LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm (từ 1979 đến nay) thực hiện chính sách cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú ý của cả thế giới. Kim ngạch ngoại thương hai chiều của Trung Quốc đã tăng từ 28 tỷ USD năm 1982 lên 510 tỷ USD năm 2001. Năm 2001, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu đứng thứ bẩy thế giới (266,3 tỷ USD) và là nước nhập khẩu đứng thứ 8 trên thế giới (243,7 tỷ USD). Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt. Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc.
Một trong những yếu tố tạo nền sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thậm chí đã vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2002 với 52,7 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành động lực của sự phát triển kinh tế Trung Quốc và chính nó là yếu tố then chốt để nước này thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó là cơ sở chủ yếu để Trung Quốc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp, khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu là chính sang thành nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất nước Trung Quốc đã thay da đổi thịt. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được ví như một hành tinh chết, không sinh sôi, không nảy nở, phát triển thì sau 20 năm mở cửa, một đất nước Trung Quốc lớn mạnh đang hình thành, tạo nên một trong những “điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”.
105 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3500 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thu hút fdi tại trung quốc và kinh nghiệm với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hìn chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
trong các năm 2000 và 2001 đã cho thấy tín hiệu khả quan hơn.
Nếu theo số liệu vốn đăng ký thì quy mô dự án bình quân của thời kỳ
1988 - 2001 là 11,44 triệu USD/1 dự án, là không thấp nếu so với một số nước
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
79
ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên,
điểm đáng lưu ý là quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 lại
nhỏ đi một cách đột ngột (5,04 triệu USD/1 dự án).
Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 chỉ bằng
44,06% quy mô bình quân của thời kỳ 1988 - 2001, và chỉ bằng 28,5% quy mô
dự án bình quân của năm cao nhất (năm 1996). Quy mô vốn bình quân của các
dự án mới được cấp phép trong năm 2000 tuy đã tăng lên (bằng 107,5% mức
bình quân của năm 1999), nhưng sang năm 2001, mặc dù đã có thêm một số dự
án với quy mô đầu tư lớn (dự án nhà máy điện Phú Mỹ III có số vốn đăng ký
412,9 triệu USD, dự án xây dựng mạng điện thoại di động có số vốn đăng ký
230 triệu USD, dự án chế biến nông sản tại TP. Hồ Chí Minh có số vốn đăng
ký 120 triệu USD, dự án máy in phun của công ty TNHH CANON Việt Nam
có số vốn đăng ký 76,7 triệu USD...) nhưng quy mô vốn bình quân của các dự
án cũng chỉ đạt ở mức 97,4% mức bình quân của năm 2000. Điều đó chứng tỏ,
năm 2001 có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là thuộc
các dự án quy mô nhỏ.
2. Về cơ cấu đầu tư
2.1. Theo đối tác đầu tư
Tính đến hết năm 2001 đã có hơn 700 công ty thuộc 66 nước và lãnh thổ
(dưới đây gọi tắt là các nước) có dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam: Tính theo
vốn đăng ký (cấp mới) thì trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam thời kỳ 1988 - 2001 có 66,1% từ các nước châu Á, 20,4% từ các nước
châu Âu, 13,4% từ các nước châu Mỹ. Tuy nhiên, số liệu thống kê như trên
chưa phản ánh đúng chủ sở hữu thực sự các nguồn vốn. Trong xu thế phát triển
chung hiện nay, nhiều doanh nghiệp, công ty, tập đoàn đã mở rộng mạng lưới
đại diện, các công ty con ra các quốc gia khác. Và qua hệ thống này, họ đã thực
hiện đầu tư vào Việt Nam, ví dụ các tập đoàn HSBC Holdings (Anh), ABB
(Thụy Điển), Kepple (Singapore), đã thông qua các chi nhánh của họ tại Hồng
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
80
Kông để đầu tư vào Việt Nam; Công ty Unilever (Anh) thông qua công ty con
có trụ sở tại Singapore để đầu tư vào Việt Nam. Trong số này có 14 nước và
lãnh thổ có số vốn đầu tư hơn 1 tỷ USD, theo thứ tự như sau:
Bảng 8: Các nƣớc có vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD (tính đến tháng 12 / 2001)
Đơn vị: triệu USD
TT Nƣớc
Số dự
án
Vốn
đăng ký
TT Nƣớc
Số dự
án
Vốn
đăng ký
1 Singapore 271 6.156,9 8 Anh 48 1.782,6
2 Đài Loan 732 5.082,4 9 Nga 70 1.589,3
3 Hồng Kông 335 3.693,1 10 Mỹ 143 1.451,5
4 Nhật Bản 333 3.601,7 11 Ôxtrâylia 107 1.189,5
5 Hàn Quốc 383 3.329,0 12 Hà Lan 46 1.159,9
6 Pháp 168 2.582,7 13 Ma-lai-xia 107 1.156,6
7 Quần đảo
Virgin
133 1.904 14 Thái Lan 145 1.127,7
Tổng cộng (14 nƣớc) 3.021 35.806,9
Nguồn: Tính từ Niên giám thống kê 2000, NXB Thống kê, Hà Nội 2001
và “Tình hình kinh tế-xã hội năm 2001”, Báo cáo của Tổng cục Thống kê.
Chỉ 14 nước (bằng 21,2% số nước) đã chiếm tới 86,8% tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (Singapore: 14,9%; Đài Loan: 12,32%; Hồng
Kông: 8,95%; Nhật Bản: 8,73%; Hàn Quốc: 8,07%; Pháp: 6,26%; Quần đảo
Virgin: 4,6%; Anh: 4,32%; Nga: 3,85%; Mỹ: 3,5%; Ôxtrâylia: 2,9%; Hà Lan:
2,81%; Malaixia: 2,8%; Thái Lan: 2,73%). Trong tổng số vốn đầu tư của 14
nước này thì có tới 58,52% (24.147,4 triệu USD) là thuộc các nước châu Á,
điều này chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam thu hút được các nhà đầu tư
châu Á và trình độ, điều kiện, khả năng của các nhà đầu tư châu Á cũng đang
phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển của Việt Nam trong thời gian qua.
Cho tới nay, trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì sự có
mặt của các nhà đầu tư thuộc các tập đoàn kinh tế lớn chưa nhiều (mới có
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
81
50/500 tập đoàn kinh tế lớn của thế giới có dự án đầu tư tại Việt Nam). Ba siêu
cường kinh tế Mỹ - Nhật - EU hàng năm đầu tư ra nước ngoài một lượng vốn
khổng lồ nhưng Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn được các nhà đầu tư này. Đây
là đặc điểm rất cần được chú ý trong việc lựa chọn đối tác đầu tư sắp tới nhằm
làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta đạt hiệu quả hơn.
