Bên cạnh sự phổ biến của miếu thờ thổ thần
là sự xuất hiện rải rác của những ngôi đình
thờ Thành Hoàng còn gọi là ma làng. Trong
quan niệm của người Tày nhiều khi đình còn
bao gồm cả đền. Vì vậy, tục thờ Thành Hoàng
của người Tày mang ý nghĩa dân gian sâu sắc,
nó đa dạng, ngoài thờ Thần Nông, đình còn
thờ những người có công khai phá đất đai, lập
bản, thờ phúc thần có công dẹp giặc và cả các
tà thần khác cầu mong cho bản mường bình
yên như: Đình Đông Khăm xã Bằng Phúc thờ
hung thần Lương Đình Xe, Lộc Đình Hồi;
Đình Nà Ngần xã Thượng Quan thờ Đinh
Quang Tương, Chu Quang Hầu là người có
công khai phá vùng đất này; Đình xã Cao Kỳ;
Đình bản Tầu Đâu xã Cao Thượng thờ thần
Dương Tự Minh.
Khác với thờ thổ công chỉ cắm hương vào
gốc cây hoặc làm miếu nhỏ lợp đôi ba gắp
gianh, thì nhà thờ Thành Hoàng thường làm
3 gian, ở nơi cao ráo, xa nhà, có người trông
coi thắp hương gọi là Pò Thại. Thực trạng
các đình miếu thờ Thành Hoàng ngày nay ở
hầu khắp các vùng của tỉnh Bắc Kạn đã đổ
nát, chỉ còn lại dấu tích như sân đình, bãi vui
chơi, cây đa cổ thụ hoặc một số đoạn tường
thành như các đình ở xã Yên Thịnh. Còn
việc thờ cúng Thành Hoàng hiện nay gần
như đã mất hẳn.
Tóm lại; Thờ cúng tổ tiên và các thần che
chở cho gia đình của người Tày Bắc Kạn đáp
ứng được nhu cầu tâm linh của đồng bào;
dân dã mà sâu sắc, sinh động mà quy củ, đơn
giản mà bền vững, là sự tưởng nhớ những
người có công trong việc tạo lập cuộc sống
ngày nay trong mỗi gia đình và làng bản.
Đây là nét đẹp trong văn hóa của người Tày
Bắc Kạn cần được bảo lưu và gìn giữ
6 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thờ cúng tổ tiên và các thần che chở gia đình của người Tày Bắc Kạn - Lương Thị Hạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 23 - 28
23
THỜ CÖNG TỔ TIÊN VÀ CÁC THẦN CHE CHỞ GIA ĐÌNH
CỦA NGƢỜI TÀY BẮC KẠN
Lƣơng Thị Hạnh*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thờ cúng tổ tiên của ngƣời Tày là một hoạt động có ý thức của con ngƣời, là tình cảm biết ơn,
tƣởng nhớ, hƣớng về cội nguồn quá khứ. Cơ sở của sự hình thành ý thức về thờ cúng tổ tiên là
niềm tin rằng linh hồn tổ tiên còn sống cùng với con cháu, có thể che chở và ban phúc cho con
cháu. Cho nên, xét về mặt đạo đức, ý thức về tổ tiên mang giá trị nhân văn sâu sắc, nó phát khởi
mối thiện tâm ở mỗi con ngƣời trong cộng đồng xã hội.
Thờ cúng Tổ tiên là một trong những hình thức tín ngƣỡng chủ đạo không chỉ có ở dân tộc Tày,
mà có ở tất cả các tộc ngƣời nƣớc ta, hầu nhƣ không có gia đình nào là không thờ cúng tổ tiên,
không thực hành lễ nghi theo tập tục trong gia đình và cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành
một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm ngƣời, đồng thời là một phần quan trọng
trong đời sống tâm linh của ngƣời Tày nói riêng và ngƣời dân Việt Nam nói chung. Đó là một
phong tục đẹp, có tính chất giáo dục truyền thống cho các thế hệ.
Từ khóa: Tổ tiên; thờ cúng; tín ngưỡng; văn hóa; linh hồn; bàn thờ; huyết tộc; kiêng kỵ
Thờ cúng tổ tiên là một hiện tƣợng mang tính
lịch sử - xã hội, tồn tại phổ biến ở nhiều nƣớc
trên Thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặt tốt
của việc thờ cúng là nhắc nhở những ngƣời
đang sống phải nhớ đến nguồn, “ăn quả nhớ
kẻ trồng cây”, biết kính trọng, phụng dƣỡng
ông bà lúc sinh thời và thờ phụng khi mất.
