Thực thi sở hữu trí tuệ

Năm 1986, khi Vòng đàm phán Uruguay của GATT được khởi xướng, Hoa Kỳ ước tính rằng thiệt hại hằng năm do hàng nhái và hàng giả của nước này khoảng 60 tỉ đôla. Năm 1998, OECD ước tính hàng giả chiếm 5 – 7% thương mại thế giới. Tại hội nghị thượng đỉnh Davos năm 2003, thương mại thường niên trong lĩnh vực hàng giả được ước tính trị giá 450 tỉ đô la Mỹ. Quy mô thực sự của hàng nhái và hàng giả không thể ước tính chính xác được vì nó là hoạt động bí mật và mang tính hình sự. Một số nét về quy mô của hiện tượng mới này có thể được tìm thấy trong thống kê của Hải quan về những vụ tịch thu hàng giả. Ví dụ, trong thông báo tháng 10 năm 2005 của Ủy ban châu Âu (EC) sưu tập từ những báo cáo mà các cơ quan hải quan của các quốc gia thành viên EU gửi tới về việc ngăn chặn hàng giả tại biên giới Cộng đồng trong vòng 5 năm qua1. EC đã ghi lại những khuynh hướng sau:

pdf30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1853 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực thi sở hữu trí tuệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị phát hiện xâm phạm, mà không có bồi thường dưới hình thức bất kỳ, sẽ bị loại ra khỏi các kênh thương mại theo cách nào đó để tránh gây tổn hại bất kỳ đối với chủ thể quyền’. Theo cách khác, nếu các yêu cầu mang tính hiến pháp hiện có cho phép, hàng hóa xâm phạm có thể bị tiêu hủy. Một cản trở mang tính hiến pháp tồn tại trong một số nền tài phán là nghĩa vụ cung cấp ‘các điều khoản công bằng’ cho hàng hóa bất kỳ được yêu cầu bắt buộc. Một quyền năng bổ sung được trao cho các cơ quan xét xử là quyền ‘ra lệnh buộc các nguyên liệu và phương tiện đã được sử dụng chủ yếu để sản xuất hàng hóa xâm phạm’ tương tự sẽ bị loại ra khỏi các kênh thương mại’ theo cách ‘giảm đến mức tối thiểu nguy cơ xâm phạm tiếp theo’. Khi xem xét các yêu cầu đối với trình tự loại bỏ hoặc tiêu hủy hàng hóa xâm phạm quyền và phương tiện được sử dụng để sản xuất loại hàng hóa này, các cơ quan xét xử được yêu cầu xem xét ‘sự cần thiết phải có tính tương xứng giữa tính nghiêm trọng của hành vi xâm phạm quyền và các chế tài được thực hiện cũng như lợi ích của các bên thứ ba’. Trong trường hợp hàng hóa giả nhãn hiệu, Điều 46 quy định rằng ‘trừ các trường hợp ngoại lệ, việc đơn thuần gỡ bỏ nhãn hiệu gắn trên hàng hóa một cách bất hợp pháp không đủ để cho phép hàng hóa đó được đưa vào lưu thông trong các kênh thương mại’. Quyền được thông tin Một cải tiến đặc biệt hữu ích là thẩm quyền được đề cập đến trong Điều 47 ‘ra lệnh buộc người xâm phạm quyền phải thông báo cho chủ sở hữu quyền biết về các bên thứ ba tham gia vào việc sản xuất và phân phối hàng hoá hoặc dịch vụ xâm phạm quyền và các kênh phân phối của họ”. Điều 47 tư vấn việc thực hiện quyền lực này khi nó không ‘tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm’. Không có hướng dẫn về việc đánh giá mức độ nghiêm trọng hoặc tiêu chuẩn đánh giá mức độ nghiêm trọng hay tiêu chuẩn của mức độ nghiêm trọng có phải là thiệt hại đối với bên tìm kiếm thông tin hay không, hoặc từ góc độ lợi ích công chúng trong việc Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 12 kiềm chế các hành vi bất hợp pháp. Ví dụ, việc làm giả hàng chất lượng kém ở quy mô lớn là mối quan tâm nhỏ đối với một thương nhân sản xuất sản phẩm chất lượng cao khi các sản phẩm này không dễ nhầm lẫn với các sản phẩm của những kẻ làm hàng giả. Tuy nhiên, công chúng sẽ quan tâm đến việc bảo hộ người tiêu dùng khỏi hàng chất lượng kém hơn. Công chúng cũng chủ yếu quan tâm đến nét đặc trưng của đạo đức thương mại. Bồi thường cho bị đơn Nếu ‘các biện pháp thực thi bị lạm dụng’ Điều 48.1 quy định rằng các cơ quan xét xử có thẩm quyền ra lệnh cho bên ‘đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp thực thi’ trả ‘khoản bồi thường thỏa đáng cho tổn thất phải chịu do sự lạm dụng đó’ cho người bị áp dụng hoặc hạn chế một cách phi lý. Điều 48.1 cũng quy định nguyên đơn phải trả cho bị đơn ‘một khoản phí thích hợp thuê luật sư’. Trường hợp miễn cho cán bộ công vụ Một vấn đề mà các chủ sở hữu quyền phàn nàn về vấn đề áp dụng luật pháp là sự thất thường và lạm dụng việc thực hiện các thủ tục hành chính của các cán bộ công trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Điều này được nhận thức rõ đặc biệt trong trường hợp khi người khởi kiện là người nước ngoài. Các cán bộ công có thể được che chở trong cái vỏ bọc miễn nhiễm lúc nào cũng gắn liền với cơ quan họ. Điều 48.2 quy định rằng trong mối quan hệ với việc điều hành luật bất kỳ liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ, các cơ quan và cán bộ công sẽ được miễn ‘chỉ…khi các hành vị được thực hiện hoặc dự định thực hiện một cách có thiện chí nhằm điều hành các luật đó’. Chế tài hình sự (a) Tổng quan Điều 61 quy định rằng các quốc gia thành viên sẽ quy định các thủ tục và hình phạt hình sự ‘được áp dụng, ít nhất trong các trường hợp làm giả nhãn hiệu và xâm phạm bản quyền tác giả một cách cố ý ở quy mô thương mại’. Các chế tài hình sự được đề cập đến trong Điều này là: ‘phạt tù và/hoặc phạt tiền đủ để ngăn chặn việc xâm phạm, phù hợp với mức phạt áp dụng đối với mức độ nghiêm trọng tương ứng’. Cũng trong các trường hợp thích hợp, Điều 61 quy định việc ‘tịch thu, tước đoạt và tiêu hủy hàng hóa xâm phạm và nguyên liệu và phương tiện bất kỳ được sử dụng chủ yếu để thực hiện hành vi xâm phạm quyền này’. Điều 61 cũng quy định các thủ tục và hình phạt hình sự được áp dụng trong các trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, ‘đặc biệt khi chúng phạm tội một cách có chủ ý và ở quy mô thương mại’. