KẾT LUẬN
Với 3 vùng chim quan trọng và 268 loài
chim đã được ghi nhận, trong đó có 12 loài bị
đe dọa cấp quốc gia và toàn cầu và nhiều loài
đặc hữu, VQG Bidoup - Núi Bà đóng vai trò
quan trọng trong việc gìn giữ, bảo tồn các loài
chim có tầm quan trọng tầm quốc gia và quốc
tế. Đặc điểm khu hệ chim của VQG gần gũi với
khu hệ chim VQG Chư Yang Sin nhưng có
nhiều điểm khác biệt với khu hệ chim ở vùng
chuyển tiếp và đất thấp Nam bộ.
Khảo sát này đã ghi nhận trực tiếp 106 loài
chim thuộc 41 họ, 12 bộ trong đó bổ sung một
loài mới cho khu hệ chim Việt Nam và 12 loài
ghi nhận mới cho khu hệ chim VQG Bidoup -
Núi Bà. Ngoài ra, kết quả này cũng đã bổ sung
dẫn liệu về phân bố của một số loài quan trọng.
Có sự khác biệt khá lớn về thành phần các
loài chim trong các sinh cảnh khảo sát. Sinh
cảnh rừng thường xanh đóng vai trò quan trọng
nhất, là nơi sinh sống của hơn 64% số loài ghi
nhận được trong khảo sát này, trong đó có 3 loài
đặc hữu.
10 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 686 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành phần loài chim tại vườn quốc gia Bidoup - núi Bà, tỉnh Lâm Đồng - Phùng Bá Thịnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 30-39
30
THÀNH PHẦN LOÀI CHIM
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP - NÚI BÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
Phùng Bá Thịnh1, Nguyễn Hào Quang1, Lê Khắc Quyết2,3, Hoàng Minh Đức1*
(1)Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, (*)ducthao71@yahoo.com
(2)Đại học Khoa học tự nhiên Hà Nội
(3)Đại học Colorado at Boulder, Colorado, Hoa Kỳ
TÓM TẮT: Vườn quốc gia (VQG) Bidoup - Núi Bà với tổng diện tích 64.800 ha, nằm trên địa bàn 2
huyện Lạc Dương và Đam Rong, tỉnh Lâm Đồng. VQG Bidoup-Núi Bà được đánh giá là một trong những
vùng chim quan trọng tầm quốc gia và quốc tế, với 256 loài chim đã được ghi nhận, trong đó có các loài
chim quý hiếm như trĩ sao (Rheinardia ocellata), mi langbian (Crocias langbianis), khướu đầu đen má
xám (Garrulax yersini) và sẻ thông họng vàng (Carduelis monguillot). Qua bốn đợt khảo sát từ tháng
11/2009 đến tháng 3/2012, chúng tôi đã ghi nhận bằng hình ảnh được 106 loài, bổ sung thêm 12 loài vào
danh lục chim của VQG Bidoup - Núi Bà, trong đó, ghi nhận một loài mới, bổ sung cho khu hệ chim
Việt Nam, nâng tổng số loài chim của VQG lên 268 loài. Bảy loài chim nằm trong Sách Đỏ Việt Nam
(2007) và Danh lục các loài bị đe doạ của IUCN (2011) và năm loài đặc hữu cũng được ghi nhận.
Từ khóa: Khu hệ chim, loài đặc hữu, ghi nhận mới, vùng chim quan trọng, VQG Bidoup Núi Bà.
MỞ ĐẦU
Nằm trên địa bàn 2 huyện Lạc Dương và
Đam Rong, tỉnh Lâm Đồng với tổng diện tích
64.800 ha, VQG Bidoup - Núi Bà là nơi bảo tồn
các hệ sinh thái rừng á nhiệt đới núi cao trung
bình và các loài động, thực vật quan trọng của
khu vực Nam Trường Sơn 3 [1]. Đây cũng là
khu rừng đóng vai trò phòng hộ đầu nguồn của
hệ thống sông Đồng Nai và Srepok, là nơi bảo
tồn cảnh quan và các đặc trưng văn hóa bản địa
của tỉnh Lâm Đồng và vùng Tây Nguyên [21].
