Đầu tư ra nước ngoài là phương thức bỏ vốn của chủ đầu tư vào kinh doanh dài hạn ở nước ngoài nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận và đạt được mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định. Tầm quan trọng của FDI không chỉ ở chỗ thu hút được nhiều nguồn vốn mà còn là kết hợp một cách hết sức hiệu quả giữa vốn, các mối quan hệ có liên quan như an ninh quốc gia nhằm đảm bảo cho môi trường đầu tư lành mạnh, ổn định, tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp thu quản lý tri thức và công nghệ hiện đại. Đây thật sự là một đòn bẩy sắc bén cho phát triển kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với bảo đảm an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập khu vực và toàn cầu.
22 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3868 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng FDI ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu:
Đầu tư ra nước ngoài là phương thức bỏ vốn của chủ đầu tư vào kinh doanh dài hạn ở nước ngoài nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận và đạt được mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định. Tầm quan trọng của FDI không chỉ ở chỗ thu hút được nhiều nguồn vốn mà còn là kết hợp một cách hết sức hiệu quả giữa vốn, các mối quan hệ có liên quan như an ninh quốc gia nhằm đảm bảo cho môi trường đầu tư lành mạnh, ổn định, tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp thu quản lý tri thức và công nghệ hiện đại. Đây thật sự là một đòn bẩy sắc bén cho phát triển kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với bảo đảm an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập khu vực và toàn cầu.
Đối với Việt Nam, việc thu hút được các nguồn vốn FDI trong những năm qua có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, nhất là trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI nhằm bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam.
I. ĐẦU TƯ FDI VÀO VIỆT NAM TỪ 1988 ĐẾN NAY:
1. Tình hình chung:
Trong 3 năm 1988-1990, khi mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ , vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Từ năm 2006, khi nắm được thông tin Việt Nam sẽ gia nhập WTO, nhiều nhà đầu tư đã “đón đầu” sự kiện nên đã tích cực đầu tư vào Việt Nam. Chính vì thế, ngay trong năm 2006, FDI đã tăng mạnh và đặc biệt năm 2007, sau một năm gia nhập WTO, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.).
Tính đến năm 2008, cả nước có hơn 10.900 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 163 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có trên 8.600 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 80 tỷ USD.
Lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam ngày một nhiều với những con số ấn tượng. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, 8 tháng đầu năm 2009, cả nước đã thu hút 47,1 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (gồm cả vốn cấp mới và vốn đăng ký tăng thêm), tăng 5 lần so với cùng kỳ năm 2007 và vượt 3 lần so với kế hoạch của cả năm 2008. Kết quả này đã vượt qua tất cả những kỷ lục và cả những dự đoán được xem là lạc quan nhất về nguồn vốn FDI vào nước ta trong năm nay. Cụ thể, trong số 772 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư mới, vốn đăng ký tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ với 23,6 tỷ USD, chiếm 50,9% tổng vốn đầu tư; lĩnh vực công nghiệp và xây dựng là 22,5 tỷ USD, chiếm 48,6% và 0,5% số vốn còn lại thuộc về lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp.
Tổng nguồn vốn FDI đăng kí vào 4 tháng đầu năm 2009 khoảng 2.493 tỉ đôla với 5 nhà đầu tư lớn nhất là: Hàn Quốc, Hongkong, BritishVirgin Island, Singapore và Đài Loan.
Tính đến tháng 08/2009, Về đối tác đầu tư, Đài Loan tiếp tục đứng đầu danh sách 38 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 112 dự án cùng với số vốn 8,6 tỷ USD, chiếm 18,6% tổng vốn đăng ký. Tiếp sau Đài Loan là Nhật Bản với 78 dự án cùng 7,2 tỷ USD; Malaysia với 29 dự án cùng 6,2 tỷ USD… Điều thú vị là, nếu trước đây xuất hiện nhiều hình thức đầu tư khác nhau, thì từ đầu năm đến nay các dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu được thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài (585 dự án, vốn đăng ký 29,7 tỷ USD), chiếm 64,2% về vốn đăng ký. Bên cạnh đó, dự án có vốn đăng ký có giá trị lớn ngày càng tăng, tiêu biểu như: Dự án gang thép Hưng Nghiệp Formosa do Tập đoàn Formosa (Đài Loan) đầu tư có số vốn gần 7,9 tỷ USD tại Vũng Áng (Hà Tĩnh) và liên doanh giữa Công ty Lọc dầu Nghi Sơn với các tập đoàn của Nhật Bản và Kuwait với số vốn 6,2 tỷ USD tại Thanh Hoá.