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 13 (b) Tiêu chuẩn của bằng chứng Hậu quả của việc quy định đối với ‘thủ tục hình sự’ đối với trường hợp có các hành vi xâm phạm quyền cố ý nhất định là tiêu chuẩn bằng chứng cao hơn so với bằng chứng được yêu cầu được trong tố tụng dân sự. Trong các hệ thống tư pháp bắt nguồn từ mô hình của nước Anh, tiêu chuẩn sẽ là không thể hồ nghi. Trách nhiệm chứng minh thường do bên nguyên đơn thực hiện. Khi có sự bào chữa, bị đơn thường chịu trách nhiệm bào chữa, thường dựa trên sự cân bằng của những khả năng. (c) Hiểu biết Điều 61 cho phép thể chế về các hình phạt hình sự trong trường hợp xâm phạm quyền có chủ ý. Là một vấn đề thực tế, không có gì khác thường trong những tranh chấp về sở hữu trí tuệ khi người khởi kiện gửi thông báo đình chỉ cho người xâm phạm quyền để thông báo rằng họ có thể xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khởi kiện. Tuy nhiên, điều này có thể phi thực tế trong các trường hợp xâm phạm quyền tác giả và làm giả nhãn hiệu ở quy mô lớn, đặc biệt khi thủ phạm có thể liên quan đến tội phạm có tổ chức. Một vấn đề cụ thể chứng minh việc cố ý của một nhóm tập thể bị đơn là việc xác định những người có tư tưởng liên quan đến sự có tội của cả tập thể đó. Nói chung, một công ty có trách nhiệm pháp lí cho những hành vi và hiểu biết của những người được gọi là thành phần chỉ đạo và ý chí của công ty. Những người này kể cả ban giám đốc, giám đốc điều hành và các cán bộ cấp cao, những người thực hiện chức năng quản lý và là người phát ngôn của công ty. Những người được luật đối xử như là là công ty được phát hiện bằng cách xác định các thể nhân, là những người được giao phó thực hiện quyền lực của công ty bằng biên bản ghi nhớ và các điều luật của hiệp hội, hoặc được quyết định bởi các giám đốc, hoặc bởi chính công ty trong các phiên họp toàn thể theo các điều lệ. (d) Xác định số lượng hình phạt Mức độ cố ý hay toan tính thận trọng trong hành vi xâm phạm sẽ có quan hệ đối với mức độ phạt tiền được áp đặt. Ngoài ra, như một yếu tố về lượng có liên quan sẽ là số lượng lớn các hành vi phạm tội của bị đơn và việc tái diễn những hành vi phạm tội tương tự. Điều 61 cũng xác định hiệu quả kiềm chế của các hình phạt. Điều này sẽ liên quan đến việc cân nhắc khả năng chi trả của bị đơn, động cơ dẫn tới hành vi sai trái và khả năng tái diễn. Các quy định về kiểm soát biên giới trong Hiệp định TRIPS Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 14 (a) Phạm vi Các quy định về kiểm soát biên giới trong Hiệp định TRIPS chủ yếu chống lại hoạt động buôn bán “hàng giả nhãn hiệu và hàng xâm phạm bản quyền”. Tuy nhiên, Điều 51 quy định rằng các nước thành viên thành viên WTO có thể áp dụng đình chỉ thông quan đối với “hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ”. Vì thế, ví dụ, một quốc gia thành viên có thể quy định đình chỉ thông qua hàng hóa xâm phạm quyền đối với: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý và giống cây trồng. Trong chú thích của Phần 4 Hiệp định TRIPS có một ngoại lệ của các quy định về kiểm soát biên giới đối với việc vận chuyển hàng hóa qua biên giới của các nước thuộc một liên minh hải quan, như EU hoặc NAFTA, hoặc ASEAN, khi các nước này thành lập một liên minh hải quan. Theo chú thích của Điều 51 Hiệp định TRIPS các quốc gia thành viên được miễn nghĩa vụ áp dụng các thủ tục kiểm soát biên giới đối với việc buôn bán song song hàng chính hãng, tức là hàng hóa đưa vào thị trường của một nước khác bởi chủ sở hữu quyền hoặc bởi người được chủ sở hữu quyền cho phép. Trong EU việc cho phép này phải được khẳng định và không hàm ý thực hiện, mặt khác nó cho phép chủ sở hữu quyền phản đối việc nhập khẩu song song nếu người tiêu dùng có thể bị nhầm lẫn về đặc tính và chất lượng của hàng hoá nhập khẩu, ví dụ, nếu hàng hoá mang nhãn hiệu của một nước này được đóng gói lại bằng thùng các-tông xuất khẩu sang một nước khác, nếu việc đóng gói lại làm cho chất lượng bị thua kém, như vậy làm cho tình trạng của hàng hóa bị suy giảm. Một vấn đề đặc thù của buôn bán song song là thường các hàng hóa được nhập khẩu không phải bởi người đã đăng ký với cơ quan hải quan như nhà nhà nhập khẩu được cấp phép và đôi khi hàng hóa nhập khẩu có thể bị trộn lẫn với hàng hóa giả mạo. Chú thích của Điều 51 cũng cho phép các quốc gia thành viên miễn kiểm soát biên giới đối với hàng hóa quá cảnh. Điều này trên thực tế có thể gây khó khăn cho một liên minh hải quan khi các phương tiện có khuynh hướng chuẩn bị kỹ lưỡng cẩn thận hơn ở các nước ngoại biên của liên minh. Những người vận chuyển hàng hoá xâm phạm quyền có thể lợi dụng sự kiểm soát lỏng lẻo hơn của các nước nằm bên trong liên minh. Một ngoại lệ cuối cùng đối với các quy định về kiểm soát biên giới được quy định tại Điều 60, cho phép các quốc gia thành viên loại trừ “hàng hóa phi thương mại với số lượng nhỏ trong hành lý cá nhân hoặc hàng gửi với số lượng nhỏ”. Ngoại lệ này đã bị một số kẻ lợi dụng bằng cách chia hàng hóa xâm phạm quyền ra nhiều phần Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 15 khác nhau được vận chuyển theo hành lý cá nhân hoặc được lắp ráp lại sau khi nhập khẩu. Các thuật ngữ “giả” và “xâm phạm bản quyền” liên quan đến hàng hóa, đề cập đến việc sản xuất, phân phối và bán các bản sao của hàng hóa được sản xuất mà không được phép của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ. Những hàng hóa này cố tình xuất hiện tương tự với hàng thật để mạo nhận là hàng thật. Điều này bao gồm cả việc sử dụng các nhãn hiệu nổi tiếng trên dược phẩm, quần áo, nước hóa và các sản phẩm gia dụng mà không phải được sản xuất bởi hoặc theo ủy quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu, cũng như việc sao chép y nguyên đĩa CD âm nhạc hoặc phần mềm đưa ra bán với ý để người tiêu dùng thông thường không thể phân biệt được với sản phẩm thật. Đối với luật hình sự, hàng giả về sở hữu trí tuệ và hàng xâm phạm bản quyền được xác định như các hành vi lậu thuế tập trung vào việc sản xuất và bán hàng phi pháp mạo nhận là hàng thật. Trong phạm vi này “lậu thuế” là hàng hóa bị cấm nhập khẩu, xuất khẩu hoặc sở hữu. Việc xử lý lậu thuế luôn liên quan đến hành vi buôn lậu, nơi những kẻ sản xuất và phân phối loại hàng này muốn trốn thuế liên quan đến sản xuất và bán buôn sản phẩm. (b) Hoạt động đình chỉ thông quan hàng hóa của cơ quan hải quan Quy định chính trong Hiệp định TRIPS về kiểm soát biên giới là Điều 51 nêu rằng các quốc gia thành viên phải quy định các thủ tục cho phép chủ sở hữu quyền, khi có những căn cứ hợp lý để nghi ngờ rằng việc nhập khẩu hàng hóa có thể là giả nhãn hiệu hoặc xâm phạm bản quyền, được đệ đơn cho các cơ quan có thẩm quyền, là cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử, yêu cầu cơ quan hải quan đình chỉ thông quan hàng hóa đó vào lưu thông tự do. Như một chú thích của quy định này, cụm từ “hàng hóa giả nhãn hiệu” được định nghĩa là “hàng hóa bất kỳ, kể cả bao bì, trái phép mang nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu đã được đăng ký hợp pháp cho hàng hóa đó, hoặc không thể phân biệt với nhãn hiệu đó về những khía cạnh cơ bản và do vậy xâm phạm các quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu đó theo luật của nước nhập khẩu”. Cụm từ “hàng hóa xâm phạm bản quyền” được định nghĩa là “hàng hóa bất kỳ là bản sao được làm ra mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền ở nước sản xuất, và hàng hóa đó được làm ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ một sản phẩm mà việc làm ra bản sao sản phẩm đó cấu thành hành vi xâm phạm bản quyền hoặc quyền liên quan theo luật của nước nhập khẩu”. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 16 Cùng với việc đình chỉ thông quan hàng hóa bị nghi là hàng giả nhãn hiệu hay hàng xâm phạm bản quyền, Điều 51 cũng quy định rằng đơn đề nghị đình chỉ thông quan có thể được làm đối với hàng hóa xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, như hàng hóa mang trang trí xâm phạm quyền đối với một kiểu dáng đã được đăng ký hoặc được sản xuất theo quy trình xâm phạm quyền đối với một quy trình đã được cấp bằng độc quyền sáng chế. Điều này cũng quy định rằng các thủ tục đình chỉ thông quan đối với hàng nhập khẩu cũng được áp dụng đối với việc “thông quan hàng hóa xâm phạm quyền xuất khẩu ra khỏi lãnh thổ nước mình”. Với cách diễn đạt đó, quy định này có thể cho phép cơ quan hải quan bắt giữ hàng hóa có xuất xứ trong nước cũng như hàng hóa quá cảnh có nguồn gốc từ một nước khác. Trên thực tế, các cơ quan hải quan đã không đáp ứng tốt lắm trong việc xử lý hàng hóa được vận chuyển từ nội địa ra do khuynh hướng của các cơ quan hải quan thường hướng ra bên ngoài. Tuy nhiên, không có lý do giải thích tại sao họ không thể kiểm tra kỹ hàng hóa vận chuyển theo cả hai hướng. Như nêu trên, Điều này không được áp dụng đối với một nước quốc gia thành viên của WTO “đã xóa bỏ hầu hết mọi hoạt động kiểm soát việc vận chuyển hàng hóa qua biên giới của mình với một quốc gia thành viên khác mà cả hai đều thuộc một liên minh hải quan”. (c) Quy trình áp dụng Điều 52 quy định rằng Một chủ sở hữu quyền bất kỳ tiến hành các thủ tục theo Điều 51 đều phải cung cấp chứng cứ thích hợp để chứng minh với các cơ quan có thẩm quyền rằng, theo luật của nước nhập khẩu, hiển nhiên có sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và phải cung cấp một bản mô tả hàng hóa chi tiết đến mức các cơ quan hải quan có thể dễ dàng nhận biết hàng hóa đó. Liên quan đến những quyền sở hữu trí tuệ quá được thông qua đăng ký, như nhãn hiệu, kiểu dáng và sáng chế, sẽ là hợp lý khi cơ quan hải quan yêu cầu người nộp đơn yêu cầu đình chỉ thông quan nộp giấy tờ chứng minh quyền của mình, như bản sao giấy chứng nhận đăng ký có liên quan. Các vấn đề đặc biệt phát sinh từ các quyền này trong xét xử không bắt nguồn từ việc đăng ký. Trên thực tế, vấn đề quan trọng nhất lại liên quan đến các nhãn hiệu nổi tiếng và các tác phẩm được bảo hộ bản quyền. Các nhãn hiệu nổi tiếng là các nhãn hiệu có một uy tín quốc tế rất lớn và thậm chí có thể được bảo hộ ở một nước mà không cần đăng ký. Khi chủ sở hữu một nhãn hiệu Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 17 nổi tiếng nộp đơn yêu cầu đình chỉ thông quan hàng hóa vào lưu thông tự do do xâm phạm quyền đối với một nhãn hiệu nổi tiếng, các cơ quan hải quan sẽ có nghĩa vụ, đầu tiên là xác định tình trạng nổi tiếng của nhãn hiệu đó, và thứ hai là trong tình trạng thiếu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký, xác định xem liệu hàng hóa nêu trong đơn yêu cầu có xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng không. Điều này đòi hỏi các cơ quan hải quan xây dựng một số chuyên gia về sở hữu trí tuệ, hoặc phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan sở hữu trí tuệ. Một vấn đề tương tự sẽ phát sinh đối với hàng hóa xâm phạm bản quyền khi các cơ quan hải quan phải xây dựng cho mình một đội ngũ chuyên gia đủ khả năng để tự xác định được vấn đề chủ sở hữu quyền tác giả và vấn đề xâm phạm quyền. Sau khi nhận được đơn đề nghị đình chỉ thông quan, Điều 52 quy định các cơ quan hải quan phải thông báo cho nguyên đơn “trong một thời hạn hợp lý về việc đơn có được chấp nhận hay không” và, thời hạn mà các cơ quan hải quan sẽ hành động nếu thời hạn này đã được ấn định. (d) Đảm bảo hoặc Bảo chứng tương đương Để bảo vệ những người là đối tượng của một đơn yêu cầu đình chỉ thông quan cũng như ngăn ngừa các cơ quan có thẩm quyền lạm dụng quyền, Điều 53.1 cho phép các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu đưa ra “một khoản đảm bảo hoặc bảo chứng tương đương để bảo vệ bị đơn và các cơ quan có thẩm quyền”. Tuy nhiên, Điều 53.1 quy định rằng khoản đảm bảo hoặc bảo chứng tương đương đó không được cản trở một cách bất hợp lý các thủ tục này. Trong một số trường hợp hạn chế nhất định, Điều 53.2 cho phép thông quan hàng hóa bị đình chỉ khi bị đơn nộp một khoản tiền phù hợp để bảo vệ chủ sở hữu quyền khỏi hành vi xâm phạm quyền bất kỳ như một khoản bảo đảm. Thủ tục này được áp dụng (a) nếu cơ quan hải quan đình chỉ thông quan hàng hóa liên quan đến kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí hoặc thông tin bí mật trên cơ sở một quyết định hành chính mà quyết định đó không bị xem xét lại bởi một cơ quan xét xử hoặc một cơ quan độc lập; (b) thời hạn thông báo cho cơ quan hải quan về việc bắt đầu vụ kiện để xác định vụ việc quy định tại Điều 55 đã hết hạn; và (c) mọi điều kiện khác liên quan đến việc nhập khẩu đã được tuân thủ. Điều 53.2 quy định rằng việc nộp khoản bảo đảm đó không được ảnh hưởng đến biện pháp chế tài bất kỳ khác mà chủ sở hữu quyền có thể vận dụng và khoản bảo đảm này phải được hoàn trả nếu chủ sở hữu quyền không thực hiện quyền tố tụng trong một thời hạn hợp lý. (e) Thông báo về việc đình chỉ Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 18 Điều 54 quy định việc thông báo ngay cho cả người nhập khẩu và nguyên đơn yêu cầu đình chỉ về việc đình chỉ thông quan hàng hóa theo Điều 51. (f) Thời hạn đình chỉ Điều 55 quy định việc các cơ quan hải quan thông qua hàng hóa bị đình chỉ với điều kiện tất cả các điều kiện khác liên quan đến xuất khẩu hoặc nhập khẩu phải được tuân thủ, nếu “trong một thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ khi nguyên đơn được thông báo về việc đình chỉ thông quan, nếu các cơ quan hải quan không được thông báo rằng thủ tục để xét xử vụ việc đó đã được một bên không phải là bị đơn tiến hành, hoặc rằng