Lâu dần, sự thờ phụng đã trở thành đạo lý,
thành lẽ sống, trở thành nét đẹp văn hoá
truyền thống của các dân tộc. Song kèm theo
nó là sự phiền toái, nặng nề khi mang màu sắc
mê tín dị đoan, vụ lợi, ảnh hƣởng không nhỏ
đến đời sống của con ngƣời.*
Trong quá trình phát triển của lịch sử, khái
niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi, phát triển. Nó
không chỉ bó hẹp trong phạm vi huyết thống
gia đình, họ tộc mà đã mở rộng ra phạm vi
cộng đồng xã hội ở ba cấp độ: Quốc gia thì thờ
Vua Hùng; làng bản thờ thần Thành Hoàng;
gia đình, dòng họ thì thờ tổ tiên.
Bài viết này, tác giả chỉ nghiên cứu về ý
nghĩa của việc thờ cúng Tổ tiên trong gia đình
và các vị thần che chở nhà cửa, làng bản của
ngƣời Tày Bắc Kạn, chứ không đi sâu tìm
hiểu về nguồn gốc và bản chất của tín ngƣỡng
thờ cúng và cũng không có ý định tìm hiểu về
đạo thờ Vua Hùng của quốc gia dân tộc.
* Tel: 0914 892 999; Email: hanhluongthi4@gmail.com
Ngƣời Tày ở Bắc Kạn là tộc ngƣời đã cƣ trú
từ lâu đời, lại có số dân đông nhất trong toàn
tỉnh, theo điều tra dân số năm 1999, dân tộc
Tày có số dân là 149.459 ngƣời, chiếm
54,32% [3, tr.39]. Vì thế, ở vùng này ngôn
ngữ Tày cùng với tiếng phổ thông (tiếng
Kinh) đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp
giữa các dân tộc. Hơn nữa, văn hóa truyền
thống của dân tộc Tày lại rất phong phú, đa
dạng là nét đặc trƣng cho văn hóa vùng cao
Bắc Kạn, Bên cạnh những đặc điểm chung,
giống nhau còn có những nét riêng rất độc
đáo, chẳng hạn tín ngƣỡng thờ cúng Tổ tiên là
một trong những nét riêng độc đáo đó.
Theo tập tục của ngƣời Tày, nơi đặt bàn thờ
tổ tiên bao giờ cũng là gian giữa của ngôi nhà
với ba hoặc bốn ống hƣơng tùy từng dòng họ,
dù bố cục của ngôi nhà 5 gian hay 7 gian, thì
gian giữa vẫn là nơi trang trọng nhất; Còn ở
ngƣời Hmông thì chỗ thờ cúng tổ tiên luôn
nằm ở vách tƣờng (liếp). Nơi thờ làm hết sức
đơn giản, thƣờng chỉ là mảnh giấy tiền bằng
giấy bản, có hình chữ nhật dán lên vách, liếp
thuộc gian giữa của ngôi nhà. Khi cần cúng
thì cắm hƣơng xuống đất, đặt mâm cúng ngay
chân vách (liếp). Cũng có gia đình gài ống
hƣơng vào vách coi là nơi thờ tổ tiên, lại có
hộ làm bàn thờ nhƣ ngƣời Tày, Kinh
Tuy nhiên, dù bố cục và bài trí bàn thờ tổ tiên
giữa các tộc ngƣời có khác nhau, song đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 23 - 28
24
xuất phát từ quan niệm cây phải có gốc, chim
phải có tổ, con ngƣời phải có cha mẹ, dòng họ
và quê hƣơng. Trong đó dòng họ là yếu tố
hàng đầu, tên ngƣời có thể thay đổi, có thể
nhiều quê, nhƣng họ thì không thể thay đƣợc,
dù có đi làm con nuôi từ bé, khi lớn lên nếu
biết đƣợc họ mình thì vẫn phải mang lại họ
của mình. Họ chính là nguồn gốc, mỗi dòng
họ lại có một nguồn gốc riêng. Do đó, ngƣời
Tày thờ cúng dòng họ, chứ không thờ một
con ngƣời cụ thể. Vì vậy, nếu trong gia đình
có ngƣời thân qua đời, ngƣời ta phải làm đủ
các thủ tục, các nghi lễ trong thời gian trở
tang, nhƣ cúng 40 ngày, 100 ngày, 1 năm, 3
năm là lễ đoạn tang (thực tế chỉ 2 năm). Theo
quan niệm của đồng bào, sau lễ đoạn tang linh
hồn ngƣời chết sẽ đƣợc giải thoát khỏi địa
ngục để về cõi thiên đƣờng với tổ tiên, vì thế
bát hƣơng, bài vị cũng đƣợc nhập chung với
bài vị tổ tiên và đƣợc thờ cúng chung ở đó.