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Đến tháng 08/2009, có hơn 149 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm là 4,828 tỷ USD, tăng 3,8% so cùng kỳ.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
.Bên cạnh đó, tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT (gọi chung là KCN) cũng rất khả quan. Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà Lạc và tp Hồ Chí Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm thành lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN, đến cuối năm 2007 đã thu hút gần 2.700 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 31 tỷ USD, chiếm 34% về số dự án và 37% tổng vốn đăng ký của cả nước. Các dự án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN, KCX đa dạng về hình thức đầu tư. (số liệu năm 2007)
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép 1988 - 2007
Số dự án
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*)
Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ)
Tổng số
10981
163607.2
57045.5
1988
37
341.7
1989
67
525.5
1990
107
735.0
1991
152
1291.5
328.8
1992
196
2208.5
574.9
1993
274
3037.4
1017.5
1994
372
4188.4
2040.6
1995
415
6937.2
2556.0
1996
372
10164.1
2714.0
1997
349
5590.7
3115.0
1998
285
5099.9
2367.4
1999
327
2565.4
2334.9
2000
391
2838.9
2413.5
2001
555
3142.8
2450.5
2002
808
2998.8
2591.0
2003
791
3191.2
2650.0
2004
811
4547.6
2852.5
2005
970
6839.8
3308.8
2006
987
12004.0
4100.1
2007
1544
21347.8
8030.0
Sơ bộ 2008
1171
64011.0
11600.0
(*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.
ĐTTTNN được cấp giấy phép từ 1988 - 2008 phân theo ngành kinh tế
Số dự án
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*)
Tổng số
10981
163607.2
Nông nghiệp và lâm nghiệp
535
3600.7
Thủy sản
162
535.4
Công nghiệp khai thác mỏ
126
10583.6
Công nghiệp chế biến
6778
81247.8
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
31
1941.4
Xây dựng
396
7300.1
Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
137
696.7
Khách sạn và nhà hàng
308
8970.8
Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
295
6954.4
Tài chính, tín dụng
66
925.3
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn
1788
37894.6
Giáo dục và đào tạo
113
233.5
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
61
994.3
HĐ văn hóa và thể thao
116
1689.3
HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng
69
39.3
(*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.
1.1 Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến nay
a. ĐTNN phân theo ngành nghề:
Lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư
Đến cuối năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp - xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Vốn đầu tư (USD)
Vốn thực hiện (USD)
1
CN dầu khí
38
3,861,511,815
5,148,473,303
2
CN nhẹ
2,542
13,268,720,908
3,639,419,314
3
CN nặng
2,404
23,976,819,332
7,049,365,865
4
CN thực phẩm
310
3,621,835,550
2,058,406,260
5
Xây dựng
451
5,301,060,927
2,146,923,027
Tổng số
5,745
50,029,948,532
20,042,587,769
Lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng).
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Vốn đầu tư
(triệu USD)
Đầu tư đã thực hiện
(triệu USD)
1
Giao thông vận tải-Bưu điện ( bao gồm cả dịch vụ logicstics)
208
4.287
721
2
Du lịch - Khách sạn
223
5.883
2.401
3
Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê
153
9.262
1.892
4
Phát triển khu đô thị mới
9
3.477
283
5
Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX
28
1.406
576
6
Tài chính – ngân hàng
66
897
714
7
Văn hoá - y tế – giáo dục
271
1.248
367
8
Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...)
954
2.145
445
Tổng cộng
1.912
28.609
7.399
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v. Và hầu hết các dự án được cấp phép gần đây nhất trong năm 2008 và 2009 vẫn tiếp tục đi theo hướng này.
b. ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ :
Tính đến năm 2008, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận.
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hà Tây, Bắc Ninh và Quảng Ninh
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Long An.
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng, Quảng Nam.
Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế tại các địa bàn này còn rất thấp.
Tình hình FDI theo vùng miền từ 1998 – 2008
2. Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án ĐTNN.
2.1 Vốn giải ngân ĐTNN từ 1988 đến nay:
Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đô la Mỹ, đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD (bao gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn), chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5% tổng vốn thực hiện, các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu như cả giai đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng ký mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD) thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng vốn thực hiện đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới, nhưng vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và là tiền đề cho việc giải ngân của năm 2008 tăng cao vì trong các dự án cấp mới trong 2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
Và theo ước tính, trong 8 tháng đầu năm 2009 các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 6,5 tỷ USD, bằng 91,5% so với cùng kỳ năm 2008 và đạt hơn 72% kế hoạch năm. Trong con số này, vốn từ nước ngoài khoảng 5,5 tỷ USD.