cơ quan có thẩm quyền đã quyết định áp dụng các biện pháp tạm thời để kéo dài thời hạn đình chỉ thông quan đối với hàng hóa”. Điều này quy định trong “những trường hợp thích hợp”, thời hạn đó có thể được gia hạn thêm 10 ngày làm việc. Nếu thủ tục tố tụng để xét xử vụ việc đó đã được tiến hành, Điều 55 cho phép bị đơn được phép yêu cầu “xem xét lại, bao gồm cả việc nghe bị đơn trình bày ý kiến” để trong một thời hạn hợp lý ra quyết định “liệu có sửa đổi, hủy bỏ hoặc giữ nguyên” những biện pháp ấy hay không. Cuối cùng Điều 55 quy định rằng trường hợp việc đình chỉ thông qua hàng hóa được thực hiện hoặc được tiếp tục thực hiện theo một biện pháp tạm thời, sẽ áp dụng Điều 50.6, tức là việc đình chỉ sẽ bị hủy bỏ hoặc bị đình chỉ hiệu lực nếu thủ tục tố tụng để xét xử vụ việc không được tiến hành trong một thời hạn hợp lý, được xác định bởi cơ quan xét xử, hoặc trường hợp thiếu quy định về thời hạn này, là 21 ngày làm việc hoặc 31 ngày theo lịch, tính theo thời hạn nào dài hơn. (g) Bồi thường cho người nhập khẩu và chủ sở hữu hàng hóa Nếu người nhập khẩu, người nhập khẩu theo ủy thác và chủ sở hữu hàng hóa phải gánh chịu thiệt hại do việc ngăn giữ hàng hóa một cách sai trái, hoặc do việc ngăn giữ thông quan hàng hóa theo Điều 55, Điều 56 cho phép các cơ quan có liên quan yêu cầu nguyên đơn phải trả cho những người này một khoản bồi thường “thỏa đáng”. (h) Quyền kiểm tra và thông tin Một sự đổi mới đặc biệt hữu ích của các quy định về kiểm soát biên giới trong Hiệp định TRIPS là thẩm quyền được quy định bởi Điều 57 cho phép các nước quốc gia thành viên quy định khi vụ việc được phán quyết thuận theo yêu cầu của chủ sở hữu quyền, các cơ quan có thẩm quyền có quyền thông báo cho chủ sở hữu quyền “tên và địa chỉ của người gửi hàng, người nhập khẩu và người nhập khẩu theo ủy thác và về số lượng hàng hóa”. Hiển nhiên Điều này sẽ giúp chủ sở hữu quyền trong việc Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 19 điều tra tiếp theo những người khác có liên quan đến hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền. Chủ sở hữu quyền chắc chắn được hỗ trợ tốt nhất để nhận diện hàng xâm phạm quyền, Điều 57 cho phép các quốc gia thành viên quy định cho các cơ quan có thẩm quyền quyền tạo cho chủ sở hữu có “cơ hội đủ để yêu cầu tiến hành kiểm tra hàng hóa bất kỳ bị cơ quan hải quan ngăn giữ để chứng minh co yêu cầu của mình”. Tương tự, các cơ quan có thẩm quyền được quy định thẩm quyền tạo cho người nhập khẩu một cơ hội tương đương để tiến hành kiểm tra hàng hóa bất kỳ như vậy. (i) Hành động mặc nhiên Điều 58 quy định rằng các quốc gia thành viên có thể cho phép các cơ quan có thẩm quyền chủ động hành động đình chỉ thông qua hàng hóa mà các cơ quan đó có chứng cứ hiển nhiên về sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong những trường hợp như thế, Điều 58 cho phép các cơ quan có thẩm quyền “yêu cầu chủ sở hữu quyền cung cấp những thông tin mà có thể giúp họ thực hiện các quyền lực đó”. Điều 58(b) quy định rằng cả người nhập khẩu và chủ thể quyền phải được thông báo ngay về việc đình chỉ thông quan và nếu người nhập khẩu nộp đơn cho các cơ quan có thẩm quyền khiếu nại việc đình chỉ thông quan thì việc đình chỉ thông quan đó phải tuân thủ, với những sửa đổi thích hợp, các điều kiên quy định tại Điều 55. Điều 58(c) quy định một ngoại lệ cho cả cơ quan Nhà nước và các công chức Nhà nước “khỏi bị áp dụng các chế tài tương ứng nếu những hành vi được thực hiện hoặc dự định thực hiện một cách có thiện ý”. (j) Chế tài Với điều kiện không làm tổn hại đến các hành vi xâm phạm quyền bị một chủ sở hữu khiếu kiện, và tùy thuộc vào quyền của bị đơn yêu cầu cơ quan xét xử xem xét lại, Điều 59 quy định rằng các cơ quan có thẩm quyền có quyền “ra lệnh tiêu hủy hoặc xử lý hàng hóa xâm phạm quyền” theo các nguyên tắc quy định tại Điều 46. Điều 46 quy định mọi xử lý hàng hóa xâm phạm quyền phải được thực hiện bên ngoài các kênh thương mại “theo cách thức tránh gây thiệt hại bất kỳ cho chủ sở hữu quyền”. Trong khi ra quyết định tiêu hủy, các cơ quan có thẩm quyền phải tính đến độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của các bên thứ ba. Liên quan đến hàng giả, Điều 46 quy định rằng “việc đơn thuần gỡ bỏ nhãn hiệu gắn trên hàng hóa một cách bất hợp pháp không đủ để cho phép hàng hóa đó được đưa vào lưu thông trong các kênh thương mại”. Tương tự, Điều 59 quy định, đối với hàng giả, các cơ quan có thẩm quyền “không được cho phép tái xuất những hàng hóa xâm Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 20 phạm quyền vẫn giữ nguyên trạng hoặc xử lý chúng theo một thủ tục hải quan khác, trừ các trường hợp ngoại lệ”. Cuộc họp Tư vấn về thực thi của WIPO, tài liệu WIPO Doc. WIPO/CME/3: Xu hướng của các vấn đề liên quan đến những khó khăn và thực tiễn trong lĩnh vực thực thi. 1. Nhìn chung, các ý kiến chỉ ra rằng ở một số quốc gia thành viên, các hàng rào mang tính nguyên tắc để loại trừ hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền không tồn tại trong luật nội dung, nhưng tồn tại trong các chế tài và hiện phạt hiện có (hoặc không có) để ngăn chặn hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền. Trong nhiều trường hợp cho thấy các hệ thống thực thi là không có hiệu quả do thiếu nguồn nhân lực, tài chính và các kinh nghiệm thực tế về thực thi quyền sở hữu trí tuệ; thiếu thốn lớn về đào tạo các cán bộ thực thi, kể cả cán bộ của ngành tư pháp; các chủ sở hữu quyền cũng như công chúng thiếu sự hiểu biết về quyền của mình và các chế tài; các văn bản pháp luật chưa được soạn thảo một cách có hiệu quả hoặc bao quát; và các vấn đề mang tính hệ thống phát sinh từ sự điều phối quốc gia và quốc tế thiếu hiệu quả, bao gồm cả việc thiếu tính minh bạch. 2. Ý kiến của một số nước quốc gia thành viên cho rằng hệ thống tư pháp còn chậm chạp, thiếu sự điều phối cùng với sự chậm trễ kéo dài và các kết quả thiếu tính thiết thực, tốn kém và áp dụng không đồng bộ, ngay cả tại biên giới của cùng một quốc gia. Một số nước quốc gia thành viên không quy định về hành động mặc nhiên ở biên giới, hoặc nếu có quy định thì luôn yêu cầu các chủ sở hữu quyền theo đuổi vụ việc. Ở một số nước còn bị phàn nàn rằng các lệnh sơ thẩm của tòa án được đưa ra rất muộn, hoặc nếu đưa ra đúng thời hạn thì thường khó thực thi. Các lựa chọn khác được đề xuất, như trọng tài hoặc các hệ thống giải quyết tranh chấp khác, thường được xem là kém phát triển, hoặc các quyết định của các cơ quan này không khả thi một cách đầy đủ. Một số ý kiến thường phàn nàn về việc thiếu khả năng bắt giữ và triệt phá hành vi lậu thuế; hàng hóa xâm phạm quyền thường dễ bán lại, gắn lại nhãn hiệu hoặc tái xuất. Hơn nữa một số ý kiến đã chỉ ra việc thiếu các mệnh lệnh tư pháp hoặc hành chính về các phương tiện tịch thu và tiêu huỷ được sử dụng trong sản xuất hàng lậu dẫn đến các hành vi kinh doanh phi pháp tiếp diễn bởi chính kẻ xâm phạm quyền đó hoặc các đối tác làm ăn của kẻ đó. 3. Một số ý kiến quả quyết rằng việc đánh giá thấp giá trị của các quyền sở hữu trí tuệ cũng đóng góp vào việc thực thi kém hiệu quả. Trong số các ý kiến này có ý kiến nhấn mạnh một số khía cạnh liên quan của vấn đề: mức độ thấp về kiến thức về quyền sở hữu trí tuệ và về quản lý các quyền này; chi phí và thời gian cần thiết để bắt đầu và theo đuổi một hoạt động thực thi tại tòa án; và sự lo sợ rằng các bên có Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 21 nhiều nguồn có thể lạm dụng hệ thống và bắt ép các bên nhỏ hơn vào một kết quả không công bằng. Đa số ý kiến cho rằng để có hiệu quả hệ thống thực thi phải khả thi, nhanh chóng, không tốn kém và có thể dự đoán được, và kết quả của các hoạt động thực thi phải công bằng, chính đáng và không phụ thuộc vào khả năng tài chính của các bên trong tranh chấp. Các chương trình đào tạo phải được xây dựng nhằm giúp các chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hiểu quyền của họ là gì và làm thế nào để quản lý các quyền đó, kể cả các chiến lược thực thi. Để tăng cường khía cạnh này của hệ thống quyền sở hữu trí tuệ, một số ý kiến cho rằng các chính phủ cần phải đánh giá giá trị của các ngành công nghiệp cơ bản dựa trên các quyền sở hữu trí tuệ trong tỷ lệ phần trăm của Tổng Sản lượng nội địa (GDP). Điều này có thể dẫn đến một sự đánh giá giá trị của các quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường kinh tế của một quốc gia, cũng như đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. 4. Trên cơ sở thông tin thu được từ các ý kiến này, dưới đây là tóm tắt những khó khăn3 theo kinh nghiệm của một số nước quốc gia thành viên trong những lỗ lực để thực hiện có hiệu quả các nghĩa vụ quốc tế trong lĩnh vực thực thi quyền sở hữu trí tuệ. A. Thiếu sự điều phối mang tính quốc gia 5. Một chính sách thực thi quyết gia có hiệu quả khi nó có tính đến việc thực thi là một cố gắng được điều phối giữa các ngành có liên quan của chính phủ. Hơn nữa, cũng cần phải có sự tham gia của các chủ sở hữu quyền hoặc các hiệu hội của các chủ sở hữu quyền, những người được đánh giá tốt về kiến thức và nhu cầu trong lĩnh vực thực thi và giúp đỡ trong các chương trình giáo dục và đào tạo. Việc hợp tác theo kết cấu cũng giúp các cơ quan hải quan và công an trong việc có được các thông tin cần thiết liên quan đến các chủ sở hữu quyền, hoặc mặt khác giúp các cơ quan này truy cập vào các cơ sở dữ liệu sở hữu trí tuệ để thiết lập mối liên hệ với các chủ sở hữu quyền mà về phần mình có thể giúp đỡ trong việc nhận dạng sản phẩm và trong các thủ tục tố tụng tư pháp và hành chính. Cuối cùng, để ngăn chặn sự ủng hộ của công chúng khỏi hoạt động buôn bán trái phép đối với hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền cần phải nâng cao nhận thức của công chúng về giá trị của quyền sở hữu trí tuệ và về tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội của hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền. B. Sự cần thiết về Hợp tác quốc tế 3 Không được liệt kê theo tầm quan trọng. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 22 6. Cùng với các dự án hợp tác có lợi giữa các chính phủ và các tổ chức quốc tế, có một nhu cầu đặc biệt liên quan đến việc các chính phủ song song tiến hành đấu tranh chống xâm phạm quyền xuyên biên giới và đấu tranh chống hoạt động phi pháp. Sự hợp tác này có thể được tăng cường bằng các khung pháp lý và các thủ tục thi hành được hài hóa hóa. Việc trao đổi thông tin giữa các cơ quan hải quan về các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và vận chuyển quá cảnh hàng hóa có thể đóng góp rất nhiều vào việc theo dõi và bắt được nguồn của hàng hóa xâm phạm. Tương tự, các chương trình đào tạo trao đổi cho các cán bộ thực thi đã chứng tỏ giá trị của hoạt động đấu tranh chống hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền. C. Kết nối chặt chẽ với Luật Tư pháp quốc tế 7. Các vấn đề thực thi liên quan chặt chẽ với các vấn đề về luật tư pháp quốc tế. Xin nhấn mạnh rằng có một nhu cầu về sự hợp tác được điều phối giữa các nước quốc gia thành viên và các tổ chức quốc tế. Đặc biệt, việc xâm phạm bản quyền trên Internet có thể lẩn tránh được phía sau sự thiếu thốn về quyền hạn xét xử được hài hòa hóa và sự lựa chọn các cơ chế pháp lý. D. Thiếu sự nhận thức của công chúng 8. Một trong số các vấn đề lớn nhất mà các quốc gia thành viên phàn nàn là người tiêu dùng không phải luôn thấy được những hiểm họa thực tế dính líu đến việc hỗ trợ thương mại phi pháp đối với hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền. Trong hỗ trợ thông mại phi pháp thường trực tiếp liên quan đến hỗ trợ tội phạm có tổ chức. Thường chúng làm cho công chúng không chỉ giảm đi các cơ hội việc làm hợp pháp mà làm cho các chính phủ không thể thực hiện việc thu thuế chính xác, một hậu quả khác là ảnh hưởng đến các lĩnh vực sống còn khác như sức khỏe và y tế. E. Các nhu cầu về đào tạo 9. Các ý kiến đã viện dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của thông tin và các công nghệ khác, và tốc độ tiến triển mau lẹ của quá trình toàn cầu hóa như các lý do thúc ép đối với các chương trình giáo dục và đào tạo. Các vấn đề về pháp lý và tư pháp sở hữu trí tuệ bắt nguồn từ các văn bản pháp lý quốc tế hiện hành và mới được đàm phán, có thể là phức tạp và nhiều khía cạnh. Đề đề cập đến các vấn đề này cũng như các vấn đề có liên quan khác, một số ý kiến đề xuất rằng các quốc gia thành viên nên xây dựng và duy trì các chiến lược giáo dục và đào tạo về sở hữu trí tuệ thống nhất và dài hạn, bao gồm các các lĩnh vực có liên quan như luật tư pháp quốc tế. F. Các vấn đề về xét xử Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 23 (a) Chi phí tố tụng cao 10. Một số ý kiến phản ánh rằng các chủ sở hữu quyền thường cảm