THỜ CÖNG TỔ TIÊN
Theo quan niệm của ngƣời Tày, linh hồn
ngƣời đã mất luôn luôn ở trên bàn thờ tổ tiên
để đƣợc gần gũi con cháu, để hàng ngày theo
dõi và giúp đỡ phù hộ cho con cháu trong
việc làm ăn. Do vậy, việc thờ cúng tổ tiên
không chỉ thể hiện lòng biết ơn đối với cha
ông, với ngƣời đã khuất mà nhiều khi còn là
sự cầu mong, sự tạ lỗi, xin tha thứ với tổ
tiên. Bởi tổ tiên luôn có sự chi phối đến số
phận tốt xấu của con cháu và có những quyền
năng khó lƣờng. Vì thế, việc thờ cúng tổ tiên
đã đƣợc duy trì qua nhiều thế hệ, chẳng ai bảo
ai mà cứ đời đời tiếp nhau thực hiện và trở
thành cốt lõi của thuần phong mỹ tục và là
hình thức thờ cúng quan trọng nhất trong đời
sống tâm linh của ngƣời Tày.
Về nội dung, hình thức và đối tƣợng thờ
cúng, cũng có nhiều loại và mức độ thờ cúng
khác nhau ít nhiều giữa các dân tộc. Ở ngƣời
Tày hình thức thờ cúng chủ yếu là thờ huyết
tộc, bên cạnh đó, cũng có một số ít hộ gia
đình ngƣời Tày thờ cúng bố mẹ vợ.
Các tổ tiên được thờ cúng:
- Thờ Tổ tiên theo huyết tộc: Trong mỗi gia
đình, việc thờ cúng tổ tiên trƣớc hết có tác
dụng củng cố mối quan hệ ruột thịt giữa
những ngƣời cùng máu mủ, dân gian có câu
“Một giọt máu đào hơn ao nƣớc lã” chính là
nói đến mối quan hệ máu mủ, huyết tộc này.
Các thế hệ tổ tiên đƣợc thờ phổ biến là 3 đời
từ cha mẹ, ông bà, cụ. Theo quan niệm của
đồng bào, bố mẹ, ông bà, các cụ là những
ngƣời trực tiếp gắn bó nuôi dƣỡng, bảo vệ,
phù hộ cho con cháu. Còn các đời, từ đời thứ
tƣ trở lên Tổ tiên biến thành thần chăm nom
nhà cửa, gia súc, tránh sự thâm nhập của các
ma quỷ lạ. Vì thế vào dịp Tết Nguyên Đán
ngƣời ta còn làm mâm cúng các vị Tổ tiên
này ở ngoài nhà (cúng ở dƣới sàn nhà đồng
bào gọi là an làng, để gia súc gia cầm không
bị toi dịch), nay nhiều gia đình đã bỏ lệ này.
Khi trong nhà có ngƣời thân vừa mới qua đời
thì không đƣợc đƣa lên cúng chung với tổ tiên
ngay mà phải thờ ở một góc riêng thấp hơn
bàn thờ tổ tiên đồng bào gọi là Bài vị (Chòong
eng), ngày nay còn có thêm tấm ảnh. Hàng
ngày, đến bữa ăn, con cháu xẻ cơm canh đặt
lên bàn thờ trong suốt 3 năm hoặc 1 năm, cũng
có nơi chỉ thực hiện trong vòng 100 ngày.
- Thờ cúng bố mẹ vợ: Việc thờ cúng bố mẹ
vợ chỉ là ngoại lệ chứ không phải là thông lệ,
thƣờng xẩy ra với những gia đình không có
ngƣời nối dõi tông đƣờng, không còn ngƣời
thừa tự theo trực hệ dòng cha, thì con gái đã
đi lấy chồng, rƣớc tổ tiên bố mẹ về thờ bên
nhà chồng. Nhƣng tổ tiên bố mẹ vợ chỉ đƣợc
cúng ở gian nhà phụ (có thể góc nhà) chứ
không đƣợc thờ chung trong gian chính của
gia đình, và không đóng vai trò trung tâm
trong nghi lễ thờ cúng của gia đình nữa.
Trong việc thờ cúng bố mẹ vợ, thƣờng chỉ thờ
cúng có một đời và những nghi lễ thờ cúng
cũng phải làm sau việc thờ cúng tổ tiên của
gia đình nhà chồng. Vậy, hồn ma tổ tiên trên
bàn thờ cƣ ngụ ở đâu? đồng bào cho rằng, hồn
ma trú ngụ trong bài vị hoặc bát hƣơng trên bàn
thờ hay trên vách thờ một cách chung chung
chứ chƣa có biểu tƣợng vật chất cụ thể.