2.2. Theo địa bàn đầu tư:
Với mong muốn thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng nên chính phủ ta đã có những chính
sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào “những vùng có điều
kiện kinh tế-xã hội khó khăn; miền núi, vùng sâu, vùng xa”. Tuy vậy, cho đến
nay vốn nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào những địa bàn có điều kiện
thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế-xã hội.
Tính đến tháng 12 / 2001, nếu như hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh đã chiếm tới hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư nước ngoài của
cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%: TP. Hồ
Chí Minh với số vốn đăng ký 9.991,3 triệu USD (chiếm 28,3% tổng vốn đăng
ký của cả nước) số liệu tương ứng với các địa phương tiếp theo như sau: Hà
Nội: 7.763,5 (22%); Đồng Nai: 3.439,0 (9,7%): Bà Rịa-Vũng Tàu: 2.515,9
(7,1%); Bình Dương và Bình Phước: 1.677,9 (4,8%); Hải Phòng: 1.507,7
(4,3%); Quảng Ngãi: 1.333,0 (3,8%); Quảng Nam-Đà Nẵng: 1.013,7 (2,9%);
Quảng Ninh: 872,8 (2,5%); Lâm Đồng: 866 (2,4%).
Số liệu trên phần nào nói lên rằng vấn đề thu hút FDI theo vùng lãnh thổ
để kết hợp với việc khai thác tiềm năng trong nước đạt kết quả chưa cao. Đây
cũng là một trong những vấn đề rất cần được chú ý điều chỉnh hoạt động của
chúng ta trong thời gian tới đối với lĩnh vực này.
2.3. Theo ngành kinh tế:
Nhận xét trên bình diện tổng thế, ta thấy cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam
trong thời gian qua đã có sự chuyển biến tích cực, phù hợp hơn với yêu cầu
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
82
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Nếu ở thời kỳ đầu, các dự
án đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khách sạn, văn phòng cho
thuê... thì thời gian từ 1995, 1996 đến nay, các dự án đã tập trung vào lĩnh vực
sản xuất vật chất nhiều hơn. Tính cả thời kỳ 1988 - 2001, các dự án đầu tư vào
ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp
đến là lĩnh vực khách sạn, du lịch và các dịch vụ, ngành nông lâm-nghiệp có số
dự án lớn nhưng vốn đầu tư thấp (chứng tỏ quy mô dự án ở lĩnh vực này tương
đối nhỏ). Để dễ hình dung, ta có thể biểu diễn cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo ngành kinh tế bằng đồ thị sau:
Hình 3: Cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam theo ngành kinh tế
Nguồn: Vụ quản lý dự án - Bộ kế hoạch và đầu tư
Số liệu thống kê cho thấy sự phân bố FDI vào các ngành kinh tế còn mất
cân đối. Nông nghiệp, một lĩnh vực Việt Nam có nhiều tiềm năng và tập trung
tới hơn 80% lao động, còn chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Đây là vấn đề cần điều chỉnh vì sự thành công trong phát triển nông thôn, nông
nghiệp là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ thành công của
sự nghiệp CNH - HĐH nước ta.
3.4. Theo các hình thức đầu tư:
Nhất là ở thời kỳ đầu, và ngay cả đến hiện nay, liên doanh hiện là hình
thức phổ biến nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Hình thức này
VH, GD, y tÕ
1%
TC, N/hµng
1%
K/S, du lÞch
13%
CN
38%
N/L nghiÖp
4%
GTVT, b•u ®iÖn
9%XD
12%
D/vô kh¸c
21% T/s¶n
1%
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
83
đang chiếm tới khoảng 40% số dự án và 59% vốn đăng ký (1.035 dự án còn
hiệu lực, với khoảng 21,5 tỷ USD vốn đăng ký). Sở dĩ như vậy là do thời kỳ
đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải
thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức tạp, trong khi đó nhà đầu tư nước
ngoài còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế, xã hội và pháp luật của Việt
Nam. Vì vậy, đa số các nhà đầu tư thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên
đối tác Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh
nghiệp có hiệu quả hơn.
Gần đây, số dự án FDI vào Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài đang ngày càng có xu hướng tăng lên cả về tuyệt đối lẫn tương
đối. Nguyên nhân là các nhà đầu tư nước ngoài đã am hiểu hơn về pháp luật,
chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam,
các thủ tục cấp phép của Việt Nam đang được đơn giản hoá, hơn nữa do khi
tham gia liên doanh, khả năng của phía Việt Nam thường yếu cả về vốn đóng
góp lẫn cán bộ quản lý nên nhu cầu có đối tác Việt Nam trong hoạt động đầu tư
ngày càng giảm đi. Nếu thời kỳ đầu, chỉ có gần 10% số dự án và vốn đăng ký
hoạt động theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì đến nay con
số đó đã lên tới 55,5% số dự án và 29,4% vốn đăng ký (đến hết năm 2000, có
1.459 dự án 100% vốn nước ngoài còn hiệu lực với 10,7 tỷ USD vốn đăng ký).
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm 5% số dự án
và 10,5% số vốn đầu tư (đến hết năm 2000 có 130 dự án còn hiệu lực với 3,8 tỷ
USD vốn đầu tư), chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí và
dịch vụ viễn thông, in ấn và phát hành báo chí.
Từ năm 1993, Việt Nam bắt đầu áp dụng hình thức “hợp đồng xây dựng-
kinh doanh-chuyển giao” (BOT), và cho đến nay đã có 6 dự án đầu tư nước
ngoài được cấp phép theo hình thức này với số vốn đăng ký hơn 1.300 triệu
USD, trong đó có 1 dự án (Cảng quốc tế Vũng Tàu) đã rút giấy phép đầu tư.
Hình thức BOT được chính phủ khuyến khích vì nó giúp nâng cấp cơ sở hạ
tầng, một lĩnh vực mà Việt Nam còn rất yếu.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
84
3. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư của các dự án FDI tại Việt Nam
Đến hết năm 2001, có trên 550 dự án sau một thời gian triển khai sản
xuất kinh doanh có hiệu quả đã đề nghị cấp phép tăng vốn, mở rộng sản xuất.
Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 6.756 triệu USD (bằng 16,27%
tổng vốn đăng ký và bằng 15,2% số dự án được cấp giấy phép). Tổng số vốn
của các dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng là 296 triệu USD (bằng 0,712%
tổng số vốn đăng ký). Số vốn thuộc các dự án đã giải thể là 9.284 triệu USD
(bằng khoảng 22,3% tổng vốn đăng ký). Như vậy, tính đến hết năm 2001, trên
lãnh thổ Việt Nam còn 38.712,8 triệu USD thuộc các dự án FDI còn hiệu lực.