VQG Bidoup - Núi Bà nằm trong vùng chim
đặc hữu cao nguyên Đà Lạt, là VQG duy nhất ở
Việt Nam có ba vùng chim quan trọng tầm quốc
gia và quốc tế là Cổng Trời, Bidoup và Núi Bà
[19], với các loài chim quan trọng như trĩ sao
(Rheinardia ocellata), trèo cây mỏ vàng (Sitta
solangiae), khướu đầu đen (Garrulax milleti),
khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui), mi langbian
(Crocias langbianis) và sẻ thông họng vàng
(Carduelis monguillot) [6, 19].
Các nghiên cứu về khu hệ chim của cao
nguyên Đà Lạt đã được tiến hành rất sớm,
khoảng gần 100 năm trước. Robinson và Kloss
(1919) [15] đã mô tả một số loài ở khu vực này
như loài khướu hông đỏ (Cutia legalleni) và
khướu đầu đen Garrulax miletti. Những khảo
sát tiếp theo của Delacour và Jabouille trong
thập niên 20 và 30 của thế kỷ XX được xem là
kết quả đầu tiên về thành phần khu hệ chim của
vùng cao nguyên này [4, 5, 6]. Năm 1938, khảo
sát của nhà sưu tập chim người Thuỵ Điển
Bertil Björkegren trong khu vực này đã phát
hiện một giống và loài mới, đó là loài mi
langbian (Crocias langbianis) [6].
Do những biến động về chính trị và chiến
tranh, nghiên cứu chim ở phía Nam nói chung
và khu vực cao nguyên Đà Lạt nói riêng tạm
ngừng cho đến những năm 90 của thế kỷ XX
với khảo sát của của Craig Robson et al. (1993)
[17] từ tháng 9/1989 đến tháng 3/1990. Các tác
giả đã ghi nhận được 111 loài tại hai khu vực
núi Lang Biang và Cổng Trời. Các khảo sát tiếp
theo từ tháng 4 đến tháng 7/1991 tại nhiều vùng
của Việt Nam và đã ghi nhận được 130 loài
riêng cho một số khu vực, nay thuộc VQG
Bidoup - Núi Bà [18]. Từ tháng 11 năm 1993
đến tháng 2 năm 1994, khảo sát của Birdlife về
các loài chim đặc hữu của vùng cao nguyên Đà
Lạt cũng ghi nhận thêm 64 loài chim tại các địa
điểm núi Bidoup/Gia Rích, Núi Bà và Cổng
Trời [6]. Khảo sát của Viện Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật năm 2003 ở khu vực núi
Bidoup đã ghi nhận 160 loài [12]. Năm 2002 và
2009 Trung tâm Nhiệt đới Việt Nga thực hiện
khảo sát tại các khu vực trạm Kiểm lâm Yang
Ly và núi Bidoup thuộc VQG Bidoup - Núi Bà
Phung Ba Thinh, Nguyen Hao Quang, Le Khac Quyet, Hoang Minh Duc
31
và Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Hòn Bà
(Khánh Hòa), đã ghi nhận được 158 loài, trong
đó có 135 loài trong khu vực VQG Bidoup -
Núi Bà [13]. Mahood et al. (2009) [11], cũng
ghi nhận một số loài chim có tầm quan trọng
quốc tế như trĩ sao (Rheinardia ocellata), mi
langbian (Crocias langbianis), khướu đầu đen
(Garrulax milleti), khướu trung bộ (Garrulax
annamensis), sẻ thông họng vàng (Carduelis
monguilotti), trèo cây mỏ vàng (Sitta solangiae)
và khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui).
Như vậy, trước nghiên cứu này, kết quả
tổng hợp danh lục các loài chim của VQG
Bidoup - Núi Bà là 256 loài. Mặc dù vậy, các
cuộc khảo sát trước đây thường tập trung ở một
vài tiểu khu trong khi hiện trạng của các loài
chim ở những khu vực hẻo lánh vẫn chưa được
nghiên cứu chi tiết. Hơn nữa, nhiều nghiên cứu
đã thực hiện hàng chục năm trước trong khi
những biến động về diện tích và chất lượng
rừng ngày càng diễn ra rất nhanh. Bài báo này
trình bày kết quả khảo sát của Trung tâm Đa
dạng sinh học và phát triển, Viện Sinh học nhiệt
đới từ tháng 11 năm 2009 đến tháng 03/2012 tại
các khu vực Hòn Giao - Yang Ly, Cổng Trời,
Lang Biang, các Tiểu khu 60, 76, 77, 85 và 86
của VQG Bidoup - Núi Bà.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và thời gian
Điều tra thực địa được tiến hành tại các kiểu
sinh cảnh chính, bao gồm rừng thường xanh
trên núi trung bình, rừng hỗn giao cây lá rộng
và cây hạt trần, rừng thông. Thời gian và các địa
điểm điều tra chim cụ thể ở VQG Bidoup - Núi
Bà được chỉ ra trong bảng 1.