Thiết chế bàn thờ: Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên
đã thành quy ƣớc trong việc bố trí kiến trúc
nhà ở của ngƣời Tày. Trƣớc đây đồng bào chủ
yếu ở nhà sàn 5 gian, 7 gian. Dù bố cục nhà
theo chiều dọc hay chiều ngang thì tập quán,
với số gian nhƣ thế, bao giờ gian giữa cũng là
nơi trang trọng nhất, đặt bàn thờ tổ tiên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 23 - 28
25
Bàn thờ tổ tiên trong tiếng Tày gọi Choòng
ham đƣợc đặt trang trọng tại gian giữa (phần
lớn để hƣớng phía trƣớc nhà, cũng có gia đình
để phía sau). Trƣớc bàn thờ tổ tiên gian giữa,
là nơi tiếp khách nam giới. Từ bàn thờ tổ tiên
bao quát mọi hoạt động của con cháu trong
nhà, cứ nhƣ tổ tiên vẫn hàng ngày, hàng đời
sống cùng con cháu, theo dõi, dẫn dắt mọi
công việc làm ăn của con cháu trong nhà. Bàn
thờ cúng tổ tiên của ngƣời Tày khá đơn giản,
không có hƣớng án sơn son thếp vàng nhƣ
ngƣời Kinh, có khi chỉ là một tấm ván đóng vít
vào tƣờng đủ đặt một bát hƣơng hoặc ba, bốn
bát hƣơng tùy từng gia đình. Những gia đình
khá giả, bàn thờ tổ tiên đƣợc làm cầu kỳ hơn,
có chạm trổ hình hoa, nhƣng không sơn son
thếp vàng. Bát hƣơng trên bàn thờ tổ tiên của
ngƣời Tày là thờ theo “chức danh”, không thờ
con ngƣời cụ thể, nhƣ bát hƣơng thờ tổ tiên
(thờ họ) thì đặt bên tay phải nhìn vào, thờ thổ
công chính giữa, bên tay trái thờ bà cô, ông
mãnh, cao hơn một chút phía trái thờ quan âm.
Nghi thức thờ cúng: Không có quy định bắt
buộc, đồng bào quan niệm, khi tổ tiên còn
sống ăn uống thứ gì, thì cúng giỗ tổ tiên thứ
đó trở thành lễ vật. Hàng tháng Tổ tiên đƣợc
con cháu cúng vào ngày rằm và mồng một với
nghi thức đơn giản chỉ thắp hƣơng, đèn, mời
trà hay rƣợu, có khi chỉ là nƣớc lã, ít khi có
xôi gà hay bánh kẹo. Vào những dịp lễ tết,
nhất là tết Nguyên đán và tết rằm tháng bảy,
cỗ bàn cúng Tổ tiên rất thịnh soạn, đủ các loại
bánh trái, rƣợu thịt. Khi trong gia đình có
công to việc lớn nhƣ cƣới xin, vào nhà mới, lễ
đầy tháng cháu, lễ tang ma, bàn thờ Tổ tiên
cũng đƣợc bày cỗ linh đình, tuỳ từng nội
dung công việc mà bày cỗ bàn khác nhau,
chẳng hạn đám cƣới nhất thiết bàn thờ Tổ tiên
nhà gái phải có thủ lợn của chính con lợn nhà
trai mang sang, trong khi bàn thờ nhà trai chỉ
có con gà sống thiến. Kể cả khi nhà có việc
đột xuất dù lớn hay nhỏ, nhƣ trƣớc mỗi
chuyến đi xa, trƣớc ngày lên đƣờng dự kỳ thi,
khi một trẻ thơ mới cất tiếng khóc chào đời
trong gia đình, con xin đƣợc việc làm thì
ngƣời ta đều thắp hƣơng cáo tổ tiên, thì đƣợc tổ
tiên phù hộ cho mọi việc tốt đẹp, may mắn.
Ở bàn thờ tổ tiên, ngày tết nguyên đán thƣờng
dựng hai bên, mỗi bên một đôi mía để cả
ngọn, có nhà để cả rễ. Cây mía ngọt, thể hiện
sự đoàn kết, thƣơng yêu, đùm bọc anh em
trong nhà, trong họ. Các đốt mía, biểu hiện
những nấc thang phát triển cho hiện thực cuộc
sống con cháu. Mía trở thành lễ vật cúng để
các cụ dùng làm gậy đi lại thăm nom con cháu.
Trong các dịp cúng lễ, thực hiện các nghi
thức thờ cúng chủ yếu là ngƣời cha, ngƣời
chủ gia đình. Trƣờng hợp cha mất sớm, con
còn nhỏ ngƣời mẹ sẽ trở thành ngƣời chủ trì
trong những dịp cúng lễ.
Những gia đình có ngƣời làm nghề thầy cúng
(Tào, Then, Pụt), hái thuốc chữa bệnh,... cũng
có riêng một bát hƣơng thờ Tổ sƣ nghề đƣợc
đặt cùng với gian thờ tổ tiên nhƣng ở vị trí
cao hơn và đặt chính giữa để phù hộ cho các
công việc hành nghề. Vào các dịp tết có mâm
cúng đồ chay. Đối với các thầy Tào, Then,
Pụt sau mỗi lần đi làm lễ cho gia đình nào đó,
thì gia đình đƣợc thầy làm lễ nhất thiết phải
có một con gà (gà luộc chín), vài ống gạo, một
lít rƣợu để giả lễ cho thầy. Đồ lễ này sẽ đƣợc
thầy mang về đặt lên trình báo với tổ sƣ nghề ở
nhà thầy, với hàm ý tạ ơn thánh thần đã giúp
thầy hoàn thành công việc giúp ngƣời. Nếu gia
chủ không có gà, thầy phải tự bắt gà nhà thịt để
cúng và trả ơn các thánh thần.