Bảng 9: Tiến độ thực hiện vốn FDI của các dự án
Đơn vị: triệu USD
Năm Vốn thực
hiện
So với vốn đăng
ký mới trong
năm (%)
Vốn nƣớc
ngoài
Vốn trong
nƣớc
1991 478 37,49 432 46
1992 542 26,74 478 64
1993 1.097 42,37 871 226
1994 2.213 59,08 1.936 277
1995 2.761 41,79 2.363 398
1996 2.837 32,84 2.447 390
1997 3.032 62,53 2.768 264
1998 2.189 56,17 2.062 127
1999 1.933 123,36 1.758 175
2000 2.100 105,69 1.900 200
2001 2.300 94,42 2.100 200
Tổng 21.482 51,72 19.115 2.367
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 2001 - 2002 Việt
Nam và thế giới, trang 50.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
85
Đến hết năm 2001, trong tổng số 3.000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
đang còn hiệu lực hoạt động tại Việt Nam, đã có 1.393 (bằng 46,43% tổng số
dự án còn hiệu lực) dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. 783 dự án
(32% số dự án còn hiệu lực) đang trong quá trình xây dựng cơ bản. Số dự án
còn lại đang trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính hoặc chưa triển
khai.
Đến hết năm 2001, tổng số vốn thực hiện bằng 51,72% tổng số vốn đăng
ký. Cá biệt có những năm (1999 và 2000) số vốn thực hiện của dự án còn lớn
hơn cả số vốn đăng ký được phê duyệt trong năm đó. Tuy nhiên, nếu so sánh số
vốn thực hiện của từng năm với số vốn đăng ký còn lại (tổng vốn đăng ký từ
trước trừ đi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực hiện diễn biến thiếu ổn định.
Tỷ lệ này tăng nhanh từ 1988 đến 1997, sau đó giảm dần từ 1998 đến 1999,
năm 2000, 2001 đã có biểu hiện của xu hướng tăng lên. Sở dĩ có tình trạng như
vậy là vì một số nhà đầu tư khi lập dự án đã tính toán chưa thật sát với thực tế
nên khi triển khai dự án họ gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt cả khả năng
tài chính cũng như các yếu tố điều kiện cho doanh nghiệp vận hành. Một số nhà
đầu tư khác, mặc dù đã được cấp phép đầu tư nhưng không đủ khả năng tài
chính, không huy động được vốn đúng như dự kiến, buộc phải triển khai thực
hiện dự án chậm, có khi mất khả năng thực hiện.
4. Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
4.1. Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam
Cho tới nay, số vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện đạt trên 20 tỷ USD.
Tính riêng thời kỳ 1996 - 2000, vốn đầu tư thực hiện đạt 12,8 tỷ USD, chiếm
24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Luồng vốn đầu tư nước ngoài thuần tuý
chiếm khoảng 8,6% GDP trong thập kỷ qua. Nguồn vốn này đã góp phần tích
cực trong việc hình thành, mở rộng và hiện đại hoá các ngành, lĩnh vực quan
trọng của nền kinh tế như: dầu khí, hoá dầu, bưu chính viễn thông, điện tử, ô tô,
xe máy, hoá chất, phân bón, dệt may, giầy dép, chế biến nông sản, thực phẩm,
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
86
chế biến thức ăn gia súc, khách sạn du lịch. Năng lực tăng thêm của những
ngành, lĩnh vực do đầu tư nước ngoài tạo ra đã góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, thay thế hàng nhập
khẩu, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, tạo ra thế và lực mới cho phát triển kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài,
nhiều nguồn lực trong nước (lao động, đất đai, tài nguyên) được khai thác và sử
dụng tương đối hiệu quả.
4.2. Duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mở rộng nguồn thu ngân sách, đẩy
mạnh xuất khẩu
Tính riêng thời kỳ 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP của khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài cao hơn 2,5 lần so với tốc độ tăng GDP của nền kinh tế. Khu vực
đầu tư nước ngoài có tỷ lệ đóng góp trong GDP tăng dần và đạt khoảng 12,7%
năm 2000. Tính đến hết năm 2000, tổng số nộp ngân sách nhà nước của khu
vực đầu tư nước ngoài đạt hơn 1,8 tỷ USD. Năm 2001, khu vực này đóng góp
cho ngân sách 373 triệu USD, đóng góp 13,3% GDP. Đầu tư nước ngoài cũng
có tác dụng tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách,
cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thông qua luồng vốn chuyển vào
Việt Nam và mở rộng thu ngoại tệ gián tiếp.
Bảng 10: Đóng góp của FDI đối với nền kinh tế
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Doanh thu (triệu USD) 2800 3900 4400 5200 7850 8200
Kim ngạch xuất khẩu (triệu
USD)
920 1790 1982 2590 3320 3600
Đóng góp GDP (%) 7,4 9,1 10 11,8 12,7 13,3
Nộp ngân sách (triệu USD) 263 315 317 271 324 373
Tốc độ tăng trưởng công
nghiệp (%)
21,7 23,2 23,3 20 18,6 12,1
Tạo việc làm (1000 người) 220 250 270 296 379 439
Nguồn: Vụ Đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch và đầu tư
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
87
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh
và đạt trung bình khoảng 65%/năm trong thời kỳ 1991 - 2000. Tính riêng thời
kỳ 1996 - 2000, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này đạt trên 10,6 tỷ USD,
chiếm khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hoạt động xuất khẩu của
khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc
đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp
trong nước tiếp cận với thị trường quốc tế và nâng cao chất lượng của hàng
Việt Nam trên thị trường quốc tế.
4.3. Tạo công ăn việc làm cho người lao động
Hoạt động đầu tư nước ngoài tạo việc làm cho khoảng hơn 430.000 lao
động trực tiếp, trong đó có khoảng 6.000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ
thuật và hàng chục vạn công nhân lành nghề. Tuy nhiên, theo ước tính của
Ngân hàng thế giới (World Bank), còn có khoảng 1 triệu lao động gián tiếp do
khu vực này tạo ra như hoạt động thầu phụ, xây dựng. Đồng thời đầu tư trực
tiếp nước ngoài cũng góp phần phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng và
trình độ quản lý của đội ngũ lao động này.