Bảng 1. Địa điểm và thời gian khảo sát
STT Địa điểm Thời gian khảo sát
1 Tiều khu rừng số 60,76,77 Từ ngày 22/11/2009 - 02/12/2009
2 Tiểu khu rừng 85,86 Từ ngày 14/03/2010 - 25/3/2010
3 Khu vực Langbian, Hòn Giao và Yang Ly Từ ngày 11/11/2011 - 19/11/2011
4 Khu vực Cổng Trời Từ ngày 19/03/2012 - 26/03/2012
Phương pháp điều tra
Các đợt điều tra thực địa được tiến hành vào
ban ngày bằng cách đi bộ với tốc độ chậm,
trung bình từ 1-1,5 km/h. Thời gian điều tra
chim tập trung vào thời điểm các loài chim hoạt
động nhiều nhất trong ngày, buổi sáng sớm từ
khoảng 05h00 đến gần trưa khoảng lúc 11h00
và buổi chiều từ khoảng 14h00 đến 17h00
chiều.
Dụng cụ hỗ trợ nghiên cứu gồm có: ống
nhòm Nikkon (10 × 42) dùng để quan sát chim;
máy chụp hình Canon (40D + telezoom 100-
400) để ghi lại hình ảnh chim và sinh cảnh;
lưới mờ: 04 tấm, loại có kích thước (2,6 m × 6
m) đã được sử dụng để bắt các loài di chuyển
nhanh hoặc sống trong các bụi rậm khó phát
hiện; máy ghi âm loại Marantz (PMD660) sử
dụng để ghi tiếng chim, và dụ chúng đến gần để
dễ quan sát.
Xác định thành phần loài
Các loài chim được định tên bằng phương
pháp quan sát hình thái bên ngoài dựa vào các
tài liệu Nguyễn Cử và nnk. (2004) [14] và
Robson (2008) [16]. Đồng thời, dựa trên tiếng
hót bằng cách sử dụng băng ghi tiếng hót của
chim đã thực hiện được tại hiện trường với
những đoạn băng ghi âm khác của Birds of
Tropical Area 3.
Tên khoa học và hệ thống sắp xếp theo
Inskipp (1996) [8], tên phổ thông tiếng Việt sử
dụng theo Võ Quí, Nguyễn Cử (1995) [20].
Tình trạng bảo tồn của các loài được xác
định theo Sách Đỏ Việt Nam (2007) [2] và
Danh lục các loài bị đe doạ của IUCN (2011)
[9].
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thành phần loài
Qua các đợt khảo sát, chúng tôi ghi nhận
được 106 loài thuộc 41 họ và 12 bộ (bảng 2),
chiếm 39,6% số loài, 77,4% số họ và 80,0% số
bộ chim hiện có ở VQG sau khi tổng hợp với
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 30-39
32
các kết quả được công bố trước đây [6, 12, 13,
17, 18]. Nghiên cứu này cũng bổ sung thêm 12
loài vào danh lục chim của VQG Bidoup - Núi
Bà, trong đó, có một loài ghi nhận mới cho Việt
Nam, nâng tổng số loài chim của VQG lên 268
loài, thuộc 53 họ và 15 bộ.
