực giảng dạy chương trình Địa lí 10 của giáo viên một số tỉnh khu vực Đông Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Việt Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 3 – 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA LÍ 10
CỦA GIÁO VIÊN MỘT SỐ TỈNH KHU VỰC ĐÔNG BẮC
Nguyễn Việt Tiến*
Trường c(( Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong bài báo này tác giả phân tích đánh giá năng l ực giảng dạy của GVĐL Trung học phổ thông
ở một số tỉnh miền núi phía Bắc trước đòi hỏi của Chương trình và nội dung SGK Địa lí lớp 10.
Theo ý kiến của tác giả, nội dung SGK Địa lí 10 hiện nay có những điểm mới và khó hơn so với
trước. Kết quả khảo sát ở một số tỉnh khu vực Đông Bắc cho thấy, có một tỉ lệ không nhỏ giáo
viên địa lí chưa nắm chắc kiến thức cơ bản của một số nội dung trong SGK, vì vậy, việc đổi mới
phương pháp giảng dạy đặc biệt khả năng sử dụng công nghệ thông tin cũng gặp không ít khó
khăn. Từ thực tế đó, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tập huấn bồi dưỡng nâng cao năng lực
giảng dạy cho giáo viên. Để các đợt tập huấn đạt hiệu quả tốt, nội dung tập huấn cần phù hợp với
nhu cầu mong muốn của giáo viên trên cơ sở các ý kiến đề nghị của họ.
Từ khoá: “năng lực”, “tập huấn”, “giảng dạy ”.
*
Xuất phát từ những trình bày trên, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát thực trạng năng lực
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, đáp ứng
yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tro ng
thời kỳ hội nhập, những năm gần đây ngành
giáo dục - đào tạo nước ta đang tích cực triển
khai việc giảng dạy theo nội dung chương
trình, sách giáo khoa mới đố i với tất cả các
môn học, trong đó có Địa lí lớp 10.
Thực tế hiện nay cho thấy, có không ít giáo
viên (GV) địa lý THPT trong cả nước, nhất
là các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc
gặp nhiều khó khăn cả về nội dung kiến thức
cũng như phương pháp giảng dạy khi tiếp
cận thực hiện theo chương trình, sách giáo
khoa mới. Nghiên cứu đánh giá để thấy đư ợc
thực trạng mức độ nắm kiến thức cũng như
phương pháp dạy học và khả năng vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực, khả năng
sử dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy của giáo viên nhằm làm cơ sở góp phần
nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng
thường xuyên cho giáo viên địa lí THPT ở
các tỉnh miền núi phía Bắc là nhiệm vụ quan
trọng, có ý nghĩa thiết thực.
* Nguyễn Việt Tiến, Tel: 0912530956,
Khoa Địa lý trường ĐHSP - ĐHTN
giảng dạy của giáo viên dạy Địa lí 10 tại 3
tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn và Hà Giang.
2. VÀI NÉT VỀ CÁC TỈNH ĐƯỢC
KHẢO SÁT
2.1. Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là tỉnh được tái lập năm 1997, gồm 1
thị xã và 07 huyện, có tổng diện tích tự nhiên
là 4 857,2 km2, dân số 306 nghìn người, mật
độ trung bình: 63 người/km2 (năm 2007). Dân
cư chủ yếu sống ở nông thôn trong các làng,
bản; tỉ lệ dân cư thành thị thấp, chiếm 15,6%
số dân của tỉnh. Mặc dù thu nhập bình quân
đầu người tăng trong những năm gần đây,
nhưng năm 2005 mới đạt 3,655 triệu đồng/
người.Toàn tỉnh có 15 trường THPT, cụ thể:
14 trường THPT công lập (trong đó gồm
01 trường THPT nội trú , 01 trường THPT
chuyên) và 01 trường THPT dân lập. Tổng số
giáo viên địa lí dạy ở các trường THPT: 34
người. Trừ một số trường như THPT thị xã
Bắc Kạn, Ba Bể, Chợ Mới, Na Rì, Chợ Đồn có
từ 3 - 4 giáo viên địa lí, còn lại phần lớn mỗi
trường có 02 GV, thậm chí có những trường
chỉ có 01 GV như THPT Bộc Bố, THPT Bình
Trung, THPT Dân t ộc nội trú, THPT Yên Hân.
Vì vậy, GV địa lí của nhiều trường phải dạy cả
ba khối từ lớp 10 đến lớp 12.
2.2. Tỉnh Lạng Sơn
Lạng Sơn là tỉnh miền núi nằm ở khu vực
Đông Bắc có diện tích tự nhiên là 6383,9
km2, dân số 751,8 nghìn người, mật độ 90
Nguyễn Việt Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
người/km2 (năm 2007). Lạng Sơn gồm 1
thành phố và 10 huyện. Năm 2005, tổng thu
nhập (GDP) của tỉnh đạt 4293,1 tỉ đồng, bình
quân đầu người đạt khoảng 5,8 triệu đồng.