thấy nản lòng bởi chi phí tốn kém liên quan đến việc tố tụng xâm phạm quyền. Việc tìm chứng cứ liên quan đến hàng giả hoặc hàng xâm phạm bản quyền thường tốn thời gian và tiền bạc. Các chi phí tố tụng cũng bị gia tăng do thời gian chậm trễ kéo dài để có được sự trợ giúp tạm thời và cuối cùng chống lại những kẻ xâm phạm quyền. Một số ý kiến phàn nàn rằng ở một số nước quốc gia thành viên, việc cơ quan xét xử và các đại diện pháp lý thiếu kiến thức chuyên môn về sở hữu trí tuệ cũng gây ảnh hưởng xấu trong việc đạt được các kết quả công bằng và đúng thời hạn trong các vụ kiện về xâm phạm quyền. Các yếu tố nêu trên, cùng với các quyền và thủ tục không có hiệu quả để giành lại các chi phí tư pháp, có thể làm cho các chủ sở hữu quyền nản lòng thực thi quyền của mình thông qua hệ thống pháp lý. (b) Các thủ tục chậm và phức tạp 11. Các thủ tục phức tạp và mất nhiều thời gian có thể làm gia tăng các chi phí tố tụng và dẫn đến những chậm trễ phi lý để đạt được sự trợ giúp có hiệu quả và đúng lúc. (c) Vấn đề tồn đọng đơn tại các cơ quan sở hữu trí tuệ và việc công bố muộn các quyền sở hữu trí tuệ đã đăng ký 12. Các vấn đề liên quan đến sự tồn đọng đơn trong quá trình đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, và/hoặc thiếu sót hay chậm trễ trong công bố chính xác các quyền đó trong một thời hạn hợp lý được chỉ ra là có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo hộ các quyền này và xa hơn có thể làm phức tạp các hành vi xâm phạm quyền, dẫn đến sự chậm trễ kéo dài và tốn thêm các chi phí không cần thiết. (d) Các biện pháp tạm thời 13. Một số ý kiến cho rằng các vụ kiện thường không được giải quyết hoàn toàn do cản trở của các hạn chế quá đáng và đôi khi bị sử dụng vì mục đích lạm dụng. Các thủ tục để đạt được các biện pháp tạm thời có hiệu quả thường bị xem là cồng kềnh bất hợp lý, tốn kém và mất nhiều thời gian. Nguyên liệu xâm phạm, hoặc các chứng cứ khác trong những vụ việc liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể dễ dàng bị tháo ra hoặc hủy bỏ do bản chất của chúng. do đó trong nhiều trường hợp không thu được chứng cứ trừ phi việc tra cứu và bắt giữ được thực hiện mà không có thông báo trước với bên vi phạm quyền. Các ý kiến cũng lưu ý rằng nhiều nước quốc gia thành viên còn chưa quy định việc tra cứu và/hoặc các lệnh bắt dân sự mang tính một phía, hoặc có quy định nhưng rất khó đạt được. Những đòi hỏi thiếu cân đối về các giao kèo an ninh cũng có thể thực sự cản trở các chủ sở hữu quyền Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 24 đạt được sự hỗ trợ thông qua các biện pháp tạm thời, trong khi các thời hạn ngắn không hợp lý để bắt đầu vụ kiện pháp lý có thể làm tổn hại hiệu quả của các biện pháp tạm thời. Các vụ kiện xâm phạm quyền thường liên quan đến số lượng đáng kể chứng cứ và cần đến sự chuẩn bị rất phức tạp đối với chứng cứ trong các vụ kiện tại tòa. Việc quy định thời hạn khác nhau của các quốc gia thành viên có thể làm tăng sự trầm trọng của vấn đề, vì ngày càng có nhiều vụ kiện liên quan đến hàng xâm phạm bản quyền liên quan đến nhiều quốc gia và phải được xử lý cùng lúc ở nhiều nước khác nhau. 14. Những người làm hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền thường thu được của cải đáng kể từ hành vi phi pháp của mình. Có hai trở ngại chính để ngăn chặn việc sử dụng các tài sản này để bồi thường cho các chủ sở hữu quyền bị thiệt hại. Thứ nhất, mặc dù phần lớn các quốc gia thành viên đều ra lệnh phong tỏa tài sản cho các chủ sở hữu quyền thì việc tìm kiếm tài sản là rất khó khăn hoặc không thể làm được. Các cơ quan tài chính thường không sẵn lòng cung cấp thông tin về tài sản ngay cả sau khi nhận được lệnh phong tỏa có hiệu lực; ở nhiều quốc gia thành viên, các lệnh này chỉ có thể đạt được đối với các tài khoản ngân hàng cụ thể đã biết. Thứ hai, các lệnh một phía ở một nước không thể được thi hành ở một nước khác, tạo cho kẻ xâm phạm quyền có thời gian chuyển tài sản và/hoặc chứng cứ buộc tội đi đến những nơi mà chủ sở hữu quyền hay tòa án không đến được. G. Thiệt hại 15. Một số ý kiến cho rằng các quy định pháp lý liên quan đến việc xây dựng, tính toán và áp dụng thiệt hại dân sự giữa các phạm vi xét xử khác nhau rất lớn, và do đó không đưa ra một sự ngăn chặn có hiệu quả. Rất khó chứng minh những thiệt hại thực tế và các thiệt hại về tiền bạc trong các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Những kẻ xâm phạm quyền tham gia vào hành vi phạm pháp và do đó phần lớn không giữ lại những ghi chép cũng như các nguồn cung cấp hàng hóa có thể tìm ra được để xác định quy mô của hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền. Không có những sự ngăn chặn có hiệu quả ở mức độ quốc gia và toàn cầu, những kẻ làm hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền với các hình thức xâm phạm ngày càng tinh vi sẽ tiếp tục các hành vi phạm tội gây thiệt hại nghiêm trọng cho các chính phủ, các chủ sở hữu quyền và công chúng. 16. Một số ý kiến cho rằng các quy định pháp lý về thiệt hại thường xuyên không những chỉ thất bại trong việc bồi thường thỏa đáng cho các chủ sở hữu quyền mà trên thực tế còn đưa ra những khuyến khích về tài chính rất lớn cho việc xâm phạm bản quyền. Ví dụ, những thiệt hại đôi khi chỉ giới hạn hoàn toàn ở cái gọi là “lợi nhuận bị mất” mà trên thực tế có thể đưa ra một tổng số thiệt hại không đáng kể cho Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 25 những kẻ làm hàng giả hoặc xâm phạm bản quyền so với lợi nhuận từ việc làm hàng giả đó. Đôi khi, các tòa án cho phép người làm hàng xâm phạm bản quyền không có giấy phép được chỉnh sửa hành vi xâm phạm quyền của mình đơn giản bằng cách có được các bản sao đã được cấp phép sau khi xâm phạm quyền. 