heo kết quả nghiên cứu cho thấy ấu trùng tôm
càng xanh có khả năng phát triển được tốt trong
điều kiện nhiệt độ cao, nên tiếp tục nghiên cứu áp
dụng vào trong quá trình ương.
Trong thí nghiệm về nhiệt độ lần này đã thực
hiện từ giai đoạn tôm ấu trùng đến tôm bột 30 ngày,
nên tiếp tục thí nghiệm thêm trong giai đoạn khác
như: các giai đoạn phát triển của phôi. Sau đó mới
tiếp tục thí nghiệm với phương pháp khác như siêu
âm và các hormone
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 204 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thử nghiệm công nghệ chuyển giới tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879) nhờ vào nhiệt độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 71
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
THỬ NGHIỆM CÔNG NGHỆ CHUYỂN GIỚI TÔM CÀNG XANH
(Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879) NHỜ VÀO NHIỆT ĐỘ
TESTING EFFECT OF TEMPERATURE ON TRANSSEXUAL
(Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879)
Saysamone DALAKHA M1, Phạm Quốc Hùng2, Bùi Thị Liên Hà3
Ngày nhận bài: 10/7/2013; Ngày phản biện thông qua: 23/8/2013; Ngày duyệt đăng: 10/12/2013
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá ảnh hưởng của nhiệt độ lên biến thái của ấu trùng và chuyển đổi giới tính tôm
càng xanh (Macrobrachium rosenbergii). Về biến thái của ấu trùng, thời gian kết thúc chuyển bột ở nghiệm thức đối chứng
dài nhất (32,25 ngày), kế tiếp tại nghiệm thức sốc nhiệt và nhiệt độ cao có thời gian ngắn hơn tương ứng là 26,75 ngày
và 24,75 ngày, thời gian bắt đầu chuyển tôm bột ở nghiệm thức đối chứng tại ngày thứ 23, nhiệt độ cao ngày thứ
17,25 và nghiệm thức về sốc nhiệt ngày thứ 28,25. Tỷ lệ biến thái thành tôm bột nghiệm thức đối chứng = 24,69%, sốc
nhiệt = 33,07% và nhiệt độ cao = 37,71%.
Kết quả thí nghiệm nuôi tôm bột 30 ngày về tỷ lệ sống có sự sai khác giữa nghiệm thức (nhiệt cao 0 ngày) NC0
(80,67%) với (sốc nhiệt 30 ngày) SN 30 (60,11 %) và nghiệm thức (nhiệt cao 30 ngày) NC30 (63,78 %). Theo kết quả của
thí nghiệm chuyển đổi giới tính đàn tôm càng xanh toàn đực thành còn cái giả bằng nhiệt độ cao và sốc nhiệt trong bài báo
này không có khả năng chuyển giới tính tôm càng xanh được như sau khi kiểm tra cho thấy đàn tôm trong các nghiệm thức
có tỷ lệ đực 100% không xuất hiện con cái.
Từ khóa: tôm càng xanh, chuyển giới tính, nhiệt độ
ABSTRACT
The aims of this study were to evaluate the effect of temperature on larval metamorphosis and transsexual of
Macrobrachium rosenbergii. The shock (SN) and high of temperature (NC) were applied as transsexual property of larval
and post larval of M. rosenbergii and the room temperature was use as control groups. The results showed that at the room
temperature could cause larval metamorphosis to be post larval longer time than shock and high temperature were 32.25,
26.75 and 24.75 days, respectively. For the survival due to the development of larval metamorphosis to be post larval
found that at the room temperature could show no signifi cantly different survival when compared with shock and high
temperature (24.69, 33.07 and 37.71%, respectively). After rearing post larvae in the SN and NC for 30 days found that the
post larvae were survived 60.11 and 63.78%, respectively. However, when post larvae of both SN and NC were reared in the
room temperature found that it could survive as high as 75.33 and 80.67%, respectively. This study investigated that shock
and high temperature was not shown to be effect of transexual of Macrobrachium rosenbergii.
