Thu hút giữ chân phát triển doanhnghiệp

Thu hút giữ chân phát triển doanh nghiệp Mỗi địa phương thực thi các chức năng kinh tế cụ thể. Một số địa phương đã đa dạng hóa nền kinh tế của mình trong khi một số khác thì bị khống chế bởi một ngành duy nhất. Có địa phương là trung tâm dịch vụ và số khác là các cộng đồng nông nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế của một địa phương không nhất thiết phải bị gò bó trong những giới hạn kinh tế. Internet và những hiệp ước giữa các quốc gia châu Á để biến nơi đây thành Khu vực thương mại tự do đã mang lại cơ hội chưa từng có cho địa phương dù với bất cứ qui mô nào và đang ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào. Thật vậy, với thị trường châu Á khổng lồ bao trùm 40 nước châu Á Thái Bình Dương, dân số tổng cộng 3,275 tỉ người – thì địa phương nhỏ nhất cũng có thể phát triển kinh doanh trên thị trường quốc tế và khu vực với ngày càng ít rào cản hành chính hơn. Thông qua thấu kính xuyên biên giới châu Á, chúng ta có thể nhận biết một cách khả quan hơn cách thức hoạt động của một địa phương trong môi trường quốc tế.

pdf7 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1963 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thu hút giữ chân phát triển doanhnghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 5. NHÀ CỬA - KIẾN TRÚC Đối với người làm nông nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm, với các chức năng: chức năng cư trú, chức năng xã hội và chức năng kinh tế. Người Việt khẳng định: có an cư thì mới lạc nghiệp, và nhất dương cơ nhì âm phần là vậy. I. NHÀ CỬA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG Quy mô, kết cấu và hình thức của ngôi nhà nhìn chung nhỏ bé, đơn sơ và mang tính tôn ti. Nguyên nhân: do luật pháp nhà nước phong kiến quy định, đồng thời còn là do môi trường tự nhiên của Việt Nam quy định. 1. Nhà của người Việt/ Kinh Nhà của người Việt / kinh xây dựng trên những miền có địa hình và khí hậu khác nhau sẽ có những khác biệt để thích ứng với môi trường sống. Nhà cửa vùng đồng bằng miền Bắc chau chuốt, trang nhã nhưng không kém phần vững chắc và duyên dáng hơn các vùng khác. Ngôi nhà gắn bó với thiên nhiên, tạo cảm giá gần gũi giữa con người với môi trường tự nhiên. Nhà cửa của người Việt ở những nơi đầu sóng ngọn gió, hàng năm phải chịu sự chà sát của bão gió liên tục, như các tỉnh từ Quảng Ninh xuống Thái Bình, thì căn nhà phải thu mình gọn, bám chặt vào đất, nên ngôi nhà đã giảm đi sự trang trí thanh thoát trang nhã mà chỉ giữ lại những gì thật cần thiết, đảm bảo tránh gió bão từ miền đông vào. Ngôi nhà vùng này đặc biệt chú ý đến sự gia cố phần khung và mái nhà để trụ được trước gió bão. Toàn bộ ngôi nhà tạo sự vững chắc về chiều ngang nên nó như lùn xuống, ì ra chắc nịch. Còn nhà ở miền trung, nơi rất gần biển thì các tiêu chuẩn phải đạt tới là giản dị, chắc chắn. Nhà ở vùng Nam Bộ, một vùng đất trẻ / mới, đất rộng người thưa, sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, vật liệu xây nhà là những thứ có sẵn trong vùng như cây tràm, cây đước, lá buông, lá dừa, vừa có khả năng chịu mặn vừa linh hoạt. Nhìn chung nhà cửa có vẻ tạm bợ so với các vùng miền khác. Tóm lại, nhà cửa của cư dân Việt từ truyền thống cho đến hiện