Toàn tỉnh có 23 trường THPT, trong đó 21
trường công lập và 2 trường dân lập. Giáo
viên địa lí có 4 2 n gười, hầu h ết các trường
thường ch ỉ có từ 1-2 giáo viên, trừ một vài
trường có 3 giáo viên địa lí như: THPT Tràng
Định, THPT Cao Lộc, THPT Lộc Bình,
THPT Việt Bắc, THPT Văn Quan.
2.3. Tỉnh Hà Giang
Hà Giang nằm ở tận cùn g ph ía Bắc củ a Tổ
quốc với diện tích tự nhiên 7945,8 km2, dân
số 694,0 nghìn người, mật độ trung bình 86
người/ km2 (năm 2007). Tỷ lệ dân số thành thị
chiếm 11% tổng số dân. Hà Giang được chia
làm 11 đơn vị hành chính, gồm: 1 thị xã, 10
huyện. Đây là tỉnh biên giới khó khăn và kém
phát triển. Hà Giang chiếm 4 trong tổng số 7
huyện thuộc loại khó khăn nhất nước ta, đó là
các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn,
Mèo Vạc; thu nhập bình quân theo đầu người
đạt 3,6 triệu đồng/năm 2006.
Toàn tỉnh có 25 trường THPT, trong đó: 18
trường THPT, 1 trường THPT chuyên, 3
trường THPT nội trú, 2 trường cấp II – III, 1
trường THCS – THPT. Hiện tại cả tỉnh có 78
GV địa lí; bên cạnh nhiều trường chỉ có từ 1-2
giáo viên địa lí, cũng có những trường như
THPT Bắc Quang có tới 6 GV môn địa lí.
Nhận xét chung: Khu vực trung du và miền
núi phía Bắc nói chung và ba tỉnh Bắc Kạn,
Lạng Sơn và Hà Giang nói riêng thuộc vùng
kinh tế chậm phát triển của nước ta. Những
năm gần đ ây, mặc dù k in h tế đ ã có n h iều
chuyển biến theo hướng tích cực, nhưng nhìn
chung công nghiệp và dịch vụ còn nhỏ bé,
nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp
và mang tính tự cung tự cấp. Cơ sở vật chất
kỹ thuật và cơ sở hạ tầng kém phát triển, đời
sống của đồng bào các dân tộc gặp rất nhiều
khó khăn. Thu nhập GDP bình quân theo đầu
người thấp so với cả nước. Đây là địa bàn cư
trú của nhiều dân tộc ít người như: Tày,
Nùng, Dao, Sán Chay, Mông, ... (Hà Giang
có khoảng 25 dân tộc anh em sinh sống) với
mật độ không cao. Mỗi dân tộc có bản sắc
riêng, nhưng vẫn có một số đặc điểm chung
như sự phân công lao động trong gia đình
chặt chẽ, trẻ em cũng làm việc giúp gia đình,
do đó đã hạn chế tới thời gian học tập của học
sinh (HS). Một số đồng bào dân tộc thiểu số
trình độ dân trí còn thấp, tồn tại nhiều hủ tục,
nhiều em trong độ tuổi đi học kết hôn sớm
nên đã ảnh hưởng tới số lượng HS ở cấp
THPT. Ở những vùng cao, vùng sâu với địa
hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, dân
cư thưa thớt tron g k h i số lượn g các trường
THPT ít, nhiều huyện chỉ có một trường
THPT gây khó khăn cho việc đến trường của
học sinh. Sự phân hóa về chất lượng cuộc
sống theo lãnh thổ khá rõ nét. Mức sống của
đồng bào dân tộc ở các vùng cao, vùng sâu
còn thấp và có khoảng cách khá xa so vớ i
đồng bào vùng thấp và đô thị. Tuy nhiên, bên
cạnh những khó khăn trên, các tỉnh cũng có
những thuận lợi nhất định, đó là Nhà nước đã
quan tâm đầu tư về nhiều mặt, đặc biệt là đầu
tư cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo (GD-ĐT).
Có chế độ đãi ngộ đối với những cán bộ, GV
công tác ở vùng cao, vùng 135 ... hỗ trợ cho
HS đồng bào dân tộc sách, vở, đồ dùng học
tập, hỗ trợ kinh phí cho các lớp xóa mù, lớp
phổ cập, mở các lớp học nghề, góp phần nâng
cao chất lượng GD - ĐT.
Về đội ngũ giáo viên địa lí: Như trên đã trình
bày, số lượng GV địa lí ở phần lớn các
trường rất ít, nhiều trường chỉ có một GV.
Đây cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng tới
chất lượng giảng dạy bộ môn, vì GV không
có điều kiện trao đổi chuyên môn với các
đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm nâng cao
trình độ chuyên môn. Mặt khác, một GV
phải dạy nhiều lớp ở cả 3 khối lớp 10, 11, 12
nên phải soạn nhiều giáo án, dẫn tới thời
gian đầu tư cho việc soạn mỗi giáo án không
nhiều, GV cũng không có điều kiện đầu tư
cho đồ dùng dạy học, điều đó đã ảnh hưởng
đến chất lượng dạy - học môn địa lí.
3. KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG
3.1. Mục đích, nội dung, đối tượng, phương
pháp khảo sát
- Mục đích khảo sát: Đánh giá năng lực
giảng dạy địa lí 10 của GV nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng thường
xuyên cho giáo viên địa lí THPT.