Keywords: Macrobrachium rosenbergii, transsexual, temperature
1 Saysamone DALAKHAM: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2011 – Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Phạm Quốc Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang
3 KS. Bùi Thị Liên Hà: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
72 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiệt độ là một yếu tố môi trường xác định giới
tính đực và cái, trong cùng một sinh cảnh sự không
đồng đều của môi trường và các yếu tố môi trường
có tác dụng khác nhau lên sự phát triển để thành
đực và cái. Môi trường đó như là một cơ chế riêng
có khả năng lớn nhất quyết định đến giới tính của
loài đó trong tương lai. Chẳng hạn như: rùa tai đỏ
(Trachemys Scripta) là một loài mà giới tính được
xác định do yếu tố nhiệt độ, trong điều kiện nhiệt độ
ấm 31oC sẽ tạo ra tất cả con rùa đều là cái, trong khi
đó nhiệt độ lạnh 26 oC tạo ra tất cả đều là con đực và
nếu nhiệt độ trung bình giữa 29 oC đến 30 oC cho kết
quả khác nhau về tỷ lệ còn đực và cái [5]. Cho đến
nay, vẫn chưa có công bố chính thức nào nghiên
cứu về cơ chế ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ lên
việc biệt hoá giới tính của tôm càng xanh. Đối với
tôm càng xanh đã có nhiều phương pháp chuyển
đổi giới tính song kết quả chưa được cao. Vì vậy,
nhiệt độ có hay không khả năng chuyển đổi giới tính
tôm càng xanh vẫn chưa có một kết luận cuối cùng.
Chính vì các lý do trên đề tài “Thử nghiệm công
nghệ chuyển giới tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) nhờ vào nhiệt độ” được thực hiện.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm nghiên cứu tại:
Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt
Nam Bộ, Cái Bè, Tiền Giang, Viện NCNTTS II. Đối
tượng nghiên cứu: Tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbegii De Man 1879) cái giả.
Ấu trùng và tôm bột dùng để thí nghiệm có
nguồn gốc từ tôm cái giả (tôm đã chuyển đổi giới
tính bằng phương pháp vi phẫu loại bỏ tuyến đực)
và tôm đực bình thường.
2. Thí nghiệm ấu trùng
Được đưa vào bổ trí trong bể composit 100 L,
với mật độ thả 60 con/l ( 6.000 ấu trùng-bể), ấu
trùng được ương bằng phương pháp nước trong -
hở và chia ra làm 3 nghiệm thức: đối chứng
(28 - 300C), nhiệt độ cao (32 - 340C) và sốc nhiệt
(12 tiếng nhiệt độ đối chứng và 12 tiếng trong nhiệt
độ cao), mỗi thí nghiệm có 3 bể, 4 lần lặp lại và lấy
các số liệu như:
- Chỉ số các giai đoạn ấu trùng (Larvae
Stage Index).
- Thời gian bắt đầu chuyển tôm bột và kết thúc.
- Tỷ lệ biến thái thành tôm bột.
3. Thí nghiệm tôm bột
Sau khi toàn bộ ấu trùng đã chuyển thành tôm
bột, tôm sẽ được định số lượng 300 con/bể hay
300 con/m3 để thí nghiệm tiếp và chia bố trí vào các
nghiệm thức như: Nhóm tôm bột có nguồn từ ấu
trùng nhiệt độ cao và sốc nhiệt sẽ được chia thành 3
nghiệm thức: 0 ngày (sau khi chuyển bột nuôi trong
điều kiện nhiệt độ thường), 15 ngày (15 ngày nuôi
trong điều kiện sốc nhiệt, nhiệt độ cao và 15 ngày
nhiệt độ thường) và 30 ngày (sau khi chuyển bột
nuôi trong điều kiện nhiệt độ cao và sốc nhiệt 30
ngày) và nghiệm thức đối chứng được nuôi trong
điều kiện nhiệt độ thường, sau khi nuôi được 30
ngày lấy các số liệu như: Tỷ lệ sống giai đoạn post
30 và tỷ lệ đực cái.
4. Phân tích số liệu
Số liệu thu thập được phân tích bằng SPSS
16.0. Sử dụng phân tích tương quan ở mức P<0,05.
Số liệ u được trì nh bà y dướ i dạ ng: giá trị trung bì nh
± sai số chuẩ n hoặc độ lệch chuẩn.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Kết quả ương nuôi ấu trùng trong các nghiệm
thức: nhiệt độ thường (đối chứng), sốc nhiệt,
nhiệt độ cao
Kết quả biến thái ấu trùng tôm càng xanh: Chỉ
số các giai đoạn ấu trùng (LSI).
Hình 1. Đồ thị chỉ số các giai đoạn phát triển ấu trùng (LSI)
của tôm càng xanh
Theo hình 1 về chỉ số các giai đoạn của ấu trùng
(LSI) cho biết rằng sự biến thái của ấu trùng từ giai
đoạn 1 đến khoảng giai đoạn 6 các nghiệm thức: đối
chứng, sốc nhiệt và nhiệt độ cao chưa có sự khác
nhiều về LSI, trong giai đoạn này cả 3 nghiệm thức
có tốc độ tăng về LSI nhanh nhất mất khoảng 6 đến
7 ngày, từ giai đoạn 6 đến giai đoạn 11 tốc độ tăng
của LSI đã tăng chậm đi so với các giai đoạn trước
và nghiệm thức về sốc nhiệt, nhiệt độ cao LSI có xu
hướng tăng nhanh hơn nghiệm thức đối chứng như:
nghiệm thức sốc nhiệt và nhiệt độ cao thời gian
khoảng ngày thứ 20-21 đạt tới giai đoạn thứ 11, còn
nghiệm thức đối chứng mất khoảng ngày thứ 27, từ
giai đoạn 11 trở đi đến kết thúc chuyển bột sự tăng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 73
của LSI chậm nhất ở tất cả các nghiệm thức trong
đó nghiệm thức đối chứng kéo dài tới ngày thứ 35
nhiều hơn so với nghiệm thức sốc nhiệt 30 ngày và
nhiệt độ cao 28 ngày.
Khi so sánh kết quả thí nghiệm này với kết quả
của Nguyễn Việt Thắng (1993) [1] nghiên cứu về
chỉ số các giai đoạn phát triển của ấu trùng trong
quá trình phát triển ở nhiệt độ 28-29oC: LSI = 4,74 ở
ngày thứ 9, LSI = 9,97 ở ngày thứ 16 và LSI = 10,91
ở ngày thứ 20 trong khi đó ở thí nghiệm này ngày
thứ 9 các nghiệm thức đã có LSI cao hơn như: LSI
thấp nhất = 5,94 (nghiệm thức đối chứng) và cao
nhất là 6,33 (nhiệt độ cao), ngày thứ 16 có LSI thấp
hơn như LSI cao nhất là 9,03 (nhiệt độ cao) và đến
ngày thứ 20 chỉ có nghiệm thức về nhiệt độ cao LSI
= 10,88 tương đồng với kết quả trên. Nghiệm thức
về sốc nhiệt và đối chứng thì có LSI thấp hơn (10,58
và 8,93).
2. Thời gian phát triển thành tôm bột của ấu
trùng tôm càng xanh
26-300C. Còn về thời gian phát triển của ấu trùng
chuyển tôm bột, nhiều tác giả đã có kết quả khác
nhau như: Theo Nandlal và Pickering (2005) [6], ấu
trùng phát triển qua 11 giai đoạn thành tôm bột thời
gian khoảng 22-35 ngày (28-300C), còn theo Charles
và Pierce (2011) [4] 15-40 ngày là khoảng ngày
chuyển ấu trùng thành tôm bột. Ngô Sĩ Vân (2002)
cho rằng quá trình biến thái của ấu trùng thành
tôm bột trải qua 11 giai đoạn khoảng 35-40 ngày
tùy thuộc vào nhiệt độ nước còn Uno và Soo (1969)
[10] nhận định rằng thời gian từ 30-45 ngày phụ
thuộc vào nhiệt độ.