đại, từ đồng bằng cho đến ven biển, từ Bắc vào Nam có sự phát triển với những sắc thái riêng song vẫn nằm trong phạm trù dân gian với ý thức thích ứng tốt nhất với môi trường tự nhiên, nên cũng cho nhiều bài học quý giá trong việc xây dựng một nền kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc. 2. Nhà của các dân tộc khác. Ngoài tộc Việt, Việt Nam còn có 53 dân tộc anh em sinh sống trên vùng lãnh thổ Việt Nam, trong số đó, nhiều dân tộc đã đạt được trình độ kỹ thuật trong việc xây dựng nhà cửa, góp phần làm nên bản sắc của tộc người. Nhà cửa của các dân tộc ít người nhìn chung có xu hướng vươn cao và xoè rộng nhằm thích ứng với môi trường rừng núi nhiều khí ẩm, thú dữ. Do đó ngôi nhà ở thích hợp là nhà sàn - căn nhà có khả năng khai thác được nhiều thuận lợi cũng như khắc phục được nhiều khó khăn do môi trường tự nhiên tác động. 2.1. Nhà dân tộc Mường Nhà người Mường truyền thống là nhà sàn, với khung nhà làm bằng gỗ hoặc tre, mái lợp cỏ tranh hoặc lợp nứa hay lá cọ. Vách nhà được thưng bằng ván gỗ hoặc bằng phên nứa đan lại. Khung nhà được giữ chắc do có lắp một cái cựa gà (nét đặc biệt của nhà sàn Mường) nhằm khoá kèo kẹp chặt chiếc đòn tay ở phía trên đầu cột cái vào quá giang. Trong nhà chia làm hai nửa theo chiều ngang, phần nhà ngoài, nơi giành cho nam giới, nơi tiếp khách và cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, thuộc nửa bên trái; phần nhà trong - nửa bên phải có bếp giành cho nữ. Dọc theo nhà thì phía trước gọi là bên dưới, phía sau gọi là bên trên - nơi có bàn thờ. Các sinh hoạt trong nhà đều diễn ra trên sàn. Dưới gầm sàn là chuồng gia súc và để các công cụ sản xuất. Nhà có hàng rào và cửa ngõ. Ngày nay, người Mường có xu hướng chuyển từ nhà sàn sang nhà trệt. Còn những ngôi nhà sàn truyền thống cũng rời chuồng gia súc ra khỏi gầm sàn. 2.2. Nhà dân tộc Thái Nhà sàn Thái là một công trình kiến trúc mang nét đẹp rất riêng của người Thái. Hướng nhà thường là hướng của cả bản. Đó là hướng của cộng đồng nguời sống, gắn với nguyện vọng về cuộc sống no đủ, bình an, đoàn kết của cộng đồng ngươì Thái. Nhà sàn Thái có hai loại, gắn với hai nhóm tộc người là Thái trắng và Thái đen. Người Thái trắng có nhà sàn 'khai điêng', người Thái đen có nhà sàn 'phăng đin'. Hai kiểu nhà này có những đặc điểm chung là: nhà có bốn mái. Ngoài mái trên và mái dưới ở phía trước và phía sau có hình chữ nhật, còn lại hai mái ở hai đầu hồi che cho gian đầu và thân sàn. Bốn mái gặp nhau ở các kèo góc tạo ra một đầu hồi, gọi là hang con mèo (hông meo) làm chỗ cho hồn người chết bay lên trời. Nhà sàn truyền thống có mái nhà giống như mai con rùa hoặc chiếc thuyền úp. Trên mái nhà, ở hai đầu hồi có 'khau cút' vút cao, vừa mang dấu ấn dân tộc, vừa cho biết vị trí xã hội của chủ nhà, đồng thời cũng là nẹp giữ cho đầu hôid khỏi bị tốc. Nhìn trên đại thể, nhà sàn Thái có hình con rùa đứng rụt cổ, các chân rướn thẳng, phù hợp với truyền thuyết của người Thái rằng rùa đã lấy thân mình làm mẫu cho người học làm nhà. Sự trang trí các bộ phận của nhà như mái nhà, thân nhà, cầu thang, đều mang hơi thở và dấu ấn cảnh quan núi rừng và trình độ nghệ thuật của người Thái, xứng đáng là tác phẩm nghệ thuật dân gian. 2.3. Nhà dân tộc Chàm (Chăm) Theo tập quán, làng