17. Tổng số thiệt hại thực tế mà chủ sở hữu quyền phải chịu thường khó và/hoặc rất tốn kém để chứng minh. Do bản chất rất tự nhiên của các hành vi làm hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền, những kẻ làm hàng giả hiếm khi phải tốn nhiều chi phí nhưng một phần nhỏ tổng số hàng hóa vi phạm và thường thì số liệu này không cụ thể hoặc không được ghi chép lại cho thấy có bao nhiêu hàng giả hoặc hàng xâm phạm bản quyền được sản xuất, chào bán và phân phối. 18. Một số ít ý kiến đã chỉ ra rằng trong một số trường hợp, không có sự ngăn cản thực sự nào từ phía cái gọi là các trừng phạt về tiền bạc để xử lý có hiệu quả các trường hợp làm hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền có tổ chức trắng trợn. Trong các trường hợp như vậy, việc bồi thường cho các chủ sở hữu quyền chỉ trả cho sự tổn hại trực tiếp về kinh tế hoặc những tổn thất tài chính là không phù hợp với chế tài áp dụng cho toàn bộ thiệt hại gây ra để trừng phạt những kẻ làm hàng giả hoặc để cấu thành một cách ngăn chặn thích hợp. Trên thực tế, các chủ sở hữu quyền thường không thể trang trải chi phí cho các hoạt động pháp lý làm họ nản chí theo đuổi việc thực thi các quyền của họ. Phí thuê luật sư và các chi phí điều tra và tố tụng thường cao hơn tổng số thiệt hại mà tòa án xác định. Một số ý kiến chê bai rằng trong khi hầu hết các quốc gia thành viên quy định việc kẻ xâm phạm quyền bồi thường các khoản lệ phí và chi phí cho chủ sở hữu quyền thì tổng số tiền phạt và bồi hoàn thu được trang trải không đáng kể so với số tiền đã chi trả. H. Các quy tắc về chứng cứ 19. Một số ý kiến đã nhấn mạnh rằng ở một số quốc gia thành viên các quy tắc về thủ tục và gánh nặng chứng minh quyền sở hữu và sự tồn tại của các quyền đó là nặng nề bất hợp lý và gây cản trở cho các chủ sở hữu quyền thực hiện các hành vi pháp lý. Các chủ sở hữu quyền luôn không thể dựa vào các mẫu hợp lý làm biện pháp chứng minh hàng hóa trong các phương tiện bị bắt giữ là hàng giả hoặc hàng xâm phạm bản quyền. Trong khi số lượng hàng hóa bị bắt giữ là rất lớn với nhiều loại hàng xâm phạm quyền thì rất tốn kém và khó khăn cho các chủ sở hữu quyền chứng minh rằng mỗi loại và tất cả các loại hàng hóa bị bắt giữ là hàng xâm phạm quyền. Vấn đề trở nên trầm trọng hơn vì các cơ quan thực thi pháp luật thường không đảm bảo về phạm vi trong đó các cơ quan này có thể chia sẻ thông tin và chứng cứ với khu vực tư nhân, các chuyên gia hoặc các tổ chức có liên quan. Những bấp bênh này cũng ngăn việc thực thi pháp luật khỏi việc hưởng lợi từ các nguồn dồi Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 26 dào và các chuyên môn kỹ thuật quan trọng mà các chủ sở hữu quyền có thể đưa ra. Mặt khác, các chủ sở hữu quyền không thể có được thông tin của những kẻ xâm phạm quyền về các nguồn cung cấp cũng như đường dây phân phối. Chỉ một số ít quốc gia thành viên quy định quyền cần thiết về thông tin để đảm bảo rằng các chủ sở hữu quyền có thể an tâm về thông tin cơ bản liên quan đến việc sản xuất và phân phối hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền. 20. Phần lớn hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền được sản xuất ở những nơi bí mật. Do đó các cơ quan thực thi pháp luật cũng như các chủ sở hữu quyền phải thường xuyên tin tưởng vào những người cung cấp phần lớn các thông tin cơ bản để nhận diện một người xâm phạm quyền và sau đó là thu thập chứng cứ trực tiếp về việc xâm phạm quyền. Có thể thông cảm được việc những người cung cấp thông tin rất miễn cưỡng khi bị nhận diện, xuất hiện tại tòa án hoặc ký các bản tuyên thệ. Việc cung cấp thông tin về xâm phạm có thể gây nguy hiểm đối với triển vọng công việc hoặc thậm chí đến an toàn tính mạng của người đó. Trên thực tế có một số quốc gia thành viên quy định việc tuyên thệ từ những người cung cấp thông tin có tên với thông tin trực tiếp liên quan đến việc xâm phạm quyền trước tòa để đưa ra lệnh kiểm tra và/hoặc bắt giữ đối với chứng cứ xâm phạm quyền trên thực tế. Các manh mối chứng cứ cao như vậy có thể làm nản lòng các cá nhân cung cấp thông tin về tội phạm mà họ biết được. 21. Một số ý kiến đã mô tả nhu cầu về việc suy đoán pháp lý khả thi trong các vụ kiện tại tòa. Vấn đề này đã trở nên đặc biệt gay gắt hiện nay khi hàng trăm nghìn đĩa quang các loại xâm phạm quyền (CD, CD-ROM, VCD, DVD) đều đặn bị bắt giữ trong các cuộc kiểm tra về hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền. Việc yêu cầu chứng cứ cụ thể và phức tạp đối với chủ sở hữu quyền tác giả cho mỗi đĩa, băng ghi âm hoặc chương chình có thể làm mất rất nhiều thời gian, cố gắng và tiền bạc của chủ sở hữu quyền và sau đó là làm tắc nghẽn hoàn toàn hệ thống xét xử. I. Thiếu các hệ thống giải quyết tranh chấp có thể lựa chọn 22. Các cơ chế giải quyết tranh chấp có thể lựa chọn có thể đưa ra cơ hội để đạt được kết quả nhanh hơn và tiết kiệm chi phí hơn trong một lĩnh vực mà trong đó vấn đề thời gian thường là vấn đề cốt lõi. Các ý kiến nhấn mạnh rằng các hệ thống giải quyết tranh chấp có thể lựa chọn này không tồn tại mà nếu có thì thường hoạt động kém và không được sử dụng trên thực tế. J. Thực thi tại biên giới 23. Các ý kiến quả quyết rằng để thực thi tại biên giới có hiệu quả thì có khó khăn trong việc tìm ra sự cân bằng thích hợp giữa việc, một mặt, hải quan cần phải Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 27 kiểm tra dòng chảy của hàng hóa giữa các quốc gia thành viên, và mặt khác, nguy cơ của việc chính sự kiểm tra đó làm tắc nghẽn dòng chảy này, tạo ra rào cản đối với thương mại tự do. Việc kiểm tra ít hơn có thể tạo ra dòng chảy hàng hóa tốt hơn, nhưng đồng thời lại làm gia tăng nguy cơ có nhiều hàng giả hoặc hàng xâm phạm bản quyển xâm nhập vào các kênh thương mại. Liên quan đến việc thực thi tại biên giới, một số điểm dưới đây được lưu ý như là những khó khăn được đông đảo các quốc gia thành viên đúc rút kinh nghiệm: (a) Thiếu sự hợp tác từ phía các chủ sở hữu quyền tiếp theo hành động mặc nhiên 24. Các cán bộ hải quan, trong phạm vi thẩm quyền của mình, thường xuyên dừng các hàng hóa có khả năng là hàng xâm phạm quyền; sau đó, họ gặp khó khăn trong việc tìm ra chủ sở hữu quyền hoặc khi họ đã thông báo với chủ sở hữu quyền về hành động mặc nhiên thì họ không chứng minh được đó là hàng giả hoặc ngược lại họ lơ là việc nộp đơn yêu cầu bắt giữ hoặc tiến hành kiện đối với hàng xâm phạm quyền. Nếu không có sự hợp tác từ phía chủ sở hữu quyền, có một sự nguy hiểm là hàng xâm phạm quyền sẽ dễ dàng được bán lại, dán nhãn lại hoặc tái xuất. Các ý kiến đã chỉ ra rằng để hành động mặc nhiên có hiệu quả, các chủ sở hữu quyền nên đền đáp lại sự hỗ trợ của các cán bộ hải quan bằng cách cung cấp các chứng cứ cần thiết và bắt đầu vụ kiện trong thời hạn cho phép. (b) Thiếu nguồn nhân lực, thiết bị kỹ thuật và địa điểm cho hàng hóa bị tịch thu 25. Một số ý kiến cho rằng các quốc gia thành viên đã giới hạn tài chính để thành lập các cơ quan hải quan có đội ngũ cán bộ giỏi. Họ thiếu các hệ thống