4.4. Tiếp thu công nghệ hiện đại
Việt Nam bước vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế với xuất
phát điểm rất thấp về mặt công nghệ. Sau khi thực hiện luật đầu tư nước ngoài,
nước ta đã nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiến bộ trong nhiều ngành
kinh tế như: thông tin viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, công nghiệp điện
tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy. Trong đó, có những ngành công nghệ có chất
lượng cao và đạt mức tiên tiến của thế giới như: công nghệ trong lĩnh vực dầu
khí, viễn thông. Mặc dù phần lớn công nghệ chuyển giao vào nước ta là công
nghệ trung bình của thế giới nhưng nó đã có tiến bộ rất nhiều so với những
công nghệ đã có từ trước đó, và nếu không có FDI thì bản thân các doanh
nghiệp trong nước khó có thể đạt được trong một thời gian ngắn như vậy. Đây
thực sự là đóng góp quan trọng của FDI, góp phần nâng cao chất lượng sản
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
88
phẩm, đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt
Nam.
5. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thu hút FDI ở Việt Nam
hiện nay
5.1. Những thuận lợi
- Xu thế hoà bình, ổn định hợp tác trong khu vực:
Việt Nam có vị trí địa lý hết sức thuận lợi là nằm ngay trong lòng khu
vực châu Á -Thái Bình Dương, khu vực phát triển năng động nhất thế giới về
thương mại, vận chuyển hàng hoá, viễn thông. Các nhà kinh tế trên thế giới đã
dự đoán rằng trong 50 năm nữa thì khu vực này vẫn là khu vực phát triển nhất
trên thế giới về kinh tế với sự lớn mạnh của Trung Quốc và Nhật Bản. Với tiêu
chí “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, Việt Nam tích cực gia nhập
các tổ chức khu vực và quốc tế, ký các hiệp định song phương và đa phương
với chính phủ các nước khác: gia nhập ASEAN, tham gia AFTA, ký kết hiệp
định thương mại Việt - Mỹ... Tất cả những hoạt động này sẽ góp phần tăng tính
hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Môi trường kinh tế, chính trị ổn định:
Ở tầm vĩ mô, môi trường kinh tế của Việt Nam là khá ổn định, đời sống
nhân dân các vùng, cả thành thị và nông thôn không ngừng được nâng cao,
bình quân mỗi năm tăng 4-5% là mức cao so với khu vực. Đó là điều kiện để
không ngừng mở rộng dung lượng thị trường. Nhờ chính sách phát huy mạnh
mẽ nội lực, vốn trong nước chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội với tỷ lệ
tích luỹ nội bộ nền kinh tế năm 2000 đạt 27% GDP, cho phép huy động và sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài. Môi trường chính trị ở nước ta khá ổn
định, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay, giúp cho các nhà đầu tư nước
ngoài có được sự tin tưởng, an tâm về sự an toàn trong hoạt động đầu tư.
- Lực lượng lao động dồi dào:
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
89
Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào về số lượng, có trình độ tiên
tiến. Chỉ số phát triển nguồn nhân lực đạt cao hơn trình độ phát triển kinh tế,
thể hiện điểm nổi trội của chất lượng nguồn nhân lực, có khả năng tiếp thu và
thích nghi hoá chuyển giao công nghệ để không ngừng nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh. Trong điều kiện sản xuất như hiện nay, về cơ bản người lao
động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu và có mặt bằng tiền lương thấp hơn các
nước ASEAN khác.
- Luật đầu tư tương đối hấp dẫn:
Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam lần đầu tiên thực sự đi vào cuộc
sống từ năm 1988. Trải qua quá trình thực hiện bổ sung, sửa đổi, luật này đã
được hoàn thiện dần, tạo ra được sự lôi cuốn đối với các nhà đầu tư. Đến thời
điểm này, nếu so sánh với các nước ASEAN khác thì Luật Đầu tư nước ngoài
của Việt Nam đã tương đối hấp dẫn.
5.2. Những khó khăn
- Cạnh tranh mạnh mẽ của các nước trong khu vực:
Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ gặp phải sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ
các nước trong khu vực. Trước hết phải kể đến Trung Quốc. Việc Trung Quốc
gia nhập WTO sẽ biến Trung Quốc thành địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà
đầu tư nước ngoài. Theo tính toán, đến năm 2005, mức FDI vào Trung Quốc có
thể đạt tới 100 tỷ USD/năm. Điều này đồng nghĩa với việc dòng vốn FDI vào
các nước khác trong khu vực sẽ giảm đi đáng kể, ít nhất là 10% (theo ước tính
của ban thư ký ASEAN). Vì thế, không chỉ Việt Nam mà cả các nước ASEAN
khác cũng đều phải gia tăng những biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của
mình và thực hiện chúng một cách có hiệu quả.
Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước ASEAN khác trong việc
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
1997, các nước khác trong khu vực đã áp dụng nhiều biện pháp để cải thiện
môi trường đầu tư của mình. Hàn Quốc đã ban hành luật xúc tiến đầu tư nước
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
90
ngoài mới (11 / 1998), thực hiện tự do hoá thị trường chứng khoán và thị
trường vốn, bãi bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài trong
việc sáp nhập và mua lại các công ty của nước này. Thái Lan cũng ban hành
Luật kinh doanh của người nước ngoài mới (10 / 1998), sửa đổi luật đất đai và
nhà ở theo hướng cho phép nhà đầu tư nước ngoài có đủ điều kiện sở hữu đất ở,
tự do hoá lĩnh vực tài chính. Điều này buộc Việt Nam phải cải thiện hơn nữa
môi trường đầu tư của mình.
- Chi phí đầu tư ở Việt Nam còn cao:
So với các nước trong khu vực, chi phí đầu tư của Việt Nam tương đối
cao, đặc biệt là giá điện và dịch vụ thông tin. Ví dụ như giá nước sạch của ta
duy trì ở mức 0,21-0,47 USD/ m3, cao hơn hầu hết các nước trong khu vực, giá
điện sản xuất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn so với Bangkok,
Kuala Lumpur, Jakarta, giá cước vận chuyển container ở Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh cao hơn so với Thượng Hải, Singapore, Bangkok, Kuala Lumpur,
cước điện thoại quốc tế ở Việt Nam cao hơn từ 2,6 đến 5 lần so với các nước
Thái Lan, Malaysia, Inđônêsia, Singapore và Philipine. Giá thuê đất tuy ở mức
trung bình so với các nước trong khu vực nhưng nếu tính thêm cả chi phí đền
bù, giải phóng mặt bằng thì tổng chi phí nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ ra để có
được quyền sử dụng đất là rất cao.
- Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài còn chưa đầy đủ và
đồng bộ:
Mặc dù luật đầu tư nước ngoài đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung nhưng
vẫn còn tình trạng chồng chéo, không nhất quán giữa các văn bản pháp luật.