Chàm được lập trên vùng đất có núi ở phía nam, sông ở phía bắc, có gờ cao phía tây và thoải dần về phía đông. Người Chàm dựng nhà trong một khuôn viên hình chữ nhật, gắn bó với cộng đồng làng. Trong mỗi khuôn viên của gia đình Chàm có đủ bốn ngôi nhà: nhà tục (Thang dơ), nhà cặp đôi (thang mơ- dâu), nhà bếp (thang gìn) và nhà kho (thang tôn). Một số gia đình còn có thêm nhà ngang (thang cần) và nhà lớn (thang pì - nài). Nhà tục là ngôi nhà truyền thống được xây dựng trước tiên trong khuôn viên, gồm ba gian dựng gần góc đông bắc, hướng nhà là hồi phía trước và phải có cửa sinh nhìn về phía tây và của tử hướng nam để khi nhà có tang thì rước xác người chết ra bằng cửa này. Thước để dựng nhà là chiều dài từ khuỷ đến mút ngón tay giữa của ông chủ ngôi nhà. Gỗ làm nhà tục không xẻ, các cấu kiện lắp ghép bằng cách buộc dây rừng. Nhà tục sẽ được nhường cho con gái đầu khi có chồng. Nhà bếp ở góc tây bắc, kiểu thức theo nhà tục nhưng quy mô nhỏ hơn, cửa nhà bếp nhìn thẳng vào cửa sinh nhà tục. Nhà kho dựng ở phía tây khuôn viên, bé nhỏ như cái chòi nhưng sàn rất cao để chứa lương thực và đồ dùng vặt. Nếu có nhà ngang thì nhà ngang dựng trước nhà tục nhưng xoay ngang thước thợ với nhà tục, rộng hai gian một chái để chứa đồ vặt và xay thóc giã gạo. Riêng nhà lớn thì chỉ những gia đình khá giả mới có, có cửa trước nhìn về hướng nam, hướng cửa tử, nên chỉ người già mới được ở. Kiểu dáng nhà ngang giống nhà của người Việt. Nhìn chung, những kiểu nhà truyền thống của người Chàm có quy định nghiêm ngặt nhưng đơn giản và kỹ thuật còn nguyên thuỷ. Trái lại, những toà tháp Chàm từ nhiều thế kỷ trước để lại lại được xây dựng ở trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao. Mỗi khu tháp Chàm là một đài kỷ niệm tôn giáo hoặc vua chúa anh hùng của vương quốc được xây dựng trên đồi cao, mở cửa về hướng đông - hướng của sự sống mà cúng là hướng của thần thánh theo quan niệm của người Chàm. Mỗi khu tháp là một quần thể kiến trúc, điêu khắc, trong đó có một cây tháp chính to, cao hơn cả xây ở giữa, xung quanh có nhiều kiến trúc phụ. Các tháp xây trên mặt bằng gần như vuông, ba phía có cửa giả, chỉ phía đông có cửa ra vào, tường tháp dày, lòng tháp rỗng lên cao thu lại rồi bít kín. Vật thờ trong tháp có thể là tượng thần, chân dung quốc vương hoặc linga bằng đá. Vật liệu xây tháp là gạch, trong và ngoài đều chín đỏ thẫm, không thấy mạch kết dính nhưng kết dính rất chặt. Trang trí mặt ngoài tháp là phù điêu bằng đá, hoặc được chạm trực tiếp trên mặt gạch thành những tác phẩm nghệ thuật quyến rũ và đậm màu sắc Chàm. 2.4. Nhà dài dân tộc Ê Đê Cơ sở dẫn đến sự ra đời của các ngôi nhà dài là các gia đình lớn mẫu hệ. Ngôi nhà dài Ê Đê là nhà sàn, khung tre gỗ, mái lợp nhọn lợp tranh. Bộ khung nhà dài chỉ có cột, dầm, quá giang, xà dọc, mà không có kèo. Ngôi nhà dài Ê Đê có hình dạng giống nhà hình thuyền trên các trống đồng Đông Sơn, khiến có nhà nghiên cứu đã liên hệ và đưa ra giả thuyết về mối liên hệ của tổ tiên người Ê Đê xa xưa với biển, với cư dân vùng Nam Đảo. Không gian trong ngôi nhà dài được chia làm hai phần- phần nhà ngoài (gah) ở phía bắc và phần nhà trong (ôk) ở phía nam. Chức năng phần nhà ngoài: tiếp khách, tiến hành các nghi lễ phong tục, tổ chức các sinh hoạt