2.2 Triển khai hoạt động sản xuất-kinh doanh của dự án ĐTNN :
Trong hơn 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng gia tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ USD, nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp hơn 8 lần so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng hơn năm trước, năm 2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt (nếu tính cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2007, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 19,7 triệu USD, nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm 56,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần qua các năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (10%). Giai đoạn 1991-1995 do chính sách ưu đãi, khuyến khích ĐTNN của Nhà nước ta nên các doanh nghiệp ĐTNN đóng góp ngân sách còn hạn chế 115 triệu USD, nhưng con số này đã tăng hơn 10 lần trong thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý do một số doanh nghiệp ĐTNN đã qua thời gian hưởng chính sách ưu đãi thuế của nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5 năm trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996-2000. Năm 2007, dự kiến thu ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước.
Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988 đến cuối 2007 có trên 1,26 triệu lao động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc trong khu vực dịch vụ mà theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới, cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho khoảng từ 2-3 lao động gián tiếp khác. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ĐTNN cũng tăng lên qua từng giai đoạn, từ 21 vạn người vào cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào cuối năm 2000, tăng 80% so với 5 năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng gấp 2,5 lần so với 5 năm trước thể hiện số lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án tăng lên. Trong 2 năm 2006 và 2007 do lượng dự án vào nhiều và triển khai nhanh nên số lượng lao động trong khu vực ĐTNN tính đến cuối 2 năm này đã tăng 9,9% và 12% so với cuối năm 2005.
Trong những tháng đầu năm 2009 nay hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực có vốn FDI đều tăng. 8 tháng qua, các DN đầu tư nước ngoài đã góp vốn thực hiện ước đạt 8 tỷ USD, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm 2008. Doanh thu của các DN đầu tư nước ngoài trong 8 tháng ước đạt 30,4 tỷ USD, tăng 33,1% so với cùng kỳ năm 2008; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 15,8 tỷ USD, tăng 28% so với cùng kỳ; nhập khẩu ước đạt 19,2 tỷ USD, tăng 41,3% so với cùng kỳ; nộp ngân sách ước đạt 1,4 tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ. Cũng theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 8 tháng đầu năm 2009, khối DN đầu tư nước ngoài đã thu hút thêm khoảng 18.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực này đến thời điểm hiện tại lên 1,4 triệu lao động, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2007.
II. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Mặt tích cực:
Về mặt kinh tế:
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc.
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007. Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, khách sạn và du lịch.
Về mặt xã hội:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.
Nguyên nhân:
Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành.
Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân.
Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn. Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch.
2. Mặt hạn chế:
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
Để có thể chọn lọc được các dự án FDI phù hợp với lợi ích dài hạn của quốc gia cần phải có bộ máy thẩm định, đánh giá dự án có năng lực. Tuy nhiên, không phải địa phương nào cũng có đủ năng lực đánh giá dự án. Trách nhiệm về việc ra quyết định phê duyệt dự án sai cũng ít khi bị truy cứu và có biện pháp xử lý thích đáng. Công tác giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn còn những bất cập...
Nguyên nhân:
Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường. Thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt Nam.
Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ
Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp.
Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới.
Đó là một số trong các nguyên nhân chính dẫn đến bảy nguy cơ tiềm ẩn trong nhiều dự án đầu tư mới đăng ký gần ba năm qua tại Việt Nam. Bao gồm: Nguy cơ “thổi phồng” về vốn và lợi nhuận; nguy cơ sử dụng quá nhiều nguồn lực khan hiếm hoặc đang thiếu trầm trọng như đất đai, năng lượng, tài nguyên thiên nhiên; nguy cơ hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường; nguy cơ không phù hợp với quy hoạch phát triển dài hạn, hoặc gây mất cân đối về cơ cấu trong quá trình phát triển dài hạn; nguy cơ sử dụng công nghệ lạc hậu, thải loại; Nguy cơ “cướp vốn” của khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Và cuối cùng là nguy cơ thiếu hụt ngoại tệ và rủi ro tỷ giá.
Các giải pháp chủ yếu:
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.
Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đặc biệt vào các công trình giao thông, cảng biển, năng lượng, vệ sinh môi trường...
Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài. Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể.