Nguyễn Việt Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 3 – 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
- Nội dung khảo sát: 1). Mức độ nắm nội
dung kiến thức cơ b ản đ ịa lí 1 0 th eo từn g
chương cụ th ể; 2 ). Mức độ đ ược trang bị lí
luận cũng như phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hoá; 3). Khả năng sử dụng
CNTT trong dạy học; 4). Nhu cầu về nội dung
bồi dưỡng thường xuyên của giáo viên.
- Đối tượng khảo sát: Giáo viên địa lí các
trường THPT, chia làm 3 nhóm theo thời gian
giảng dạy: dưới 5 năm, từ 5 đến 14 năm, từ
15 năm trở lên.
- Phương pháp khảo sát : Sử dụng các phiếu
điều tra và trao đổi trực tiếp.
3.2. Thực trạng năng lực giảng dạy địa lí
10 THPT
Dựa trên kết quả tổng hợp và phân tích chủ
yếu từ các phiếu điều tra (144 phiếu), chúng
tôi nhận thấy như sau:
3.2.1. Tổng hợp chung của tất cả các nhóm
a. Về kiến thức
Hình 1. Mức độ nắm kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa Địa lí 10
Từ biểu đồ trên có thể dễ dàng nhận thấy các
nội dung thuộc nhóm kiến thức Địa lí kinh tế
– xã hội (Địa lí dân cư, Cơ cấu nền k inh tế,
Địa lí nông nghiệp, Địa lí dịch vụ, Môi trường
và sự phát triển bền vững), đa số giáo viên
nắm k há tốt. Tu y nh iên, ở p hần Địa lí tự
nhiên (Bản đồ, Vũ trụ . Hệ Mặt Trời và Trái
Đất, Cấu trúc Trái Đất. Một số quy luật của
lớp vỏ địa lí. Các quyển địa lí) tỷ lệ nắm
chưa tốt về kiến thức cơ bản đối với cả 4 nội
dung của giáo viên còn chiếm khá nhiều, nhất
là nội dung Bản đồ.
b. Về phương pháp
Biểu đồ Hình 2. cho thấy mức độ nắm vững lí
luận dạy học cũng như phương pháp và vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực trong
giảng dạy của giáo viên nói chung khá tốt, tuy
nhiên tỷ lệ trung bình còn khá cao.
Từ lí thuyết vận dụng vào thực tiễn đối với
một số giáo viên còn yếu.
Hình 2. Đổi mới phương pháp giảng dạy
c. Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin
51.4 48.7 43.1
48.6 51.3
45.9
11
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Møc ®é ®îc trang bÞ
lÝ luËn DH tÝch cùc
ho¸
N¾m v÷ng PP d¹y
häc tÝch cùc ho¸
VËn dông LL&PP
d¹y häc tÞch cùc ho¸
Tû lÖ (%)
Y Õu
Trung b×nh
Tèt
Nguyễn Việt Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
15.3 13.9 12.5
30.5
27.8 26.3
19.4
54.2 58.3 61.2
69.5
11.5
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
§· ®îc trang bÞ kiÕn
thøc c¬ b¶n vÒ CNTT
Kh¶ n¨ng khai th¸c
th«ng tin tõ c¸c phÇn
mÒm
Kh¶ n¨ng øng dông
CNTT trong d¹y häc
N¾m quy tr×nh vµ thiÕt kÕ
bµi gi¶ng ®iÖn tö
Tû lÖ (%)
Kh«ng biÕt hoÆc
sö dông rÊt kÐm
BiÕt sö dông
Kh¸ thµnh th¹o
4.2 12.5
83.3
KiÕn thøc
Ph¬ng ph¸p
C¶ kiÕn thøc vµ ph¬ng ph¸p
Hình 3. Khả năng công nghệ thông tin
Khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong
khai thác tư liệu, soạn giảng giáo án điện tử
của đa số giáo viên còn chưa tốt. Tỉ lệ biết sử
dụng và nhất là có khả năng sử dụng thành
thạo còn rất nhỏ.
d. Các đợt tập huấn cần tập trung vào
Hình 4. Nhu cầu nội dung tập huấn
Phần lớn giáo viên đều có nguyện vọng, trong
các đợt tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên
được nâng cao cả về mặt kiến thức và phương
pháp giảng dạy.
3.2.2. Tổng hợp theo từng n hóm giáo viên
được khảo sát
a. Nhóm giáo viên có thời gian giảng dạy từ
15 năm trở lên
Đây là những giáo viên đã có thời gian công
tác lâu năm, có bề dày kinh nghiệm, họ đã
tích luỹ được nhiều kiến thức, đặc biệt là kĩ
năng nghề nghiệp và sử dụng các phươ ng
pháp dạy học truyền thống đạt hiệu quả cao.
Khả năng xử lí các tình huống sư phạm nói
chung rất tốt. Tuy nhiên, về mặt kiến thức cơ
bản, đây cũng là nhóm giáo viên yếu nhất về
phần địa lí tự nhiên, nhất là phần bản đồ (cơ
sở toán học của bản đồ, các phép chiếu đồ ...).