công cộng của đại gia đình mẫu hệ, có khi còn là chỗ ăn ở của những người đàn ông chưa vợ. Ngoài ra ở nhà ngoài còn bày những 'ghế khách', 'ghế trống' giành cho nhạc công; chiêng, trống, những vò rượu cần, những vũ khí, những xương đầu thú săn được hay gia súc làm lễ hiến sinh. Mỗi cột trong ngôi nhà gắn với một phương và một đối tượng. Đó là các cột: cột chủ (phía đông), cột trống (phía tây); trong bộ vì có cột khách (cột phía đông) và cột chiêng (cột phía tây). Trang trí chạm khắc phần nhà ngoài rất đẹp, thể hiện dấu ấn mẫu hệ rõ nét. Phần nhà trong được ngăn ra thành từng phòng nhỏ dành cho các cặp vợ chồng. Bếp nấu ăn chung được làm trước cửa buồng ngủ chủ gia đình. Các cặp vợ chồng ăn riêng thì có bếp nhỏ trước buồng mình. Phía sau nhà dài là kho lúa. 2.5. Nhà rông Tây Nguyên Nhà rông là ngôi nhà chung của cả buôn làng, có giá trị nghệ thuật cao về kiến trúc, là một biểu tượng của mỗi buôn làng Tây Nguyên. Quy mô nhà Rông to lớn với kiểu thức độc đáo chỉ có ở Tây Nguyên. Vật liệu làm nhà là vật liệu được kiếm tại chỗ, tạo nên bộ khung gỗ, vách ván, và mái tranh như nhà dân. Giữa các ngôi nhà đơn sơ của dân làng, nhà rông nổi bật lên sừng sững với bộ mái vươn cao dựng đứng như lưỡi rìu sắc bén lật ngược chọc lên trời. Hai mái đầu hồi hình tam giác cân nhọn vút, góc ở đỉnh rất hẹp; hai mặt trước và sau gần giống hình thang cân; cạnh bên cong lõm, bờ nóc hơi vồng lên ở giữa. Cạnh mái chạy bốn xung quanh nhà rông được cắt xén rất bằng, mặt mái lợp tranh mịn, mượt óng, ngà vàng, phần trên cùng của mái cài thành những băng hoạ tiết trang trí to chắc. trên bờ nóc cũng có trang trí. Trước nhà rông là một sàn gỗ không mái tạo thành một tiền sảnh rộng, hai bên mặt trước sàn có hai trụ gỗ chấn hai bên cầu thang. Cầu thang là cả một đoạn thân cây gỗ đẽo bảy bậc, lên tận cùng được vuốt uốn cong trang nhã. Nhà rông chỉ ba gian nhưng do các cột đều lẩn ra giáp vách nên tạo thành một không gian thông thống. Trong nhà, nhiều bếp lửa xếp thành hàng và luôn luôn đượm khói; có các khu vực để chiêng, trống, có nơi để treo vũ khí và những bộ xương, da thú rừng; trên phên vách giắt các loại lông chim đẹp và sừng thú quý - sản phẩm săn bắn của dân làng. Cùng tính chất như nhà rông là nhà gươi của dân tộc Cơ Tu. 2.6. Nhà mả (mồ) Tây Nguyên Làm nhà mả /mồ của một số dân tộc Tây Nguyên, tiêu biểu là người Ba Na, người Gia Rai, và người Ê Đê là một việc làm lớn, quan trọng. Cơ sở dẫn đến việc làm nhà mồ là từ niềm tin của các dân tộc rằngngưòi chết sẽ vĩnh viễn đi về thế giới của mình ở rất xa, không còn liên qua gì đến người sống nữa. Nhưng khi còn sống, họ đã gắn bó mật thiết với gia đình và cộng đồng, nên khi mới chết, người sống lưu luyến và thương tiếc họ, cho họ tạm trú trong nhà mả ở nghĩa địa phía tây của làng một thời gian để chăm sóc người chết một lần cuối. Sau thời gian đó, đồng bào làm lễ 'bỏ mả' để trả người chết về với tự nhiên, không còn cúng theo nghi lễ thờ phụng tổ tiên. Nhà mả chỉ có một gian. Mỗi nhà mả là một tổng thể kiến trúc - điêu khắc - trang trí, bố trí trên một mặt bằng rộng chừng 50m2, theo hướng đông - tây - hướng quy định cho người chết. Người ta tin rằng với nhà mả đẹp và đầy đủ tiện nghi, người chết sẽ an tâm và vui vẻ ra đi mà không trở lại quấy rầy người sống. Tổng thể nhà mả thể hiện tình cảm nhân đạo của cộng đồng, gia đình giành cho người chết. II. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA KIẾN TRÚC DÂN GIAN TRUYỀN THỐNG 1. Khai thác vật tư tại chỗ, sơ chế đơn giản mà hiệu quả cao Nhà cửa của người Việt Nam dù nhà tranh hay nhà ngói thì vật liệu xây dựng đều là vật liệu sẵn có trong thiên nhiên. Kiến trúc nhà linh hoạt, chú trọng nhất là bộ khung nhà sau đó là mái che, nên vật liệu làm những bộ phận này đều phải qua sơ chế để tăng độ bền của ngôi nhà. Ngôi nhà không cần đến sự tham gia của kim loại. Khi cần đóng đinh cho một vài bộ phận, người ta dùng tre già vót nhọn giống đinh sắt; khi cần tháo dễ dàng và không bị han rỉ. 2. Khai thác và chế ngự thiên nhiên Khai thác vật liệu làm nhà từ trong thiên nhiên, sơ chế theo kỹ thuật và kinh nghiệm, đó cũng là bước chế ngự thiên nhiên. Chế ngự thiên nhiên còn thể hiện ở chỗ phải thích ứng với khí hậu của thiên nhiên - vừa khai thác tối ưu mặt thuận lợi cũng như hạn chế được nhiều mặt thiệt hại từ thiên nhiên. điều này trước hết thể hiện ở cấu trúc ngôi nhà. Tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu trúc là nhà cao, cửa rộng. Ngoài ra còn phải tuân theo những quy định mang tính kiêng cữ. Một số kiêng cữ phổ biến như xem tuổi chủ nhà, chọn đất và hướng nhà (Lấy vợ hiền hoà / Làm nhà hướng nam)..., những kiêng cữ khi chọn vật liệu, những lễ thức từ lúc khởi công cho đến khi vào nhà, tuy mang màu sắc tín ngưỡng nhưng thể óc thẩm mỹ và nguyện vọng về cuộc sống bình an, no đủ của người Việt Nam trong ngôi nhà. 3. Cách thức kiến trúc Được thể hiện bằng cây thước tầm. Đó là một thân tra bổ đôi, dài hơn chiều cao của cột cái, trong lòng máng vạch những ký hiệu cho phép xác định kích thước của các bộ phận ngôi nhà. Thước tầm được cấu tạo dùng chung cho mọi nhà nhưng thước nhà nào chỉ nhà ấy dùng, bởi kích thước được tính bằng đốt ngón gốc ngón tay út của chủ nhà. Do đó, thuóc tầm còn là vật xác định quyền sở hữu ngôi nhà của chủ nhân. Chính vì vậy, nó được gìn giữ cho đến hết đời ngôi nhà. 4. Kiến trúc là cả một tổng thể Ngôi nhà của người Việt Nam có sự cân đối giữa kiến trúc với môi trường xung quanh. Một kiến trúc đầy đủ, lý tưởng phải là ''nhà trên ao dưới'', ''nhà trước vườn sau'', ''nhà có bụi chuối đằng sau, rặng cau đằng trước'', ''có sự gắn bó nhà ngói cây mít''. Nhà có địa trạch ăn mạch với địa thế để cuộc sống yên vui. Tuỳ vào thổ cư rộng hay hẹp mà thiên nhiên xung quanh nhà được sắp xếp hợp lý ''thuận mắt'', vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị thẩm mỹ. làm cho ngôi nhà trở thành một bộ phận nổi bật của thiên nhiên, tất cả gắn bó với nhau để phục vụ con người ở mức cao nhất. Ngôi nhà của người Việt được bố trí theo chiều ngang, xung quanh thông thoáng, người trong nhà luôn thấy gần gũi với ngoại cảnh. Và không thể thiếu trong mỗi gia đình là bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất và thiêng liêng nhất, mà mọi hoạt động đều lấy đó làm trung tâm. Ngôi nhà của người Việt còn mang ý nghĩa xã hội, phản ánh một quan niệm thẩm mỹ trong nếp sống nông thôn và xã hội nông nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThu hút giữ chân phát triển doanhnghiệp.pdf
Tài liệu liên quan