Nhiều Bộ ngành vẫn chưa ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn nghị định
24 / 2000 / NĐ-CP ngày 31 / 7 / 2000 của chính phủ quy định chi tiết việc thi
hành Luật đầu tư nước ngoài, ví dụ các văn bản hướng dẫn về thuế, quản lý tài
chính doanh nghiệp, chế độ kế toán của Bộ tài chính; hướng dẫn chuyển giao
công nghệ, nhập máy móc thiết bị qua sử dụng, công nghệ cao, xử lý môi
trường của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
91
Chính sách thuế, hải quan còn bất cập, gây cản trở cho sản xuất của các
doanh nghiệp, lãng phí thời gian cho doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước (ví
dụ Thông tư 40 / 2000 / TT-BTC của Bộ Tài Chính).
Quy định hiện hành vẫn chưa rõ ràng về thời gian giải phóng mặt bằng,
chi phí ai chịu, vấn đề cưỡng chế di dời... gây lãng phí rất nhiều công sức, thời
gian của các nhà đầu tư trong việc triển khai dự án. Các văn bản quy định về sở
hữu trí tuệ vẫn còn chung chung và chưa được thực hiện có hiệu quả, khiến cho
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là nạn buôn lậu, làm hàng giả,
hàng nhái rất phổ biến, gây nhiều thiệt hại cho các chủ đầu tư nước ngoài.
Quy định đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cũng là trở ngại đối
với nhà đầu tư nước ngoài vì lợi nhuận của họ bị đánh thuế hai lần (thuế thu
nhập doanh nghiệp và thuế chuyển lợi nhuận).
- Khả năng đáp ứng ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài chưa cao:
Cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài đang là một vấn đề nổi
lên vì nhiều dự án triển khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, sản xuất
hàng thay thế hàng nhập khẩu đã đến thời kỳ phải trả vốn vay, trong khi khả
năng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các ngân hàng thương mại rất hạn chế, nhất
là vào thời điểm cuối chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thủ tục hành chính còn rườm rà:
Các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá thủ tục hành chính của Việt Nam
còn nhiều phức tạp, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Hoạt động quản lý chồng
chéo, nhiều tầng lớp. Cán bộ quản lý lại thiếu thông hiểu về pháp luật, thiếu
kinh nghiệm chuyên môn trong việc xử lý các tình huống phát sinh và nhìn
chung, các nhà quản lý của Việt Nam vẫn mang tác phong nông nghiệp.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao:
Mặc dù chi phí tiền lương cho lao động Việt Nam tương đối thấp, nó chỉ
đúng trong điều kiện so sánh với các nước ASEAN trong giai đoạn hiện nay.
Về lâu dài, khi trình độ sản xuất phát triển, nếu lao động Việt Nam không được
đào tạo kịp thời thì lợi thế đó cũng sẽ mất đi trong so sánh với các nước
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
92
ASEAN khác. Nếu so sánh với các nền kinh tế phát triển thì các nước ASEAN
vẫn đang giữ được lợi thế là thị trường lao động rẻ. Trong so sánh này thì các
nước ASEAN đang gặp phải đối thủ cạnh tranh có tiềm lực, đó là thị trường
Trung Quốc.
- Cơ sở hạ tầng kém phát triển, vốn đồng bộ trong nước còn thấp:
Để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả FDI, nước nhận đầu tư cần
phải có một số điều kiện tối cần thiết như: vốn đối ứng trong nước phải
gấp 2-3 lần vốn đầu tư nước ngoài, có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển,
có năng lực nội tại đủ tiếp nhận các công nghệ phù hợp của dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài như trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất...
Từ nền sản xuất nhỏ vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
quan liêu, bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đang
gặp nhiều khó khăn trong việc tạo lập các điều kiện này. Đây là thử thách
lớn của Việt Nam so với các nước ASEAN khác trong cuộc cạnh tranh thu
hút vốn FDI.
III. VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI
CỦA TRUNG QUỐC Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở phân tích những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt
Nam và Trung Quốc cũng như khả năng hiện tại của Việt Nam trong việc
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ta có thể vận dụng một số kinh nghiệm sau
cho hoạt động thu hút FDI ở Việt Nam.
1. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, Nhà nước có vai trò quan trọng
trong hoạch định chiến lược tổng thể phát triển đất nước, xác định mục tiêu
từng thời kỳ trên cơ sở đó bố trí cơ cấu vốn đầu tư một cách hợp lý, thu hút đầu
tư vào những ngành, vùng theo mục tiêu định hướng tránh tình trạng tự phát.
Thiếu sự quản lý của nhà nước có thể dẫn đến tình trạng cấp giấy phép đầu tư ồ
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
93
ạt vào một số ngành, một số vùng, như ngành dệt, đồ chơi ở khu vực ven biển
Trung Quốc.
Ở Việt Nam, thời gian qua cũng có tình trạng đã cấp giấy phép đầu tư ồ
ạt vào một số lĩnh vực và sản xuất tạm thời vượt quá nhu cầu hiện tại như: các
dự án khách sạn, văn phòng cho thuê, thức ăn gia súc, nước giải khát có ga, sản
phẩm điện tử gia dụng, lắp ráp ô tô, xe máy. Điều này đã gây ra sức ép với sản
xuất trong nước và sự giải thể của một số dự án đầu tư nước ngoài. Nguyên
nhân là chúng ta chưa xác định được chính thức quy hoạch đối với một số
ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ ra có sức hấp dẫn đối với nhiều
nhà đầu tư thì gần như đã đến giai đoạn bão hoà về nhu cầu đầu tư.
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước
theo quy định của nhà nước, theo quy định của pháp luật, tránh tình trạng
không kiểm soát được như hiện nay, đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc
gia như phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng trong bộ máy hành chính,
tinh giảm theo hướng gọn nhẹ, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy này
nhằm ngăn chặn tham nhũng, quan liêu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư.
2. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hoá môi trường kinh tế vĩ
mô
Khi nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh thì ổn định kinh tế và chính trị là
vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là với những nền kinh tế mới chuyển đổi
như Việt Nam và Trung Quốc. Chính trị có ổn định thì đời sống kinh tế xã hội
trong nước mới có điều kiện phát triển.
Trong những năm vừa qua, nước ta dưới sự lãnh đạo thống nhất và
xuyên suốt của một Đảng vẫn được dư luận thế giới đánh giá cao về sự ổn định
của môi trường chính trị. Trong điều kiện thế giới gần đây có nhiều biến động,
cuộc chiến của Mỹ với những nước chứa chấp khủng bố vẫn chưa đến hồi kết
thì sự ổn định chính trị của nước ta là một lợi thế so sánh cần được tăng cường.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
94
Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế theo hướng tích cực cũng là tiền
đề cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI. Môi trường kinh
tế vĩ mô tốt cho đầu tư bao hàm sự lành mạnh về giá cả hàng hoá nguyên vật
liệu, về giá trị đồng tiền và tỉ giá hối đoái, về hoạt động của hệ thống ngân
hàng, thị trường vốn, cơ chế tổ chức quản lý nền kinh tế.