Hầu hết GV trong nhóm này rất yếu công
nghệ về thông tin.
b. Nhóm giáo viên có thời gian giảng dạy từ
5 đến 14 năm
Qua khảo sát và trao đổi trực tiếp với một số
giáo viên trong nhóm này, chúng tôi nhận
thấy phần lớn họ nắm vững kiến thức cơ bản,
đặc biệt các khái niệm khoa học. Về lí luận
dạy học tích cực và vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực trong giảng dạy, họ
cũng được trang bị và vận dụng ở mức trung
bình, hoặc tốt. Tuy nhiên, trong nhóm này
nhiều giáo viên cũng rất hạn chế về công
nghệ thông tin. Một số được trang bị trình độ
tin học cơ bản, nhưng việc khai thác thông tin
trên mạng, soạn và giảng giáo án điện tử còn
rất hạn chế.
c. Nhóm giáo viên có thời gian giảng dạy
dưới 5 năm
Đây là những giáo viên trẻ mới ra trường, nhờ
được đào tạo trong thời gian gần đây nên nói
chung họ nắm khá vững kiến thức chuyên
môn, kể cả những nội dung mới và khó trong
chương trình. Nhờ có điều k iện tiếp cận v ới
các thành tựu mới của khoa học và công
nghệ, họ rất nhạy bén trong cuộc sống cũng
như phần lớn có trình độ nhất định về công
nghệ thông tin. Tuy nhiên, do tuổi nghề còn
ít, nên họ thiếu kinh nghiệm giảng dạy cũng
như khả năng vận dụng các phương pháp dạy
học tích cực trong giảng dạy còn chưa đạt
hiệu quả cao. Một số giáo viên trẻ tuy đã có
trình độ tin học văn phòng cơ bản, nhưng khả
năng sử dụng tin học phục vụ giảng dạy vẫn
còn hạn chế.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Trong chương trình giáo dục địa lí phổ
thông, Địa lí lớp 10 có một vị trí quan trọng.
Nội du n g chủ y ếu củ a Địa lí 1 0 là cu ng cấp
những khái niệm cơ bản, làm cơ sở giúp học
sinh có thể tiếp tục học tập chương trình địa lí
các lớp 11 và 12. Vì là khái niệm nên kiến thức
trừu tượng, đòi hỏi giáo viên khi dạy học phải
có những phương pháp phù hợp, tăng cường
phát huy tính chủ động, sáng tạo tham gia lĩnh
hội tri thức của học sinh, có như vậy mới giúp
các em hiểu bài và nắm vững kiến thức.
- Qua thực tế khảo sát giáo viên ở ba tỉnh
cho thấy, một số giáo viên địa lí còn nắm
chưa tốt kiến thức cơ bản ở một số nội dung
trong sách giáo khoa Địa lí 10, nhất là các
nội dung liên quan tới phần Địa lí tự nhiên -
đây cũng là những nội dung kiến thức mới
Nguyễn Việt Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 3 – 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
và khó. Đối với lớp giáo viên đã ra trường
nhiều năm, họ gặp nhiều khó khăn do phần
lớn những kiến thức này đã có một thời gian
dài ít sử dụng. Vì thế để có thể giảng dạy tốt
những nội dung này, họ cần được tập huấn,
bồi dưỡng, bổ sung kịp thời hạn chế những
lỗ hổng kiến thức.
- Điều kiện kinh tế và giao thông ở các tỉnh
miền núi vốn đã có nhiều khó khăn, cộng vào
đó là những tập quán, thói qu en lạc hậu đã
khiến cho giáo dục phổ thông, nhất là giáo
dục THPT miền núi có khoảng cách xa so với
các tỉnh miền xuôi, đặc biệt với các trung tâm
đô thị phát triển. Việc dạy môn địa lí ở nhiều
trường THPT miền núi lại càng khó khăn khi
đội ngũ giáo viên quá ít, thậm chí nhiều
trường chỉ có 1 giáo viên, vì thế họ phải soạn
nhiều giáo án, đảm nhiệm dạy cả 3 khối,
không có điều kiện chuyên sâu cũng như cơ
hội học hỏi, trao đổi chuyên môn với các
đồng nghiệp. Vì vậy, nên thường xuyên tổ
chức học hè bồi dưỡng cho giáo viên với
lượng thời gian thích hợp, đặc biệt là lựa chọn
những những nội dung phù hợp. Nếu có thể,
nên chuyên sâu theo từng nhóm tuổi nghề.
- Để các đợt tập huấn bồi dưỡng nâng cao
năng lực giảng dạy cho giáo viên THPT đạt
kết qu ả tốt, các cơ sở được giao nhiệm vụ
này cần chuẩn bị tốt nội dung chương trình và
kế hoạch tập huấn. Trước các đợt tập huấn,
nên có sự thăm dò ý kiến người học, nắm bắt
nhu cầu thực sự của người học để có sự chuẩn
bị nội dung và phương pháp phù hợp. Theo
kết quả khảo sát, các giáo viên tuy ở các thế
hệ khác nhau nhưng đều có chung nguyện
vọng trong các đợt tập huấn được nâng cao cả
về mặt kiến thức chuyên môn và phương pháp
giảng dạy.