MỘT SỐ KIÊNG KỲ TRONG VIỆC
THỜ CÖNG TỔ TIÊN
- Những kiêng kỵ: Nhƣ đã trình bày ở phần
trên, ngƣời Tày thờ cúng Tổ tiên là thờ dòng
họ, họ chính là nguồn gốc, mỗi dòng họ lại có
một nguồn gốc riêng. Nhƣng trong cách thức
thờ cúng tổ tiên của các dòng họ cũng có cái
giống nhau, nhƣ hƣơng thắp có nhuộm chân
màu đỏ, cúng sớm tối bằng nƣớc trà mới pha,
cúng rƣợu cùng với thịt lợn, thịt gà và các loại
bánh trái tự làm, khi cúng nhà nào cũng thắp
đèn dầu, cúng xong đốt tiền (tiền bằng giấy
bản) Những giống nhau về thờ cúng tổ tiên
giữa các dòng họ thì rất nhiều, song giữa các
dòng họ lại có sự khác nhau, nhƣ họ này thì
đƣợc cúng cá, họ khác lại không, có họ đƣợc
ăn thịt trâu, thịt bò, thịt chó có họ lại kiêng,
nhất là những nhà có ngƣời làm nghề thầy cúng.
Nhƣ vậy, tùy từng dòng họ ngƣời Tày có
những kiêng kỳ riêng. Hầu hết các dòng họ
khi cúng ông bà tổ tiên không bao giờ cúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 23 - 28
26
thịt sống, thịt trâu, thịt bò, thịt ngựa. Thịt
sống chỉ để cúng cho ngƣời mới chết (bằng cả
con lợn phủ phục trƣớc linh cữu); kiêng cúng
đồ ăn thừa, không cúng rƣợu uống dở; tết
nguyên đán, rằm tháng giêng, rằm tháng bảy,
đồ cúng đều phải để nguyên miếng (thịt lợn),
cả con (gà, vịt), còn lại các lần cúng khác thịt
có thể chặt ra sắp nhƣ mâm cơm rồi cúng
cũng đƣợc. Bàn thờ của ông bà tổ tiên chỉ
đƣợc quét dọn và lau chùi vào chiều 30 tết,
lúc khác không đƣợc quét dọn, xê dịch, không
đặt các đồ vật lên bàn thờ, trừ hƣơng vàng,
ấm chén, hoa quả, bánh kẹo, không gây ồn ào,
náo động trong gian bàn thờ, khi nằm cũng
tránh không quay chân về phía bàn thờ, sản
phụ trong tháng không đi qua hoặc đến chỗ
bàn thờ tổ tiên, vì mới đẻ chƣa đủ 40 ngày
ngƣời phụ nữ vẫn bị coi là “bẩn” sẽ gây ô uế
đến chốn linh thiêng của các cụ.
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên là chính, trong các
gia đình ngƣời Tày ở Bắc Kạn còn có những
tín ngƣỡng dân gian khác liên quan tới việc
thờ cúng các vị thần phù hộ cho gia đình, làng
bản. Theo quan niệm của ngƣời Tày, thần là
một nhân vật siêu nhiên, là ngƣời trực tiếp với
cuộc sống của con ngƣời, thần là ngƣời làm
đƣợc một số việc ở một làng, một vùng. Thần
giúp con ngƣời có cuộc sống bình yên, nhƣ
con ngƣời không bệnh tật, cây trồng không
sâu bệnh, gia súc không toi dịch, xóm làng
không hỏa hoạn thiên tai.
THỜ CÖNG CÁC THẦN LINH CHE CHỞ
GIA ĐÌNH
Đồng bào Tày – Nùng có câu ngạn ngữ:
“Nặm hêết đây, Phầy hêết mjạc” nghĩa là
(Nước làm cho tốt, Lửa làm cho đẹp). Do đó,
trong các gia đình ngƣời Tày đều thờ bếp lửa
(thờ Táo Quân), “phi cằn phầy, phi pình
phầy” (ma bếp lửa). Theo quan niệm dân
gian, phi cằn phầy là vị thần giữ bếp núc, giữ
lửa, giữ gìn sự ấm cúng và quản lí mọi việc
trong gia đình, nếu để thần lửa phật ý thì nhà
cửa cũng nhƣ mọi vật đều bị cháy ra tro.