Như vậy khi so sánh với các nghiên cứu trước
cho thấy trong điều kiện nhiệt độ bình thường
(28,50C - 30,030C) thời gian chuyển thành tôm bột
của ấu trùng sẽ kéo dài hơn so với nghiệm thức sốc
nhiệt (nhiệt độ khoảng 29,44 - 33,130C) và nhiệt độ
cao (nhiệt độ khoảng 32,7 - 33,410C) do mức của
nhiệt độ cao hơn. Như vậy, với nhiệt độ cao hơn thì
thời gian chuyển tôm bột sẽ ngắn hơn [11].
3. Tỷ lệ sống (TLS) ấu trùng tôm càng xanh
Hình 2. Thời gian ương ấu trùng đến kết thúc chuyển bột,
thời gian bắt đầu chuyển tôm bột
Các chữ cái a,b chỉ sự sai khác của thời gian ương ấu trùng đến kết thúc chuyển bột
P<0,05
Hình 2 cho thấy thời gian (ngày) sử dụng trong
quá trình ương ấu trùng đến kết thúc chuyển bột có
sự khác nhau (P<0,05) trong đó nghiệm thức đối
chứng được sử dụng thời gian dài nhất (32,25 ngày),
kế tiếp tại nghiệm thức sốc nhiệt và nhiệt độ cao
có thời gian ngắn hơn tương ứng 26,75 ngày và
24,75 ngày. Ngoài ra về thời gian bắt đầu chuyển
tôm bột cũng có sự khác nhau (P<0,05) của nghiệm
thức đối chứng (ngày thứ 23) là chậm hơn nhiệt độ
cao (ngày thứ 17,25) và nghiệm thức về sốc nhiệt
(ngày thứ 28,25). Theo Abramo và ctv (2003) [3] cho
rằng trong quá trình ương ấu trùng tôm càng xanh
khoảng ngày 20 sẽ bắt đầu có tôm bột (28-30oC) và
Nguyễn Việt Thắng (1993)[1] đã thí nghiệm về mật
độ ương ấu trùng (40, 60, 80, 100 và 120 con/l) thời
gian bắt đầu chuyển tôm bột nhanh nhất khoảng
19-23 ngày (mật độ 60 con/l) tại điều kiện nhiệt độ
Hình 3. Tỷ lệ sống (TLS) (%) của ấu trùng tôm càng xanh
tại các nghiệm thức
Kết quả về tỷ lệ sống của ấu trùng chuyển
tôm bột không có sự khác nhau như: nghiệm
thức đối chứng = 24,69%, sốc nhiệt = 33,07%
và nhiệt độ cao = 37,71% mà thí nghiệm nhiệt
độ cao có ngưỡng có tỷ lệ chuyển bột cao hơn.
Nandlal và Pickering (2005) [6] tỷ lệ sống của ấu
trùng chuyển thành tôm bột có thể khá rộng từ
10 - 80% (28 - 300C) [6], Abramo và ctv (2003) [3]
tỷ lệ chuyển ấu trùng thành bôm bột có khoảng
25 - 33% (28 - 300C) và Nguyễn Việt Thắng (1993)
[1] đã thí nghiệm về mật độ ương ấu trùng, có tỷ
lệ sống cao là 43% (mật độ 60 con/l) và thấp nhất
18,5% (mật độ 120 con/l). Ngoài ra ông còn thí
nghiệm về thức ăn ương ấu trùng chính là Artemia
salina và các loại thức ăn bổ sung khác nhau cho
thấy: tỷ lệ sống khác nhau cao 28,6% (thức ăn
chế biến) và tỷ lệ sống thấp nhất là 10,8% (lòng
đỏ trứng gà) (26 - 300C).
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
74 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
4. Kết quả ương nuôi tôm bột trong các nghiệm
thức: nhiệt độ thường (đối chứng), sốc nhiệt,
nhiệt độ cao
Hình 4. Tỷ lệ sống (%) của tôm bột tôm càng xanh tại các
nghiệm thức
Các chữ cái a, b chỉ sự sai khác của tỷ lệ sống của tôm bột 30 ngày.