Bảng 2. Danh lục các loài chim ghi nhận qua các khảo sát từ 11/2009 - 3/2012
STT Tên khoa học Tên Việt Nam Sinh cảnh Ghi chú
GALLIFORMES Bộ Gà
Phasianidae Họ Gà
1 Gallus gallus (Linnaeus, 1758) Gà rừng RLR
2 Lophura nycthemera annamensis Ogilvie Grant, 1906 Gà lôi vằn RLR 1: LR
PICIFORMES Bộ Gõ kiến
Picidae Họ Gõ kiến
3 Dendrocopos canicapillus (Blyth, 1845) Gõ kiến nhỏ đầu xám RTB
4 Picus flavinucha Gould, 1834 Gõ kiến xanh gáy vàng RLR
5 Jynx torquilla Linnaeus, 1758 Vẹo cổ RTB *
6 Chrysocolaptes lucidus (Scopoli, 1786) Gõ kiến vàng lớn RTB, RLR
Megalaimidae Họ Cu rốc
7 Megalaima franklinii (Blyth, 1842) Cu rốc đầu vàng RTB, RLR
8 Megalaima oorti (Müller, 1836) Cu rốc trán vàng RLR
9 Megalaima australis (Hors field, 1821) Cu rốc đầu đen RLR *
10 Megalaima haemacephala Statius Müller, 1776 Cu rốc cổ đỏ RLR *
BUCEROTIFORMES Bộ Mỏ sừng
Bucerotidae Họ Hồng hoàng
11 Anthracoceros albirostris (Shaw & Nodder, 1807) Cao cát bụng trắng RTB
TROGONIFORMES Bộ Nuốc
Trogonidae Họ Nuốc
12 Harpactes erythrocephalus (Gould, 1834) Nuốc bụng đỏ RVS, RLR
CORACIIFORMES Bộ Bói cá
Alcedinidae Họ Sả
13 Alcedo hercules Laubmann, 1917 Bồng chanh rừng RVS 2: NT
14 Halcyon smyrnensis (Linnaeus, 1758) Sả đầu nâu RVS
CUCULIFORMES Bộ Cu cu
Cuculidae Họ Cu cu
15 Cuculus micropterus Gould, 1837 Bắt cô trói cột RLR
16 Phaenicophaeus tristis (Lesson, 1830) Phướn, Coọc RLR
PSITTACIFORMES Bộ Vẹt
Psittacidae Họ Vẹt
17 Psittacula alexandri (Linnaeus, 1758) Vẹt ngực đỏ RLR
COLUMBIFORMES Bộ Bồ Câu
Columbidae Họ Bồ Câu
18 Streptopelia chinensis (Scopoli, 1768) Cu gáy, Cu đất RTB, RLR
19 Treron apicauda Blyth, 1846 Cu xanh đuôi nhọn RLR
20 Treron seimundi (Robinson, 1910) Cu xanh Seimun RLR *
Phung Ba Thinh, Nguyen Hao Quang, Le Khac Quyet, Hoang Minh Duc
33
21 Treron sphenura (Vigors, 1832) Cu xanh sáo RLR
22 Treron sieboldii (Temminck, 1835) Cu xanh bụng trắng RLR
23 Ducula badia (Raffles, 1822) Gầm ghì lưng nâu RLR
24 Macropygia unchall (Wagler, 1827) Gầm ghì vằn RLR
GRUIFORMES Bộ Sếu
Turnicidae Họ Cun cút
25 Turnix suscitator (Gmelin, 1789) Cun cút lưng nâu RTB
ACCIPITRIIFORMES Bộ Chim ăn thịt
Pandionidae Họ Ó cá
26 Pandion haliaetus (Linnaeus, 1758) Ó cá RVS
Accipitridae Họ Diều
27 Ictinaetus malayensis (Temminck, 1822) Đại bàng Mã Lai RLR
28 Nisaetus nipalensis Hogson, 1836 Diều núi RLR
29 Pernis ptilorhyncus Temminck, 1821 Diều ăn ong RLR
CICONIIFORMES Bộ Cò
Ardeidae Họ Cò
30 Egretta garzetta (Linnaeus, 1766) Cò trắng RVS
31 Ardeola bacchus (Bonaparte, 1855) Cò bợ RVS
32 Butorides striata (Linnaeus, 1758) Cò xanh RVS
PASSERIFORMES Bộ Sẻ
Pittidae Họ Đuôi cụt
33 Pitta soror Wardlaw-Ramsay, 1881 Đuôi cụt đầu đỏ RVS
Eurylaimidae Họ Mỏ rộng
34 Serilophus lunatus (Gould, 1834) Mỏ rộng hung RLR *
Irenidae Họ Chim lam
35 Irena puella (Latham, 1790) Chim lam RLR
Aegithinidae Họ Chim nghệ