- Do quy mô tiến hành khảo sát còn hạn hẹp,
kết quả chưa thể phản ánh ý kiến của đông
đảo đội ngũ giáo viên địa lí đang công tác ở
các tỉnh hiện nay. Chính vì vậy, cần tiếp tục
nghiên cứu kĩ nhu cầu, những điểm yếu và
thiếu của giáo viên của các tỉnh đối với kiến
thức Địa lí ở các lớp THPT cũng như về mặt
phương pháp để biên soạn chương tr ình bồi
dưỡng tập huấn một cách sát với thực tế nhằm
đạt được hiệu quả và chất lượng cao, góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Địa lí ngày càng tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách giáo khoa Đ ịa lí 10 (2007), Nxb GD. Hà Nội.
[2]. Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc, Lí luận
dạy học Địa lí (2004), Nxb ĐHSP
[3]. Ngô Ngọc Đạt (1997), Tiếp cận hiện đại hoạt
động dạy học, Nxb QG Hà Nội.
[4]. Đặng Văn Đức – Nguyễn Thu Hằng
(2004), Phương pháp dạy học theo hướng tích
cực, Nxb ĐHSP.
[5]. Lê Thông và nnk (2006), Tài liệu bồi dưỡng
giáo viên lớp 10 THPT, Hà Nội,
SUMMARY
TEACHING COMPETENCE OF THE 10TH GRADE GEOGRAPHY TEACHERS IN
NORTH- EASTERN PROVINCES OF VIETNAM
Nguyen Viet Tien*∗
The article analized the assessment of teaching competence of northern upper secondary school
teachers in Northern Vietnam areas based on the requirements of curriculum and contents of the
10th schoolbook. In the author’s opinion, the content of the 10th grade schoolbooks of Geography
would be seen more difficult than before. The results obtained from surveys conducted in some of
Northern Vietnam areas show that many of geography teachers have not yet mastered basic
knowledge of the subject. Therefore, there were many difficulties encountered in innovating
teaching methodology. One of the factors that bring most difficulty to geography teachers is their
College of Education - Thai Nguyen University
∗ Nguyen Viet Tien, Tel:0912530956,
College of Education - Thai Nguyen University
Nguyễn Việt Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
competence in using IT facilities for teaching that the schoolbooks require. This reality
demonstrated the needs for continuous strengthening teachers’ teaching competence by organizing
professional training and coach. In order to obtain good result, the content of training sessions
should be relevant to teachers’ needs and expectations which could be collected through surveys.
Keywords: competence, training, teaching.
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA MỘT SỐ DẠNG HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
(NLKH) TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
Đàm Văn Vinh1*, Đặng Kim Vui1
1 Trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thông qua điều tra về hệ thống sinh thát nông nghiệp tại khu vực huyện Võ Nhai, kết quả nghiên
cứu cho thấy:
Các hệ thống đem lại tổng thu nhập cao nhất trên 1ha là RcheRg (Rừng – Chè-Ruộng) và hình
thức VAC (Vườn-ao-chuồng) với tổng thu nhập là 13.892.000 và 13.074.000 VNĐ. Đứng sau hai
loại hình đề cập ở trên là RVCRg và RVACRg với tổng thu nhập là 8.560.000 và 7.884.000 VNĐ.
Hệ thống đem lại thu nhập thấp nhất là RRg 4.482.000 VNĐ.
Hệ thống nhận được kết quả đánh giá cao nhất của nông dân tham gia vào cuộc điều tra này là
RACRg với 43 điểm; tiếp đó là đến RVCRg (41 điểm), RcheRg (40 điểm), RVAC (39 điểm) và
2RRg (37 điểm). VAC nhận được số điểm đánh giá thấp nhất với 34 điểm.
Từ khóa: ảnh hưởng kinh tế, hệ thống nông lâm kết hợp
∗
- Chọn một số hệ thống NLKH mang tính đại
diện trong khu vực theo địa hình, đất đai,
thành phần kết hợp trong hệ thống...
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Võ Nhai là một huyện vùng núi cao của tỉnh
Thái Nguyên có địa hình phức tạp chủ yếu là
đồi núi và thung lũng đan xen nhau. Toàn
huyện có tổng diện tích đất đai là: 84.510,41
ha. Trong đó đất nông nghiệp là: 6.325,0 ha
chiếm tỷ lệ 7,48%; đất lâm nghiệp là:
55.469,41 ha chiếm tỷ lệ 65,64% [2]. Kể từ
năm 1991 trở lại đ ây n hờ có sự đ ầu tư củ a
Chính phủ thông qua các dự án 327, 661..., sự
phối hợp tư vấn kỹ thuật của các tổ chức, các
cơ quan nghiên cứu người dân Võ Nhai đã
nhận thức được vai trò của việc canh tác đất
dốc. Đặc biệt là việc xây dựng hệ thống nông
lâm kết hợp (NLKH) trên đất dốc đã giúp
nhiều hộ trong vùng vươn lên trở thành những
hộ làm kinh tế giỏi, góp phần cải thiện bộ mặt
nông thôn miền núi. Tuy nhiên sản xuất theo
phương thức NLKH trên địa bàn huyện hiện
vẫn còn manh mún, năng suất cây trồng, vật
nuôi nhìn chung còn thấp nên hiệu quả kinh tế
chưa cao [5].