Một trong những nội dung chính của tạo lập và ổn định môi trường kinh
tế vĩ mô là ổn định tiền tệ. Việc sử dụng hệ thống công cụ này ở nước ta cho
đến nay vẫn còn nhiều điểm phải sửa đổi bổ sung và hoàn chỉnh. Muốn vậy,
chúng ta cần phải xác định quan điểm rõ ràng về hiểm hoạ lạm phát và biện
pháp kiềm chế nó. Bên cạnh đó, cũng cần khắc phục những khó khăn trong
việc phát triển nền kinh tế như: chênh lệch thu nhập, chuyển dịch cơ cấu ngành
nghề còn chậm chạp, sự nghèo nàn, xuống cấp của tài nguyên…để phát triển
kinh tế thị trường và thiết lập một hệ thống thị trường đồng bộ. Muốn vậy, phải
kiên trì đổi mới, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực hiện cải cách nền
hành chính quốc gia, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đẩy mạnh quá trình cổ
phần hoá và sự vận động của thị trường chứng khoán.
Một nền kinh tế thị trường thực sự phát triển, có hệ thống thị trường
đồng bộ, một môi trường chính trị ổn định sẽ là một nhân tố tích cực đối với
việc tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam, góp phần thu hút nhiều
hơn vốn FDI từ các nước phát triển.
3. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư
3.1. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư “mềm”
Sức hút của mỗi quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết thể hiện ở hệ
thống luật pháp có liên quan đến đầu tư của nước đó. Các nhà đầu tư khi đầu tư
vào một nước sẽ quan tâm tới các vấn đề: tỉ lệ góp vốn ra sao, vấn đề thuê đất,
tuyển dụng lao động, xuất nhập khẩu sản phẩm, máy móc, thuế... Tất cả những
điều này đều được quy định cụ thể bằng các văn bản luật và dưới luật. Do vậy,
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
95
nếu không có những văn bản hướng dẫn rõ ràng thì nhà đầu tư sẽ không biết
được ý định của nước chủ nhà như thế nào cũng như mình nên tiến hành đầu tư
ra sao. Vậy để có một môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ, rõ ràng, cần tiến
hành nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư theo
hướng:
- Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong
nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình
đẳng cho sản xuất và kinh doanh, đồng thời áp dụng một số quy định về điều
kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ.
- Đa dạng hoá các hình thức FDI để khai thác thêm các kênh thu hút đầu
tư mới, nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp
danh, công ty quản lý vốn, cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua, nhận
khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước; nghiên cứu mô
hình kinh tế mở.
- Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam
kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở cửa hơn
nữa thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư ở Việt Nam; xây dựng cơ chế
để doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây
dựng; xây dựng kinh doanh phát triển khu đô thị mới, khuyến khích đầu tư
trong lĩnh vực dịch vụ khoa học, công nghệ dịch vụ thông tin, chuyển giao
công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, từng bước mở rộng khả năng hợp tác đầu
tư trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch.
- Tiếp tục thí điểm chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp này tham gia thị trường chứng khoán. Nghiên cứu sửa đổi các quy định
về thời hạn đàm phán dự án BOT và quy tắc, thẩm quyền chỉ định nhà đầu tư
trực tiếp nước ngoài làm dự án BOT trong một số trường hợp cần thiết.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
96
- Cụ thể hoá các quy định về việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước, thu hẹp danh mục hàng
hoá không thuộc đối tượng doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài mua để
mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích đầu tư:
Tiếp tục cải tạo hệ thống thuế cho phù hợp tình hình phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sẵc thuế,
từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm,
cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được
hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bảo hộ
có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng.
3.2. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư “cứng”
Cơ sở hạ tầng là một nhân tố hết sức quan trọng khi nhà đầu tư quyết
định bỏ vốn của mình ra, bởi nó có liên quan trực tiếp đến hiệu quả thực hiện
dự án. Thành công của Trung Quốc đã cho chúng ta thấy điều này. Bởi vậy,
việc cần thiết hiện nay là xây dựng một quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng cụ
thể và hợp lý để có thể tận dụng các khoản vay ưu đãi từ các nhà tài trợ. Đồng
thời, chính phủ cũng cần bố trí cơ cấu ngân sách hợp lý, dành nhiều hơn cho
phát triển cơ sở hạ tầng. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
này thông qua các hình thức BOT, BT, BTO, và đặc biệt dành nhiều ưu đãi về
giá cả như dịch vụ điện nước, thông tin liên lạc và chi phí giải phóng mặt bằng
nhiều hơn các lĩnh vực đầu tư khác.
4. Đa dạng hoá các đối tác đầu tư
Nhà nước Việt Nam đã có quan điểm chuyển sang thu hút FDI từ
EU và Mỹ. Đây là quyết định đúng đắn vì trong bối cảnh cuộc khủng
hoảng khu vực vừa qua, quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
97
các nước trong khu vực đã giảm đáng kể, ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng chính sách thu
hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Vì vậy, trước tiên cần
khuyến khích TNCs đầu tư vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ.
Đây là những thế mạnh của các TNCs, đặc biệt những TNCs lớn của các
nước công nghiệp phát triển. Bằng cách này, Việt Nam không chỉ thu hút
được nhiều vốn đầu tư mà còn nhận được công nghệ chuyển giao trực tiếp
từ công nghệ nguồn và tiếp cận nhanh chóng vào mạng lưới Marketing
toàn cầu của các họ. Trong khi đó, các đối tác có tiềm năng đầu tư hạn chế
thường chuyển giao công nghệ lạc hậu qua các chi nhánh TNCs, theo mô
hình “Đàn nhạn bay” hoặc công nghệ trình độ thấp. Vì vậy cần có nhiều
tổ chức tư vấn chất lượng cao, có những toà án giải quyết tranh chấp có
uy tín, hiểu biết sâu sắc về pháp luật Việt Nam và thế giới.
5. Xây dựng định hướng và quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Mặc dù nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của chúng ta
hiện nay là rất lớn, nhưng không phải vì thế mà chúng ta chấp nhận nó
bằng mọi giá. Đến nay, chúng ta chưa xác định được chính thức quy
hoạch phát triển với một số ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ
ra có sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư thì nay đã đến giai đoạn bão hoà về
nhu cầu đầu tư. Đây là một trong những lý do của tình trạng chững lại và
giảm thiểu của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian
gần đây. Để cải thiện nhanh chóng tình hình này, bên cạnh việc hoàn thiện
và tăng tính hấp dẫn của các văn bản pháp quy thì việc sớm công bố quy
hoạch cũng trở nên rất cấp bách. Quy hoạch này, cố gắng đảm bảo độ
chuẩn xác cao với tình hình và yêu cầu của thực tế. Bản quy hoạch phải
trở thành bức tranh tổng thể về nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam. Một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
98
ngoài trong việc lựa chọn dự án đầu tư. Mặt khác, công khai làm căn cứ
cho các ngành, các địa phương tính toán, chủ động trong kêu gọi vốn đầu
tư một cách hợp lý, có hiệu quả, giải toả được những bất hợp lý trong cơ
cấu đầu tư nước ngoài theo ngành kinh tế, kỹ thuật và vùng lãnh thổ như
vừa qua.