Đồng bào thờ ma bếp ngay tại bếp lửa chứ
không có bát hƣơng riêng. Dịp tết làm mâm
cúng và thắp hƣơng cạnh bếp lửa. Khi cơm
chín ma bếp lửa đƣợc ăn hƣơng, bữa ngon
đƣợc nếm trƣớc, mọi việc thăng trầm, hoà khí
hay lục đục trong nhà ma bếp đều hiểu rõ. Do
đó, đồng bào kiêng nói to tiếng, khóc lóc bên
bếp lửa, không gõ vào kiềng, vào khung gỗ
giữ đất bếp lửa, không đun củi bẩn, (nhất là
những cây bị sét đánh, cây khiêng nhà
táng). Hàng năm cứ vào ngày 23 tháng
Chạp âm lịch, gia đình làm lễ đƣa Táo Quân
lên trời báo cáo Ngọc Hoàng công việc của
hộ mình quản lý nơi hạ giới. Đến ngày
mồng một đầu năm (Tết) Ngọc Hoàng sai
một Táo Quân mới đến thay thế, cho nên
ngƣời ta cúng vị thần này vào ngày 23
tháng chạp và mồng một đầu năm.
Khi con ra ở riêng, không đƣợc xin lửa gia
đình khác, mà phải chia lửa từ bếp lửa của
nhà bố mẹ cho con cái và đây cũng là một
nghi lễ quan trọng trong lễ vào nhà mới.
Đúng ngày giờ tốt, mở đầu lễ vào nhà mới
bằng nghi thức, thầy (hoặc một ngƣời có tƣ
cách đạo đức tốt, đông con cháu, cần cù làm
ăn, sản xuất giỏi) cầm bó đuốc cháy to châm
lửa từ nhà bố mẹ đẻ sang nhóm ở bếp giữa
nhà của nhà mới. Trong khi châm lửa, những
ngƣời có mặt đều cùng hô to “ún bấu táy
phầy, đây bấu táy pò mè” (ấm không gì bằng
lửa, tốt không gì bằng vợ chồng). Đồng bào
tin rằng hô nhƣ thì vậy gia đình sẽ hạnh phúc
và làm ăn dễ dàng. Ngƣời ta cố giữ cho lửa
cháy liên tục trong ba ngày không để tắt, vừa
gây không khí ấm áp trong nhà, đồng thời
cũng với ý nghĩa là lửa hãy thiêu hủy đi những
gì gọi là rủi ro, xua đuổi tà ma ám khí, vừa làm
cho nguyên vật liệu nhà mới đƣợc khô ráo.
Trong nghi lễ ma chay ở huyện Chợ Đồn, có
tục đốt lửa hơ xung quanh 4 góc áo quan
trƣớc khi đƣa ma ra khỏi nhà. Trên đƣờng
khiêng quan tài, ngƣời ta dùng các bó đuốc
lớn hơ phía dƣới áo quan. Sau khi chôn cất
xong, các con cháu cởi bỏ đồ tang hơ qua lửa,
với ý nghĩa là chiêu hồn cho ngƣời sống, kỳ
ma ngƣời chết và các loại ma quỷ khác theo
ngƣời sống về nhà. Có thể nói, lửa là vật
thiêng, là thần che chở gia đình. Vì vậy, trong
ý thức tâm linh của ngƣời Tày lửa đƣợc quan
niệm linh thiêng trong đời sống của họ.
Phổ biến ở mọi gia đình ngƣời Tày, còn có
bàn thờ Mẻ bjoóc hay Mẻ va (Mẹ Hoa), ngƣời
Kinh gọi là bà Mụ. Thờ Mẻ bjoóc cũng giống
nhƣ hình thức thờ Mẫu trong tín ngƣỡng dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 23 - 28
27
gian của ngƣời Kinh. Nhƣng tín ngƣỡng thờ
Mẫu của ngƣời Kinh đƣợc phát triển thành hệ
thống thờ cúng có quy mô rất bề thế “Tam
Tòa Thánh Mẫu”, còn ở ngƣời Tày, tín
ngƣỡng thờ Mẫu tuy không phát triển bề thế
nhƣng nó giữ một vị trí hết sức quan trọng
trong đời sống tâm linh của đồng bào. Mẻ Va
trong thơ, then Tày – Nùng còn đƣợc gọi là
“Hoa Nƣơng Thánh Mẫu” là vị thần cai quản
việc nhân duyên, sinh nở nuôi dậy và bảo vệ
trẻ em. Bà ở trên cõi mƣờng phạ, bà có một
vƣờn đầy hoa. Hễ ngắt tặng nhà nào hoa bạc
thì sinh con gái, hoa vàng thì sinh con trai.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng cái thai
trong bụng mẹ là một bông hoa đƣợc bà mụ
ban cho, do đó, bàn thờ Mẹ Hoa đƣợc lập
hôm trẻ đầy tháng (thậm chí có nhà 3 ngày đã
đặt bàn thờ Mụ), ngƣời ta làm ống hƣơng
bằng nứa cắm vào vách buồng ngƣời mẹ và
tấm phản nhỏ để đặt lễ. Cũng có gia đình bàn
thờ bà mụ đƣợc đóng rất cẩn thận ngay cửa
buồng của ngƣời mẹ. Nhà có bao nhiêu con
dâu thì bấy nhiêu bàn thờ mẻ bjoóc ngay vách
buồng của ngƣời mẹ. Bàn thờ bà mụ cũng
đƣợc thắp hƣơng nhƣ các bàn thờ khác trong
nhà, cúng lễ là đùi gà, bánh coóc mò, bánh
kẹo Hễ ông bà, cha mẹ đi đâu về có quà
bánh phải đặt lên đó mời mẹ bjoóc trƣớc rồi
mới cho trẻ ăn. Nếu đôi vợ chồng nào lấy
nhau lâu mà chƣa có con, thì phải làm lễ xin
Mẹ Hoa ban hoa (ban con), đồng bào gọi đó
là “Lễ bắc cầu xin hoa”, nên tục ngữ Tày có
câu “Mẻ bjoóc păn mà, mẻ va păn hẩư” (Mẹ
hoa phân về, mẹ hoa chia cho).