thông tin bằng máy tính, và thiếu tài chính cho các thiết bị kỹ thuật để tạo nên sự kết nối với các cơ sở dữ liệu có thông tin của các chủ sở hữu quyền cũng như thiếu phương tiện và địa điểm cất giữ hàng hóa bị tịch thu. Khái niệm “bắt giữ mang tính chất xây dựng” đối với việc lậu thuế thường được sử dụng do việc thiếu những nơi lưu giữ chính thức. Điều này cho phép kẻ xâm phạm quyền ngăn lại việc bắt giữ hàng hóa chờ xét xử hoặc kết quả của một vụ xử lý hành chính. Dù sao đi nữa thì hàng hóa thường sẽ được phân phối đi gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu quyền và thậm chí cả cho người tiêu dùng, cũng như làm mất đi chứng cứ cho cả hành vi xâm phạm quyền và cả số lượng hàng hóa, những thứ cần thiết để tính toán thiệt hại. (c) Hàng hóa xâm phạm quyền thường được đưa trở lại vào lưu thông 26. Một số ý kiến nhận xét rằng hàng hóa xâm phạm quyền thường được tái xuất, giao lại cho người nhập khẩu trên cơ sở nộp một khoản tiền phạt nhỏ, hoặc được cơ Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 28 quan bắt giữ bán đấu giá cho công chúng, đôi khi không có cả việc xóa đi các nhãn hiệu xâm phạm quyền. (d) Các yêu cầu về tiền bảo đảm quá mức trong các chế tài tạm thời 27. Một số ít ý kiến cho rằng các cơ quan yêu cầu chủ sở hữu quyền nộp các khoản tiền bảo đảm không hợp lý hoặc lặp lại liên quan đến lô hàng nhắm tới. Trong các tình huống khi nhiều lô hàng bị bắt giữ thì điều này có thể là sự ngăn cản và có thể ngăn cản sự trông cậy vào các biện pháp tại biên giới. (e) Không có cơ sở pháp lý cho hành động mặc nhiên 28. Có ý kiến lưu ý rằng một số quốc gia thành viên chưa quy định cơ sở pháp lý cho phép cán bộ hải quan tiến hành hành động mặc nhiên. K. Xử lý hình sự (a) Bắt đầu một vụ hình sự 29. Một số ý kiến cho rằng ở phần lớn các quốc gia thành viên, các vụ hình sự được khởi sự bởi chủ sở hữu quyền. Nếu không có sự can thiệp của chủ sở hữu quyền thì sẽ không có việc điều tra hình sự hoặc các lệnh tiêu hủy. Tuy nhiên, khi cơ quan lập pháp của một quốc gia thành viên xác định các lực lượng liên quan đến sở hữu trí tuệ là lực lượng bán công thì trên thực tế lợi ích của công chúng cũng như của tư nhân cũng bị liên quan đến, nên việc tố tụng hình sự có thể được bắt đầu mà thiếu sự khởi sự ngay lập tức của chủ sở hữu quyền. Có ý kiến nhấn mạnh rằng để cho phép tố tụng mặc nhiên, hành vi xâm phạm quyền trái phép phải trái với lợi ích công cộng, hoặc chống lại lợi ích của hai hay nhiều người; và trong mọi trường hợp khác phải có đơn kiện nộp bởi chủ sở hữu. Các cán bộ sẽ phải quyết định xem liệu có chứng cứ thoạt tiên hay không để áp dụng hành động mặc nhiên. Những thực tiễn tốt về đấu tranh chống hàng giả về sở hữu trí tuệ và hàng xâm phạm bản quyền Việc xác định những thực tiễn tốt về đấu tranh chống hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền đã được một số hội nghị và tổ chức quốc tế thực hiện. Ví dụ, một thông báo hỗn hợp gửi cho Hội đồng TRIPS ngày 23 tháng 10 năm 2006 được đưa ra theo yêu cầu của các phái đoàn Cộng đồng châu Âu, Nhật Bản, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ4 với ý kiến là “các nhà đồng tài trợ nhận thức được là sự trao đổi kinh nghiệm và những thực tiễn tốt trong Hội đồng TRIPS liên quan đến mọi quốc gia thành viên có thể 4 Tài liệu IP/C/W/485 của WTO. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 29 giúp cho mọi quốc gia thành viên hiểu tốt hơn về vấn đề nằm ở đâu, làm thế nào để đề cập đến vấn đề đó và Hội đồng TRIPS có thể làm được gì”. Phần cuối, các đồng tài trợ của thông điệp đã mời các quốc gia thành viên WTO “tham gia vào một cuộc thảo luận mang tính chất xây dựng về việc làm thế nào để thực hiện có hiệu quả hơn các quy định về thực thi trong Hiệp định TRIPS” và “tham gia vào một cuộc thảo luận mang tính chất xây dựng về các biện pháp kèm theo để có thể tăng cường tính hiệu quả của luật pháp quốc gia và các cố gắng thực thi”. Liên quan đến các nước đang phát triên họ đã đề xuất “hợp tác với các nước tiếp nhận trợ giúp kỹ thuật và với các tổ chức quốc tế có liên quan, để điều chỉnh tốt hơn mục tiêu của trợ giúp kỹ thuật... nhằm hỗ trợ việc thi hành các quy định về thực thi”. Một danh mục liệt kê tiêu biểu các thực tiễn tốt nhất được nêu trong tuyên bố Hội nghị thượng đỉnh G8 tại Gleneagles năm 2005 về Giảm bớt hàng giả và hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc thực thi có hiệu quả hơn5 Các nước G8 đã cam kết tiến hành “các bước cụ thể tiếp theo” nhằm: • tăng cường và nhấn mạnh việc phân tích các khuynh hướng, vấn đề và các hoạt động thực thi trong nước và quốc tế; • đẩy mạnh và duy trì pháp luật, các quy định và/hoặc thủ tục để tăng cường việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả, nếu cần, trong các lĩnh vực như bắt giữa và ngăn chặn thông quan hàng giả hoặc hàng xâm phạm bản quyền, tiêu hủy các hàng hóa này cũng như các phương tiện sản xuất ra các hàng hóa đó, và sử dụng một cách rõ ràng, minh bạch các thủ tục tư pháp, các chính sách và các hướng dẫn liên quan đến việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ; • Tăng cường phát hiện và ngăn cản phân phối và bán hàng giả thông qua Internet và đấu tranh chống nạn trộm cắp trực tuyến; • Tăng cường sự điều phối các chiến lược chống tội phạm hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền, và đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các cán bộ làm công tác thực thi, bao gồm cả việc trao đổi phân tích rủi to, trao đổi thông tin liên quan đến thực tiễn tốt, tăng cường sự hợp tác hiện có giữa các biên giới quốc tế, và giữa các chính phủ với khu vực tư nhân; • Tăng cường nhận thức của các quan chức chính phủ và công chúng về các nguy hại đối với sức khỏe, thiệt hại về kinh tế và sự phát triển của 5 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 30 các nhóm tội phạm có tổ chức do hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền gây ra; • Phối hợp chặt chẽ với các đối tác là các nước đang phát triển để tăng cường pháp luật, xây dựng và hỗ trợ tăng cường khả năng chống hàng giả và hàng xâm phạm bản quyền ở quy mô quốc gia thông qua việc trao đổi thông tin về các thực tiễn tốt, đào tạo và trợ giúp kỹ thuật, nhằm đạt được các mục tiêu phát triển chung của chúng ta.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực thi sở hữu trí tuệ.pdf
Tài liệu liên quan