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
+ Phương pháp điều tra thực địa
∗ Đàm Văn Vinh: Tel: NR 02803753544,
Khoa Lâm Nghiệp trường ĐH Nông Lâm – ĐH TN
- Điều tra qu an sát trực tiếp v ề thàn h phần
loài cây trồng, vật nuôi, tỷ lệ kết hợp giữa các
thành phần trong hệ thống...
+ Phương pháp PRA (Đánh giá nông thôn có
sự tham gia của người dân) [1] để thu thập
các thông tin về đất đai, chi phí, thu nhập
hàng năm của hệ thống.
Tiêu chí đánh giá: Hệ thống nghiên cứu mang
tính đại diện cho mỗi dạng hệ thống trong khu
vực, tương đối dễ áp dụng, chi phí không quá
cao. Đáp ứng được mục đích kinh doanh,
được người dân địa phương chấp nhận.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (TỪ 2007- 2008)
3.1. Mộ t số dạ ng hệ thống NLKH hiện có
trên địa bàn huyện Võ Nhai
Khi điều tra thực trạng về các hệ thống
NLKH hiện có trên địa bàn huyện Võ Nhai
[4] chúng tôi đã đưa ra kết quả với địa hình,
địa thế đa dạng, hệ thống cây trồng, vật nuôi
tương đối đa dạng cùng với những phong tục
tập quán khác nhau, nên trong huyện hình
thành 3 khu vực sinh thái có những đặc thù
riêng với nhiều dạng hệ thống NLKH khác
nhau, song chủ yếu tập trung vào 6 dạng hệ
thống đang được người dân địa phương áp
dụng phổ biến là:
(1) VACRg (Vườn - ao - chuồng - ruộng);
(2) RVAC (Rừng - vườn - ao - chuồng);
(3) VAC (Vườn - ao - chuồng);
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 - 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
(4) RCheRg (Rừng - chè- ruộng);
(5) RRg (Rừng - ruộng);
(6) RVCRg (Rừng - vườn - chuồng - ruộng).
Kết quả tổng hợp từ điều tra khảo sát các hệ
thống NLKH tại địa phương chúng tôi thống
kê được thành phần các loài cây trồng, vật
nuôi sau.
Bảng 1. Thành phần cây trồng, vật nuôi trong các hệ thống NLKH
Nhóm loài cây/con Loài cây trồng/vật nuôi
Cây rừng tự nghiên Rừng thứ sinh gồm các loài cây ưa sáng
Cây trồng lâm nghiệp Keo, mỡ, quế, bạch đàn, xoan, điền trúc, tre Bát độ...
Cây ăn quả Vải, nhãn, hồng, na, bưởi, cam, mận, xoài, dứa...
Cây công nghiệp Chè, lạc, đậu đỗ, mía
Hệ thống cây lương thực Lúa, ngô, sắn, khoai
Hệ thống cây rau Su hào, bắp cải, cải bẹ, hành, tỏi...
Vật nuôi: Trâu, bò, lợn, gà vịt, ngan, dê...
Cây thức ăn gia súc Cỏ voi
Ao cá: Trắm cỏ, trôi ấn độ, rô phi lai, mè, trôi ta...
(Nguồn: Tập hợp từ số liệu điều tra)
Bảng 2. Cơ cấu thu nhập (%) từ các thành phần của mỗi dạng hệ thống/năm/ha
Nguồn thu
Loại hệ thống
Cây ăn quả +
cây chè (%)
Lương thực
thực phẩm (%)
Tổng thu từ
cây NN (%)
Cây lâm
nghiệp (%)
Chăn nuôi
(%)
RVACRg 41.77 14.64 56,41 8.98 34.61
RVAC 48.57 7.24 55,81 7.87 36.32
VAC 49.83 7.14 57,07 0 43.03
RCheRg 57.28 27.38 83,66 15.34 0
RRg 0 76.29 76,29 23.71 0
RVCRg 38.33 8.03 46,36 12.11 41.53
(Nguồn: Tập hợp từ số liệu điều tra)
Bảng 3. Tổng hợp hiệu quả kinh tế bình quân /ha/năm của các công thức sản xuất
theo từng dạng hệ thống (ĐV: 1000 đồng)
Chỉ tiêu Dạng HT
RVAC
Rg RVAC VAC
RChè
Rg RRg
RVC
Rg
1. Giá tr ị sản xuất Đơn vị
Giá trị sản xuất/ ha 1000đ 10.659 13.968 16.259 18.393 6.399 11261
Giá trị sản xuất/ chi phí SX lần 3,40 3,69 4,22 3,42 3,26 3,23
Giá trị sản xuất/ ngày người LĐ 1000đ 33,74 37,94 43,37 38,88 28,07 38,01
2. Chi phí sản xuất
Tổng chi phí SX/ ha 1000đ 3.122 3.781 3.884 5.385 1.962 3.477
Chi phí biến đổi/ ha 1000đ 2.525 2.920 3.185 4.502 1.495 2.906
Chi phí cố định/ ha 1000đ 597 860 699 884 467 776
3. Tổng thu nhập
Tổng thu nhập/ ha 1000đ 7.884 11.297 13.074 13.892 4.882 8.560
Tổng thu nhập/ chi phí SX lần 2,48 2,99 3,39 2,58 2,47 2,45