Bên cạnh các hình thức thờ cúng nêu trên,
trong đồng bào Tày còn phổ biến hình thức
thờ cúng thổ công. Nơi thờ cúng thổ công
không hoàn toàn giống nhau, có vùng để ngay
bàn thờ tổ tiên, cũng có gia đình, có vùng lại
để ngoài sàn Theo quan niệm của đồng bào
thổ công sẽ giúp cho gia đình xua đuổi các tà
ma ra khỏi khu vực nhà ở, trông nom gia súc
khỏi nanh vuốt của hổ, báo làm cho gia súc
sinh sôi chật chuồng, con ngƣời đƣợc bình
yên, hạnh phúc.
Trong phạm vi bản hay liên bản của ngƣời
Tày đều có hình thức thờ thần bản mệnh của
cộng đồng bản, phổ biến nhất là miếu thờ thổ
thần và đình thờ Thành Hoàng làng.
THỜ THẦN BẢN MỆNH CỦA LÀNG BẢN
Do sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp,
trong điều kiện còn phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên: Thời tiết, khí hậu, đất đai và xuất phát
từ quan niệm “Vạn vật hữu linh”, đồng bào
tin rằng, trong thiên nhiên cũng có nhiều lực
lƣợng siêu nhiên tác động đến cuộc sống an
khang thịnh vƣợng, trƣờng tồn của cộng đồng
làng bản. Cũng tƣơng tự nhƣ thế, ở bất cứ nơi
nào trên mặt đất nhƣ rừng núi, đồng ruộng,
đất đai, sông suối đều có các thần linh cai
quản. Do đó, khi tiến hành khai phá trồng trọt
đều phải xin phép các thần linh. Thần linh có
loại lành và loại dữ. Loại dữ không đƣợc thờ
cúng thƣờng xuyên, chỉ khi nào ngƣời, vật bất
an ngƣời ta mới cúng. Còn loại lành là những
phúc thần luôn phù hộ, bảo vệ con ngƣời, nên
đƣợc con ngƣời thờ cúng chu đáo, không chỉ
mang tính chất từng gia đình mà còn mang
tính chất cả cộng đồng làng bản.
- Thần thổ địa: Là vị thần bảo vệ làng bản,
núi rừng, phạm vi đất đai, cây trồng, gia súc.
Nguồn gốc của thần linh này xuất phát từ
quan niệm “Vạn vật hữu linh”, có loại chỉ là
những thần linh, ma quỷ trú ngụ ở gốc cây to,
các hòn đá lớn, trong thẳm, các vũng nƣớc
sâu. Có loại là những hồn ngƣời chết vào giờ
thiêng – hồn ma trở nên mạnh mẽ đã đánh
đuổi các thổ thần ngự trị trong một vùng. Có
loại là những nhân vật lịch sử khi chết đƣợc
thƣợng đế phong làm thổ địa (nhƣ Nùng Trí
Cao, Nùng Văn Vân, ).
Theo quan niệm của ngƣời Tày, các vị thần
này có công lao xây dựng làng bản, có công
dẹp giặc, nên khi qua đời, họ đƣợc dân bản
nhớ ơn, thờ làm thần bản mệnh, nhƣ ở một số
bản thuộc xã Yên Thịnh (Chợ Đồn) thờ phúc
thần họ Ma (dòng họ thổ ty từ Tuyên Quang
sang) đã có công khai phá rừng rậm, tạo dựng
đồng ruộng, làng bản [2, tr. 87, 88]. Ngoài ra,
còn có thổ địa là lực lƣợng siêu nhiên đã đƣợc
thần thánh hoá. Đa số các vị thần này không
có tên mà chỉ đƣợc gọi chung là “thổ thần”.
Nơi thờ thần thƣờng ở đầu hay cuối làng bản,
tại một gốc cây to hoặc chân núi đá, nơi có
nhiều ngƣời qua lại. Ngƣời ta làm một cái
miếu nhỏ với đôi gắp gianh, đặt một ống
hƣơng. Vào dịp tết Nguyên Đán hay dịp lễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Lƣơng Thị Hạnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 79(03): 23 - 28
28
cầu mùa, các gia đình trong bản mang lễ vật,
hƣơng hoa tập trung ở miếu để cúng thổ thần.