TRIỂN VỌNG THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM
Không tránh khỏi vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cũng như hầu hết các ngành kinh tế khác, thu hút vốn đầu tư nước ngoài năm 2009 chỉ đặt mục tiêu khoảng 20 tỷ USD vốn đăng ký, bằng 30% mức của năm 2008. Dù vậy nhưng cho đến thời điểm này, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đánh giá khá cao về môi trường và triển vọng đầu tư trung-dài hạn tại Việt Nam. Sự ổn định chính trị, lực lượng lao động, thị trường đầu tư, hạ tầng cơ sở ngày càng được hoàn thiện vẫn là những lợi thế của Việt Nam so với một số nước trong khu vực. Từ nay đến năm 2010, số dự án đầu tư theo hướng lâu dài, bền vững sẽ gia tăng và các lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn của nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục là lọc hóa dầu, khai khoáng và bất động sản. Việc Việt Nam gia nhập WTO có tác động rất lớn đối với hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài, sau 2 năm gia nhập WTO, nguồn vốn FDI đăng kí mới qua các năm của Việt Nam tăng nhanh đột biến từ 12 tỷ USD năm 2006 tăng lên trên 64 tỷ USD trong năm 2008, tức tăng gấp 5 lần so với năm 2006. Việt Nam có được những thành tựu nổi bật về thu hút vốn FDI trong 2 năm qua là nhờ sự nỗ lực của Chính phủ, các cơ quan, địa phương trong việc tích cực cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, hạ tầng cơ sở và hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài.
UNCTAD đã đưa ra các báo cáo đầu tư, trong đó Việt Nam có những dự báo lạc quan về tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để tiến hành báo cáo này, UNCTAD đã tư vấn ý kiến của nhiều Tập đoàn trên thế giới và Việt Nam đã thuộc vào top 10 nền kinh tế thu hút trong mắt của các Tập đoàn quốc tế từ 2007-2009. Báo cáo UNCTAD cũng thể hiện rằng Việt Nam đang trở thành một địa điểm quan trọng cho đầu tư sản xuất. Tuy nhiên, báo cáo cho biết không chỉ tập trung trong sản xuất mà còn có cả dịch vụ, tài chính và ngân hàng. Và đặc biệt, Việt Nam là nền kinh tế có tốc độ thu hút các nguồn vốn FDI cao nhất ở châu Á. So với năm 2008, số vốn đầu tư đã tăng từ 20,3 tỷ USD lên 64 tỷ USD, gấp khoảng ba lần. Nhiều chính sách về thuế mới cũng được áp dụng tại một số tỉnh thành kém phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long, với mục đích xây dựng khu vực này thành các trung tâm sản xuất giá rẻ mới.
Theo cuộc khảo sát của Hội đồng kinh doanh Châu Á thực hiện, Việt Nam đứng thứ 3 trên thế giới trong việc thu hút nguồn vốn FDI của Tập đoàn Châu Á từ 2007-2009. Trên 85% chủ doanh nghiệp của các Tập đoàn Châu Á cho biết rằng họ dự định đầu tư ở Trung Quốc, 51% ở Ấn Độ, 38% muốn đến Việt Nam.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hiện đang có những lo ngại về việc suy giảm nguồn vốn FDI vào Việt Nam. Nhưng khách quan mà nói, hiện vẫn chưa có tín hiệu gì về việc ngừng, giãn kế hoạch thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ phía nhà đầu tư nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam. Trong khi đó, thực tế cho thấy ngày càng nhiều nhà đầu tư lớn thể hiện sự quan tâm và mong muốn tìm hiều cơ hội đầu tư vào Việt Nam.
Tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đã khởi đầu một cách ngoạn mục với việc trao giấy phép cho 7 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 5 tỷ USD hồi cuối tháng 1. Trong đó lớn nhất là dự án xây dựng khu du lịch nghỉ mát giải trí đa năng của tập đoàn Winvest (Hoa Kỳ) tăng vốn từ 300 triệu lên 4,1 tỷ USD. Với kết quả này, Bà Rịa- Vũng Tàu đã hoàn thành 2/3 mục tiêu thu hút vốn FDI cho cả năm 2009 của tỉnh. Theo tiết lộ của lãnh đạo tỉnh, các ban ngành chức năng của Bà Rịa- Vũng Tàu hiện đang thẩm định hồ sơ đăng ký xin cấp phép của một số dự án FDI mới trong lĩnh vực lọc hóa dầu và bất động sản với quy mô đầu tư lên tới vài tỷ đô-la Mỹ. Những động thái này đang tạo nên sự phấn khích không chỉ cho tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu mà còn lan tỏa ra các địa phương khác khi họ đang phải chịu một áp lực lớn về khả năng duy trì mức tăng trưởng của nguồn vốn FDI trong năm 2008 - năm kỷ lục về thu hút FDI của Việt Nam với số vốn đăng ký mới đạt trên 64 tỷ USD.