Tổng thu nhập/ ngày người LĐ 1000đ 25,80 29,94 38,00 29,37 21,47 31,12
4. Thu nhập thuần
Thu nhập thuần/ ha 1000đ 7.530 10.855 12.375 13.008 4.437 7.784
Thu nhập thuần/ chi phí SX lần 2,36 2,69 3,14 2,42 2.23 2,38
Thu nh ập thuần/ ngày người LĐ 1000đ 23,79 27,63 36,16 27,48 19,38 25,90
5. Tổng số công LĐ ngày 314 368 338 472 222 299
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả tính toán hiệu quả kinh tế của các dạng HT)
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 – 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
3.2 . Cơ cấu thu nhập của các thành phần
trong hệ thống NLKH
Mỗi dạng hệ thống khác nhau có nhiều công
thức sản xuất khác nhau do việc phối kết hợp
các thành phần cây trồng, vật nuôi có sự khác
nhau, vì vậy mà cơ cấu thu nhập từ mỗi thành
phần của các dạng hệ thống cũng khác nhau.
Để thấy rõ vai trò của các thành phần trong hệ
thống NLKH đối với hiệu quả kinh tế của
từng dạng hệ thống chúng tôi tính toán tỷ lệ
thu nhập từ các thành phần.
Kết quả trên cho thấy tỷ lệ thu nhập từ cây
nông nghiệp trong các dạng hệ thống NLKH
tại địa phương là khá lớn. Trong tất cả các hệ
thống, cây nông nghiệp cho tỷ lệ thu nhập
thấp nhất là dạng hệ thống RVCRg thì cũng
đã lên tới gần một nửa tổng thu nhập của cả
hệ thống (46,36%). Tất cả các dạng hệ thống
còn lại đều cho tỷ lệ thu nhập khá cao từ
55,81% - 83,66% so với tổng th u nhập của
hệ thống. Kết quả nghiên cứu này khẳng
định vai trò kinh tế của các thành phần cây
nông nghiệp trong các dạng hệ thống NLKH
là rất lớn, đặc biệt là các hệ thống có chè thì
thu nhập lại càng cao, bởi cây chè ở thời
điểm hiện tại đang được giá. Tiếp đó là chăn
nuôi chiếm tỷ lệ thu nhập từ 34,61 - 43,03%.
Cuối cùng là thu nhập từ rừng chiếm tỷ lệ
thấp trong các dạng hệ thống chỉ chiếm từ
7,87 - 23,71%.
3.3. Hiệu quả kinh tế của mỗi dạng hệ
thống NLKH huyện Võ Nhai
Mỗi dạng hệ thống có thành phần cây trồng,
vật nuôi khác nhau, với những công thức sản
xuất khác nhau, vì vậy mà hiệu quả kinh tế
của mỗi dạng hệ thống cũng khác nhau [3].
Để dễ dàng nhận thấy hiệu quả kinh tế trung
bình của các dạng hệ thống trong huyện Võ
Nhai hiện nay chúng tôi tổng hợp kết qu ả ở
bảng 03.3. Kết quả tính toán ở bảng trên cho
thấy hiệu quả kinh tế trung bình của các dạng
hệ thống có sự khác nhau khá rõ.
Dạng hệ thống cho hiệu quả kinh tế cao nhất
là: RcheRg cho tổng thu nhập trung bình đạt
13.892.000 đ/ha/năm. Do trong dạng hệ thống
này cây chè là cây chủ lực của địa phương,
vài năm gần đây sản phẩm chè khô của huyện
Võ Nhai đang có chất lượng tốt lên và bán
được giá nên cho thu nhập cao, tuy nhiên tổng
chi phí của dạng hệ thống này cũng khá lớn
lên tới 5.385.000 đ/ha/năm. Tiếp đến là dạng
hệ thống VAC cũng cho thu hiệu quả kinh tế
khá cao. Tổng thu nhập đạt 13.074.000
đ/ha/năm. Do trong dạng hệ thống này thu
nhập chủ yếu là từ chăn nuôi và cây ăn quả,
không có thành phần rừng là một trong những
thành phần làm cho tổng thu n hập bình
quân/ha/năm của các dạng hệ thống giảm đi.
Tiếp theo là dạng hệ thống RVAC cũng cho
thu hiệu quả kinh tế tương đối cao. Tổng thu
nhập đạt 11.297.000 đ/ha/năm. Do trong dạng
hệ thống này thu nhập từ nhiều thành phần,
trong đó có cả chăn nuôi gia s úc, gia cầm và
nuôi cá. Tiếp đến là 2 dạng hệ thống RVCRg
và RVACRg cho hiệu quả kinh tế ở mức
trung bình. Tổng thu nhập đạt 8.560.000
đ/ha/năm và 7.884.000 đ/ha/năm. Do trong
dạng hệ thống này thu nhập từ nhiều thành
phần, trong đó có cả rừng, cây ăn quả, cây
màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi cá.