6. Nâng cao trình độ phát triển nguồn nhân lực
Đây là vấn đề có tính chất quyết định đến trình độ sản xuất và đến việc
nhà đầu tư nước ngoài có quyết định đầu tư công nghệ cao vào Việt Nam hay
không. Muốn thu hút được công nghệ cao thì trong nước phải có đội ngũ cán
bộ, công nhân có đủ điều kiện để vận hành nó. Bên cạnh việc chú trọng đào tạo
trong nước, Trung Quốc còn có chính sách thích hợp để thu hút nhân tài về Tổ
quốc. Vào cuối thập kỷ 70, Trung Quốc bắt đầu cho phép sinh viên du học
nước ngoài với mong muốn họ sẽ trở về hỗ trợ công cuộc hiện đại hoá đất
nước. Hơn 320.000 sinh viên đã được đưa ra nước ngoài trong đó có gần một
nửa được đưa sang Mỹ, nhưmg đến giữa thập kỷ 80, chỉ có khoảng 1/3 số họ
trở về sau tốt nghiệp. Trước tình hình đó, Trung Quốc đã có nhiều biện pháp
tích cực để khuyến khích lưu học sinh trở về như: thành lập trung tâm dịch vụ
sinh viên hồi hương năm 1991, cử hàng loạt quan chức sang Mỹ gặp gỡ và phổ
biến những chính sách ưu đãi của chính phủ cho sinh viên hải ngoại. Nhờ
những nỗ lực đó, trong 4 năm qua, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp về nước đã tăng
bình quân 13% mỗi năm. Hầu hết các thành phố cuả miền Nam đến Đại Liên
của miền Bắc đều cố gắng tạo ra môi trường làm việc tốt nhất cho người lao
động có tay nghề cao. Các khu công nghệ cao đã được xây dựng trong toàn
quốc và đối tượng ưu tiên là những lưu học sinh và các nhà khoa học nước
ngoài. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chưa cao nên việc học tập các
kinh nghiệm trên của Trung Quốc là rất cần thiết để tăng cường thu hút đầu tư
nước ngoài.
7. Nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
99
Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao có vai trò rất quan
trọng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay, Nhà nước ta đã phê
duyệt cho thành lập trên 70 KCX, KCN. Như vậy, so với tiềm lực đầu tư, và dự
báo phát triển các doanh nghiệp đầu tư xây dựng trong KCX, KCN, khu công
nghệ cao thì số lượng các KCX, KCN hiện có của ta đang đạt mức cao. Để
nâng cao hiệu quả theo đúng những ưu thế vốn có của KCN, KCX, khu công
nghệ cao, góp phần tạo ra sự hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài cũng như
đầu tư trong nước, trước mắt chúng ta cần có sự tập trung hơn cho việc hoàn
thành xây dựng cơ bản các KCN, KCX đã phê duyệt để sớm đưa hệ số sử dụng
cao hơn. Tuy nhiên, sự phát triển của hình thức này cũng cần phải tuân theo
quy hoạch tổng thể, phù hợp với yêu cầu phát triển và điều kiện thực tế của
Việt Nam, quan tâm đến chất lượng hơn số lượng vốn đầu tư. Chúng ta cần
thận trọng trong việc phê duyệt thành lập KCX, KCN, khu công nghệ cao mới.
Sắp tới, nên hình thành một cách cân đối các KCX, KCN với quy mô khác
nhau, nhất là các cụm KCN, KCX quy mô vừa và nhỏ phục vụ nông nghiệp,
nông thôn.
8. Tăng cường hội nhập, tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới
Trong xu thế hội nhập và hợp tác mạnh mẽ như hiện nay, một quốc
gia không thể phát triển đơn lẻ một mình mà phải gắn mình vào một khối
thống nhất trong khu vực và thế giới. Trung Quốc và Việt Nam đều nằm
trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, khu vực tăng trưởng năng động
nhất thế giới. Trung Quốc hiện nay đang trở thành một hiện tượng của thế
giới, có quan hệ hợp tác với hơn 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới và
gần đây đã gia nhập WTO. Việc Trung Quốc tham gia vào chiếu chợ lớn
nhất thế giới sẽ phần nào gợi ý cho Việt Nam điều chỉnh hướng đi thích
hợp, chuẩn bị cho việc gia nhập vào WTO. Do hạn chế về trình độ, Việt
Nam cần nỗ lực để điều chỉnh nền kinh tế của mình cho phù hợp, nâng cao
năng lực nội sinh của đất nước, phát triển năng lực hấp thụ, chuyển hoá
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
100
hiệu quản các nguồn vốn nước ngoài trong đó có đầu tư nước ngoài thành
hợp lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước theo hướng CNH - HĐH.
9. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động để tạo dựng chính
xác hình ảnh một đất nước Việt Nam thực sự muốn mở rộng quan hệ với bên
ngoài. Về nội dung, hoạt động xúc tiến đầu tư cần tập trung vào việc cải thiện,
tuyên truyền tốt hơn môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Từng ngành,
từng địa phương cùng với việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch kêu gọi đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng cần xây dựng các dự án cụ thể và có biện pháp bố trí
các đối tác, cán bộ giải pháp tài chính. Mặt khác cần nghiên cứu thành lập các
tổ chức tư vấn đầu tư chuyên ngành ở một số địa phương để cung cấp các dịch
vụ triển khai dự án khi được cấp giấy phép đầu tư như dịch vụ về đất đai, dịch
vụ quản lý xây dựng...tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư 100% vốn.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
101
KẾT LUẬN
Mặc dù còn có một số hạn chế, những thành công của Trung Quốc trong
thu hút FDI là không thể phủ nhận. Cho đến nay, một số mục tiêu lớn mà
Chính phủ Trung Quốc đặt ra khi thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài về cơ bản đều đạt được. Trong điều kiện thiếu các nguồn vốn trong
nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Trung Quốc “đảm bảo sự phát triển
đi lên bền vững của nền kinh tế quốc dân; thúc đẩy cải cách kinh tế và
chuyển sang hoạt động của cơ chế thị trường; đóng vai trò quan trọng
trong hiện đại hoá nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền
kinh tế thế giới”.