Bắc Giang- địa phương có vị trí khá khiêm tốn trên bản đồ phân bố FDI của cả nước- cũng đón chào dự án FDI đầu tiên trong năm. Công ty Universal Microelectronics - một thành viên của Hiệp hội các nhà sản xuất điện, điện tử của Đài Loan (TEEMA), dự định đầu tư khoảng 35 triệu USD với mục tiêu xây dựng một nhà máy sản xuất linh kiện điện tử xuất khẩu tại KCN Quang Châu.
Ngày 18-2, Foxconn đã chính thức nhận được giấy phép xây dựng một nhà máy sản xuất điện thoại di động có vốn đăng ký 200 triệu USD với quy mô sản xuất đạt gần 90 triệu chiếc/năm tại KCN Bình Xuyên 2 của tỉnh Vĩnh Phúc. Như vậy, Vĩnh Phúc đã trở thành địa phương thứ ba, sau Bắc Giang và Bắc Ninh, trong kế hoạch đầu tư 5 tỷ USD của Foxconn để hình thành các cơ sở sản xuất của tập đoàn tại Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ năm 2007. Các doanh nghiệp Đài Loan đang tận dụng thời gian này để khởi động nhanh các dự án đầu tư của họ tại Việt Nam nhằm đón đầu sự tăng trưởng trở lại của nền kinh tế toàn cầu.
Các chuyên gia của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) vẫn bày tỏ lạc quan đối với triển vọng thu hút nguồn vốn FDI của Việt Nam trong năm 2009, các doanh nghiệp Nhật Bản đang dần thay đổi quan niệm, không chỉ coi Việt Nam là một cơ sở sản xuất mà còn là một thị trường tiềm năng để tiêu thụ các sản phẩm của doanh nghiệp Nhật. Theo báo cáo khảo sát hoạt động kinh doanh tại nước ngoài của các doanh nghiệp Nhật Bản của JBIC, Việt Nam xếp thứ ba trong số các địa điểm đầu tư lý tưởng của các doanh nghiệp Nhật Bản trong vòng 3 năm tới, sau Trung Quốc và Ấn Độ. Sự hấp dẫn của Việt Nam nằm ở các điểm: nguồn nhân công rẻ, khả năng phát triển của thị trường nội địa và nguồn cung cho ngành công nghiệp lắp ráp.
Theo thông tin của Cục ĐTNN, tập đoàn Roll Royce (Anh) - nhà cung cấp động cơ cho lĩnh vực hàng không, vận tải biển, năng lượng và dầu khí hàng đầu thế giới đã bày tỏ ý định tìm hiểu địa điểm tại Việt Nam để xây dựng một nhà máy sản xuất động cơ máy bay. Một tập đoàn trong lĩnh vực hàng không của Mỹ đang cân nhắc tham gia xây dựng các sân bay quốc tế tại Việt Nam, đặc biệt là sân bay Long Thành (Đồng Nai).
Bên cạnh đó, các dự án xây dựng nhà máy điện của AES (Mỹ) tại Quảng Ninh với quy mô 1,2 tỷ USD, của Jaks (Malaysia) tại Hải Dương với quy mô 1,4 tỷ USD hay của Janakuasa (Malaysia) tại Trà Vinh với quy mô 1,5 tỷ USD hiện đang trong giai đoạn thẩm định cấp phép đầu tư. Nếu được chấp thuận các dự án này sẽ đóng góp vào kết quả thu hút nguồn vốn FDI mà Cục ĐTNN khiêm tốn dự báo khoảng 20 tỷ USD vốn đăng ký trong năm nay. Tuy vậy, đó mới chỉ là những con số cam kết. Kết quả giải ngân mới là điều đáng nói.
Như vậy, ta thấy, dù chịu nhiều sự tác động tiêu cực cũng như những rủi ro nhưng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam sẽ vẫn có triển vọng trong những năm sau 2010.
DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN:
Trần Thị Ngọc Dung K074020286
Trần Quang Duy K074020287
Đỗ Thị Ngọc Hà K074020289
Lê Trần Hà Nam K074020329
Châu Vũ Hoài Nhi K074020343
Liên Thị Hồng Phước K074020348
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng FDI ở Việt nam.doc