Khi trong làng có ngƣời chết, có trẻ nhỏ mới
sinh, xây dựng công trình, đào móng nhà
đều thắp hƣơng báo cho thổ thần biết.
- Thờ Thành hoàng
Bên cạnh sự phổ biến của miếu thờ thổ thần
là sự xuất hiện rải rác của những ngôi đình
thờ Thành Hoàng còn gọi là ma làng. Trong
quan niệm của ngƣời Tày nhiều khi đình còn
bao gồm cả đền. Vì vậy, tục thờ Thành Hoàng
của ngƣời Tày mang ý nghĩa dân gian sâu sắc,
nó đa dạng, ngoài thờ Thần Nông, đình còn
thờ những ngƣời có công khai phá đất đai, lập
bản, thờ phúc thần có công dẹp giặc và cả các
tà thần khác cầu mong cho bản mƣờng bình
yên nhƣ: Đình Đông Khăm xã Bằng Phúc thờ
hung thần Lƣơng Đình Xe, Lộc Đình Hồi;
Đình Nà Ngần xã Thƣợng Quan thờ Đinh
Quang Tƣơng, Chu Quang Hầu là ngƣời có
công khai phá vùng đất này; Đình xã Cao Kỳ;
Đình bản Tầu Đâu xã Cao Thƣợng thờ thần
Dƣơng Tự Minh...
Khác với thờ thổ công chỉ cắm hƣơng vào
gốc cây hoặc làm miếu nhỏ lợp đôi ba gắp
gianh, thì nhà thờ Thành Hoàng thƣờng làm
3 gian, ở nơi cao ráo, xa nhà, có ngƣời trông
coi thắp hƣơng gọi là Pò Thại. Thực trạng
các đình miếu thờ Thành Hoàng ngày nay ở
hầu khắp các vùng của tỉnh Bắc Kạn đã đổ
nát, chỉ còn lại dấu tích nhƣ sân đình, bãi vui
chơi, cây đa cổ thụ hoặc một số đoạn tƣờng
thành nhƣ các đình ở xã Yên Thịnh. Còn
việc thờ cúng Thành Hoàng hiện nay gần
nhƣ đã mất hẳn.
Tóm lại; Thờ cúng tổ tiên và các thần che
chở cho gia đình của ngƣời Tày Bắc Kạn đáp
ứng đƣợc nhu cầu tâm linh của đồng bào;
dân dã mà sâu sắc, sinh động mà quy củ, đơn
giản mà bền vững, là sự tƣởng nhớ những
ngƣời có công trong việc tạo lập cuộc sống
ngày nay trong mỗi gia đình và làng bản.
Đây là nét đẹp trong văn hóa của ngƣời Tày
Bắc Kạn cần đƣợc bảo lƣu và gìn giữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phan Kế Bính (1975), Việt Nam Phong tục,
Nxb Bút Việt, Sài Gòn.
[2]. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn (1999), Tín
ngưỡng dân gian Tày lịch sử và hiện tại, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, Mã số: B98-05-10.
[3]. Hà Văn Viễn, Lƣơng Văn Bảo, Lâm Xuân
Đình, Triệu Kim Văn, Bàn Tuấn Năng, Đàm Thị
Uyên, Hoàng Thị Lan (2004); Bản sắc và truyền
thống văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
[4]. Đặng Nghiêm Vạn (2007), Văn hóa Việt Nam
đa tộc người, Nxbản Giáo dục, Hà Nội.
SUMMARY
THE PRACTICE OF WORSHIPING ANCESTORS AND THE GODS
PROTECTING THE FAMILIES OF THE TAY PEOPLE IN BAC KAN, VIETNAM
Luong Thi Hanh
*
College of Sciences - Thai Nguyen University
Ancestor worship of the Tay people is a human conscious activity, which shows their gratitude and
tribute towards their original point. The basis of the sense of ancestor worship is the belief that
ancestral spirits still live with their descendents and can protect and bless them. Therefore, in terms
of morality, the sense of ancestors has profound human values and it helps initialize human
kindness in each individual in the social community.
Ancestral worship is one of the leading forms of belief not only in the Tay minority but also in all
ethnic groups of our country. There are almost no families that do not worship their ancestors or
practice rituals according to the traditions of the family and community. Ancestral worship has
become a tradition, an ethical standard a human principle, and an important part of the spiritual life
of the Tay people in particular and Vietnamese people in general. It's a beautiful tradition which
helps educate about traditions for all generations.
Keywords: Ancestor; Worship; Belief; Culture; Spirit; Altar; Blood race; taboo
*
Tel: 0914 892 999; Email: hanhluongthi4@gmail.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33360_37181_492012812374_0491_2052413.pdf