Một số yếu tố cơ bản, đảm bảo sự thành công trong thu hút và sử dụng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc có thể tóm tắt lại là:
- Thứ nhất, đó là chiến lược mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài để phát
triển kinh tế theo vùng lãnh thổ tuân theo quy hoạch ưu tiên. Về mặt này, Trung
Quốc đã rất thành công và cũng không để xẩy ra tình trạng tập trung các dự án
đến mức thái quá như trường hợp của Thái Lan.
- Thứ hai, thực hiện đa dạng hoá các nguồn huy động vốn, kết hợp có
hiệu quả việc sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nguồn vốn tín
dụng trong và ngoài nước. Tìm kiếm các nguồn tín dụng từ bên ngoài với các
điều kiện vay có lợi nhất và sử dụng một phần đáng kể vốn vay này vào các dự
án xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Thứ ba, có chính sách thỏa đáng để mở rộng việc thu hút người Hoa và
Hoa kiều đầu tư về nước. Mở rộng địa bàn hoạt động, tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi, sử dụng các chính sách ưu đãi phù hợp với yêu cầu phát triển
của từng thời kỳ, đa dạng hoá các hình thức đầu tư.
Qua việc nghiên cứu những chính sách thu hút FDI của Trung Quốc,
chúng ta có thể thấy rằng thành công hay thất bại của việc thu hút FDI phụ
thuộc rất lớn vào vai trò quản lý của Nhà nước. Quản lý và thu hút không được
tách rời nhau mà phải bổ sung cho nhau thì mới triệt để tận dụng được những
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
102
mặt tích cực của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và giảm thiểu những tác hại
của nó. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của Trung Quốc chỉ ra rằng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tự bản thân nó không thể đạt được hiệu quả mong muốn của
nhà đầu tư nếu không có các điều kiện thích ứng của nước nhận đầu tư. Và
lượng vốn này chảy vào nhiều hay ít cũng không phụ thuộc ý muốn của nước
chủ nhà. Về hình thức, ta có cảm giác như nước tiếp nhận đầu tư hầu như ở thế
thụ động trước các dòng chẩy của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng bản
chất của vấn đề lại không phải vậy, nước nhận đầu tư chính là người chủ động
trong việc kêu gọi, hấp dẫn đầu tư. Khi một nước có nhu cầu tiếp nhận đầu tư
trực tiếp nước ngoài nếu có các điều kiện, các tiền đề cần thiết đảm bảo cho
việc thực hiện các dự án đầu tư đạt hiệu quả cao thì đó sẽ là địa bàn có sức hút
mạnh, có khi làm đổi hướng cả dòng chảy đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm này rất cần thiết đối với việc thu hút và sử dụng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu bằng tiếng Việt:
1. Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa, cải cách chế độ sở hữu, Tề Quế Trân,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
2. Trung Quốc nhìn lại một chặng đường phát triển, Jun Ma, NXB trẻ TP Hồ
Chí Minh, Thời báo kinh tế Sài Gòn, Trung tâm kinh tế Châu Á -Thái Bình
Dương 2002.
3. Phép lạ Trung Quốc - Chiến lược phát triển và cải cách kinh tế, Justin Yifu
Lin - Fang Cai - Zhou Li, NXB TP Hồ Chí Minh, Trung tâm kinh tế Châu
Á-Thái Bình Dương, Thời Báo kinh tế Sài Gòn 1998.
4. Về cải cách mở cửa Trung Quốc, Lý Thiết Ánh, NXB KHXH Hà Nội 2002.
5. Trung Quốc 2020, Ngân hàng thế giới, NXB KHXH Hà Nội 2001.
6. Niên giám thống kê Trung Quốc 2001, 2002.
7. Việc thành lập các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc, Nguyễn Minh Hằng, tạp
chí nghiên cứu Trung Quốc, số 5 / 1996.
8. Tạp chí “Nghiên cứu Trung Quốc” các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000,
2001, 2002.
9. Bản tin Trung Quốc các số năm 2000, 2001, 2002.
10. Giáo trình “Đầu tư nước ngoài”- Chủ biên: PTS. Vũ Chí Lộc, và bài giảng
môn học -Trường đại học Ngoại thương.
11. Giáo trình “Kinh tế đầu tư” (Chủ biên: PGS.PTS. Nguyễn Ngọc Mai),
trường ĐH KTQD.
12. Sách “Đầu tư nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, PTS. Vũ
Trường Sơn, NXB Thống kê.
13. Những nội dung kinh tế tài chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam, PTS. Phạm Đào Duyên, NXB Tài Chính tháng 9 / 1999.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
104
14. Thực trạng và những vấn đề vận dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà
nước trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, Vũ Tuấn Anh, Tư liệu Viện
Kinh tế học, Hà Nội 1997.
15. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam, Lê Văn Châu,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
16. Công nghiệp hoá và Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997.
17. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và khu vực, nguyên nhân và tác động,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.
18. Cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội 1994.
19. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia ở các nước
đang phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.
20. Các báo: Đầu tư, Thời báo kinh tế Việt Nam, Lao Động (2001 - 2002).
21. Các báo cáo về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam năm
1999, 2000, 2001, 2002 của Vụ Quản lý dự án và Vụ đầu tư nước ngoài, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư.
23. “Tình hình kinh tế xã hội năm 2001”, Báo cáo của Tổng cục thống kê.
II. Tài liệu bằng tiếng Anh:
1. Growth triangles: Conceptual and operational considerations. Growth triangles in Asia,
Tang and Thant, Oxford University Press 1994.
2. Economic Globalization, Crisis and Emergence of Chinese Communities in South East
Asia, Wai Cheng Yeung, Henry (2000) London.
3. Ethnic Chinese Network and international investment evidence from inward FDI in
China, Ting, Gao (2000), Department of Economics, University of Missouri.
4. FDI in China: an Asian perspective - Yasheng, Huang (1998) - Singapore.
5. Investment Guide in Zhuhai, China Zhuhai Administration and service centre of Foreign
investment, 1997.
6. Multinational and Expatriate FDI: A comparative analysis of the China and Indian
experience, Guha, Ashok & Ray, Amit S. (2000), New Delhi.
THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
NguyÔn thÞ thu h¶o, A1 CN9
105
7. Taiwan Statistical Data Book 2001.
8. China Statistical Yearbook 2001, 2002.
9. UNCTAD World Investment Report 2001, 2002.
10. Econosystem 23/2/2001.
11. Taipei Times 12/1/1999.
12. China Daily 23/3/2002.
13. Data released by US Bureau of Economic Analysis, US Dept of Commerce.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thu hút fdi tại trung quốc và kinh nghiệm với việt nam.pdf