BT(Nhiệt đô bình thường), SN0 (Sốc nhiệt 0 ngày), SN15 (Sốc nhiệt 15 ngày), SN30
(Sốc nhiệt 30 ngày), NC0 (Nhiệt độ cao 0 ngày), NC15 (Nhiệt độ cao15 ngày) và
NC30 (Nhiệt độ cao 30 ngày).
Tỷ lệ sống của thí nghiệm về tôm bột này đã có
sự sai khác giữa các nghiệm thức NC0 (80,67%)
với SN30 (60,11%) và nghiệm thức NC30 (63,78%)
ngoài ra các thí nghiệm còn lại không có sự sai
khác với nghiệm thức NC0, SN30 và nghiệm thức
NC30. Abramo và ctv (2003) [3] cho rằng tỷ lệ
sống trong giai đoạn nuôi tôm bột khoảng 40-80%
(28-300C), New Micheal B. (2002) [7] cho kết quả khi
tôm bột trong 20 ngày (27-300C) có tỷ lệ sống cao
khoảng 90%, còn theo tổng hợp của nhiều tác giả tỷ
lệ sống nuôi tôm bột trong điều kiện nhiệt độ thường
(27-300C) nếu được 20 ngày trên 80% và 30 ngày
trên 70%. Khi so sánh về tỷ lệ sống của tôm bột nuôi
30 ngày trong thí nghiệm này với thí nghiệm khác
trong điều kiện nhiệt độ bình thường cũng không
có sự sai khác nhiều mà có 2 nghiệm thức về sốc
nhiệt 30 ngày (SN30) và nghiệm thức nhiệt độ cao
30 ngày (NC30) có tỷ lệ sống khá thấp. Điều này
cho thấy, khi nuôi trong nhiệt độ cao TLS tôm bột sẽ
thấp hơn với nhiệt độ thường.
Kết quả tỉ lệ đực cái
Bảng 1. Tỉ lệ đực/ cái tại các nghiệm thức
Nghiệm thức
Chỉ tiêu
Tôm bột
nhiệt độ đối
ch ứng
Tôm bột có nguồn từ
ấu trùng sốc nhiệt
Tôm bột có nguồn từ
ấu trùng nhiệt độ cao
(ĐC) (SN0) (SN15) (SN30) (NC0) (NC15) (NC30)
Tỷ lệ đực/cái(%) 100/0 100/0 100/0 100/0 100/0 100/0 100/0
Sau khi thí nghiệm về ảnh hưởng của nhiệt độ
(sốc nhiệt và nhiệt độ cao) để chuyển đổi giới tính
của đàn tôm càng xanh toàn đực từ giai đoạn ấu
trùng đến tôm bột 30 ngày (PL30) lần này không có
khả năng chuyển giới tính được. Điều này có thể
giải thích là do tôm càng xanh là một loài giáp xác
thuộc bộ mười chân (Decapoda) việc tạo tinh trùng
và nội tiết (tiết testosterone) được thực hiện bởi hai
cơ quan riêng biệt. Tinh sào là nơi tạo ra tinh trùng,
còn tuyến sinh dục có chức năng tiết ra hormone
góp phần tham gia vào quá trình biệt hoá giới tính
và phát triển những đặc điểm sinh dục thứ cấp cũng
như ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm.
Các thí nghiệm được trình bày ở phần trên về việc
loại bỏ tuyến đực cũng như cấy tuyến đực vào tôm
cái đã minh chứng rõ ràng về vai trò của tuyến đực
trong sự xác định giới tính của tôm càng xanh [8,9].
Ở con đực, tuyến đực kiểm soát quá trình sinh sản
của giáp xác. Sự bắt đầu, hoàn thành và tập trung
hoạt động sinh tinh được kiểm soát bởi sự tuần
hoàn của hormone tuyến đực trong máu và hoạt
động sinh tinh chỉ xảy ra khi tuyến đực phát triển
đầy đủ [11]. Như vậy do các thí nghiệm không có
tác dụng đến chức năng và sự phát triển của tuyến
sinh dục đực của tôm.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Về biến thái của ấu trùng, thời gian kết thúc chuyển
bột ở nghiệm thức đối chứng dài nhất (32,25 ngày),
kế tiếp tại nghiệm thức sốc nhiệt và nhiệt độ cao
có thời gian ngắn hơn tương ứng là 26,75 ngày
và 24,75 ngày, thời gian bắt đầu chuyển tôm bột ở
nghiệm thức đối chứng tại ngày thứ 23, nhiệt độ cao
ngày thứ 17,25 và nghiệm thức về sốc nhiệt ngày
thứ 28,25. Tỷ lệ biến thái thành tôm bột nghiệm thức
đối chứng = 24,69%, sốc nhiệt = 33,07% và nhiệt độ
cao = 37,71%.