Cuối cùng là dạng hệ thống RRg cho hiệu quả
kinh tế thấp nhất. Tổng thu nhập chỉ đạt
4.482.000 đ/ha/năm. Do trong dạng hệ thống
này thu nhập chỉ có 2 thành phần là rừng và
lúa, ngô hoặc cây màu.
Như vậy hiệu quả kinh tế của các dạng hệ
thống phụ thuộc chặt chẽ vào thành phần cây
trồng, vật nuôi của hệ thống. Tuy nhiên
không phải lúc nào chún g ta cũ ng có th ể áp
dụng dạng hệ thống có hiệu quả kinh tế cao
vào sản xuất NLKH mà phải tuỳ vào từng
điều kiện cụ thể.
3.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế của các dạng
hệ thống NLKH có sự tham gia
Để tham khảo ý kiến của các chủ hệ thống
những người đã có nhiều trải nghiệm trong
sản xuất nhằm khảng định lại những kết quả
nghiên cứu của chúng tôi, cũng như hướng
gợi mở giúp các hộ lựa chọn các dạng hệ
thống phù hợp nhằm mang lại hiệu quả kinh
Đàm Văn Vinh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 9 - 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
tế cao hơn. Chúng tôi đã cùng chia sẻ và đánh
giá hiệu quả kinh tế của các dạng hệ thống
theo một số tiêu chí. Dạng hệ thống được
đánh giá cho hiệu quả kinh tế cao nhất là
RACRg với 43 điểm, tiếp theo là RVCRg với
41 điểm và RCheRg 40 điểm, 2 dạng hệ
thống RRg và RVAC là 37 và 39 điểm. Thấp
nhất là dạng hệ thống VAC với 34 điểm. Kết
quả đánh giá trên cho thấy người dân địa
phương đã rất am hiểu và có nhiều kinh
nghiệm trong quá trình canh tác quản lý hệ
thống về mặt thu chi.
Họ đánh giá không chỉ về mặt lợi
nhuận/ha/năm mà còn đánh giá về các mặt
khác như mức độ rủ i ro, vốn đầu tư, sự tiêu
thụ của sản phẩm...
3.5. Hiệu quả kinh tế của một số hệ thống
cây trồng nông nghiệp trong hệ thống
NLKH huyện Võ Nhai
Đối với các cây nông nghiệp như ngô, sắn,
đậu, lạc, mía, chè... do trong quá trình canh
tác: gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch... đất đai
thường bị cày xới nhiều. Mặt khác những cây
này có tán lá mỏng, thân yếu nên khi canh tác
trên đất dốc đất đai bị xói mòn, rửa trôi làm
độ phì của đất giảm, năng suất cây trồng
giảm, nếu được kết hợp với cây lâu năm và
cây rừng sẽ có hiệu quả kinh tế cũng như môi
trường rất rõ nét.
Chúng tôi đánh giá hiệu quả kinh tế một số
cây trồng nông nghiệp trong các hệ thống
NLKH và cây trồng độc canh trên đất dốc có
các điều kiện về địa hình, đất đai, chăm sóc...
tương đối đồng nhất làm cơ sở so sánh.
Bảng 4. Hiệu quả kinh tế của các dạng hệ thống NLKH có sự tham gia
Dạng HT
Tiêu chí
RVAC
Rg
RVAC
RVC
Rg
RChe
Rg
VAC
RRg
Đầu tư ít 8 7 9 7 6 10
Sản phẩm dễ bán 8 7 8 8 7 7
Mức độ rủi ro thấp 10 8 9 8 5 7
Thu nhập ổn định 9 8 8 9 7 8
Hiệu quả kinh tế cao 8 9 7 8 9 5
Tổng điểm 43 39 41 40 34 37
(Nguồn: Tập hợp từ số liệu RRA và PRA)
Bảng 5. Hiệu quả kinh tế một số cây trồng nông nghiệp chính trong hệ thống NLKH
(Đơn vị tính: 1000 đồng/ha/năm)
Loài cây
Tổng chi Tổng thu Lãi
So sánh Lãi
(Tăng +, giảm -) NLKH Độc canh NLKH Độc canh NLKH Độc canh
Ngô cả 2 vụ 9.090 9.090 16.640 16.050 7.550 6.960 + 590
Ngô xuân 4.545 4.545 9.278 8.957 4.733 4.407 + 326
Mía 7.700 7.700 11.038 11.350 3.338 3.650 - 312
Sắn 4.252 4.252 7.721 7.650 3.419 3.398 + 21
Đậu tương 7.075 7.075 14.750 14.426 7.675 7.351 + 324
Chè 8.102 8.102 18.500 17.128 10.398 9.026 + 1.372
(Nguồn: Tập hợp từ số liệu điều tra)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_1741_9642_ghepbait8hai_2394_2052983.pdf