Kết quả thí nghiệm nuôi tôm bột 30 ngày về tỷ
lệ sống có sự khác nhau giữa nghiệm thức NC0
(80,67%) với SN30 (60,11%) và nghiệm thức NC30
(63,78%). Theo kết quả của thí nghiệm trong bài
báo này nhằm chuyển đổi giới tính đàn tôm càng
xanh toàn đực thành con cái giả bằng nhiệt độ cao
và sốc nhiệt cho thấy: không có khả năng chuyển
giới tính tôm càng xanh. Sau khi kiểm tra cho thấy
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 75
đàn tôm trong các nghiệm thức có tỷ lệ đực 100%
không xuất hiện con cái.
2. Kiến nghị
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy ấu trùng tôm
càng xanh có khả năng phát triển được tốt trong
điều kiện nhiệt độ cao, nên tiếp tục nghiên cứu áp
dụng vào trong quá trình ương.
Trong thí nghiệm về nhiệt độ lần này đã thực
hiện từ giai đoạn tôm ấu trùng đến tôm bột 30 ngày,
nên tiếp tục thí nghiệm thêm trong giai đoạn khác
như: các giai đoạn phát triển của phôi. Sau đó mới
tiếp tục thí nghiệm với phương pháp khác như siêu
âm và các hormone
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Việt Thắng, 1993. Một số đặc điểm sinh học và sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii de Man)
ở Đồng bằng Nam Bộ. Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp. Trường Đại học Thủy sản Nha Trang.
2. Ngô Sĩ Vân, 2002. Kỹ thuật sản xuất giống, nuôi thương phẩm và quản lý trạm tôm càng xanh ở miền bắc Việt Nam. NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
Tiếng Anh
3. Abramo L. R. D, Ohs C. L, Fondren M. W, Steeby J. A and Posadas B. C, 2003. Culture of Freshwater Prawns in Temperate
Climates: Management Practices and Economics. Mississippi Agricultural & Forestry Experiment Station, bulletin 1138:
10-11.
4. Charles E., Pierce, R.A., 2011. Fre shwater Prawn Production in Missouri, aquaculture guide. University of MISSOURI.
5. Charnove. L., Bull J.J. , 1977. When is sex environmentally Determined. Nature 266: 828–830.
6. Nandlal,S and Pickering,T, 2005. Freshwater Prawn Macrobrachium rosenbergii farming in Pacifi c Island countries. Hatchery
Operation Volume 1: 6,10.
7. New Micheal B., 2002. Farming freshwater prawns, manual for the culture of the giant river prawn (Macrobrach ium
rosenbergii). FAO Fisheries Technical Paper 428: 96.
8. Sagi A., Ra’anan Z., Cohen, D., Wax Y., 1989. Production of Macrobrachium rosenbergii in monosex populaion: yeild
characteristics under intensive monoculture coditions in cages. Aquacul ture Research. 51: 265-275.
9. Sandifer, P.A., Sminth T.I.J., 1978. Intensive rearing of postlarval Malaysian prawns in controlled environments. Food
Technology 32(7): 12-18.
10. Uno, Y and Soo K.C, 1969. Larval develo pment of Macrobrachium rosenbergii reared in the laboratory. Journal of the Tokyo
University of Fisheries, 55(2): 179-190.
11. Wibbels, T and Crews.D., 19 92. Specifi city of steroid hormone-induced sex determination in a turtle. J Endocrinol 133:
121-129.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thu_nghiem_cong_nghe_chuyen_gioi_tom_cang_xanh_macrobrachium.pdf