36 Aegithina tiphia (Linnaeus, 1758) Chim nghệ ngực vàng RLR *
Chloropseidae Họ Chim xanh
37 Chloropsis hardwickii (Jardine và Selby, 1830) Chim xanh họng vàng RLR
Laniidae Họ Bách thanh
38 Lanius cristatus (Linnaeus, 1758) Bách thanh mày trắng RTB *
39 Lanius schach Linnaeus, 1758 Bách thanh đuôi dài RTB *
40 Lanius collurioides Lesson, 1834 Bách thanh nhỏ RTB
Corvidae Họ Quạ
41 Garrulus glandarius (Linnaeus, 1758) Quạ thông RTB
42 Corvus splendens Vieillot, 1817 Quạ nhà RTB **
Artamidae Họ Nhạn rừng
43 Artamus fuscus Vieellot, 1817 Nhạn rừng RTB
Oriolidae Họ Vàng anh
44 Oriolus chinensis Linnaeus, 1766 Vàng anh Trung Quốc RTB
45 Oriolus traillii (Vigors, 1832) Tử anh RLR
Rhipiduridae Họ Rẽ quạt
46 Rhipidura albicollis (Vieillot, 1818) Rẻ quạt họng trắng RTB, RLR
Monarchidae Họ Thiên đường
47 Terpsiphone paradise (Linnaeus, 1758) Thiên đường đuôi phướn RVS
Campephaidae Họ Phường chèo
48 Pericrocotus ethologus Bangs & Philips, 1914 Phường chèo đỏ đuôi dài RTB
Dicruridae Họ Chèo bẻo
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 30-39
34
49 Dicrurus leucophaeus Vieillot, 1817 Chèo bẻo xám RTB
50 Dicrurus aeneus Vieillot, 1817 Chèo bẻo rừng RLR
51 Dicrurus remifer (Temmick, 1823) Chèo bẻo cộ đuôi bằng RLR
Turnidae Họ Hoét
52 Myophonus caeruleus (Scopoli, 1186) Hoét xanh RVS
53 Zoothera dauma (Latham, 1790) Sáo đất RTB, RLR
Muscicapidae Họ Đớp ruồi
54 Muscicapa dauurica Pallas, 1811 Đớp ruồi nâu RVS, RLR
55 Eumyias thalassina Swainson, 1838 Đớp ruồi xanh xám RLR
56 Niltava grandis (Blyth, 1842) Đớp ruồi lớn RLR
57 Culicicapa ceylonensis (Swainson, 1820) Đớp ruồi đầu xám RVS, RLR
58 Ficedula westermanni (Sharpe, 1888) Đớp ruồi đen mày trắng RLR
59 Enicurus schistaceus (Hodgson, 1836) Chích chòe nước trán trắng RVS
60 Rhyacornis cyanomelana Vigors, 1831 Đuôi đỏ xanh RLR *
61 Saxicola ferreus (Gray, 1846) Sẻ bụi xám RTB
62 Cyanoptila cyanomelana (Temminck, 1829) Đớp ruồi Nhật Bản RLR *
63 Ficedula mugimaki (Temminck, 1815) Đớp ruồi Mugi RLR
Sturnidae Họ Sáo
64 Sturnus nigricollis (Paykull, 1807) Sáo sậu RTB
Sittidae Họ Trèo cây
65 Sitta nagaensis Godwin-Austen, 1874 Trèo cây bụng hung RTB
66 Sitta solangiae (Delacour & Jabouille, 1930) Trèo cây mỏ vàng RLR 1: LR, 2: NT
Certhiidae Họ Đuôi cứng
67 Certhia manipurensis Hume, 1881 Đuôi cứng RLR
Paridae Họ Bạc má
68 Parus monticolus Vigors, 1831 Bạc má bụng vàng RTB
69 Parus spilonotus Bonaparte, 1850 Bạc má mào RTB, RLR
Aegithalidae Họ Bạc má đuôi dài
70 Aegithalos concinnus (Gould, 1855) Bạc má đuôi dài RTB, RLR
Pycnonotidae Họ Chào mào
71 Pycnonotus atriceps (Temminck, 1822) Chào mào vàng đầu đen RTB
72 Pycnonotus melanicterus (Gmelin, 1789) Chào mào vàng mào đen RLR
73 Pycnonotus jocosus (Linnaeus, 1758) Chào mào RTB
74 Pycnonotus flavescens Blyth, 1845 Bông lau vàng RTB
75 Hypsipetes leucocephalus Müller, 1776 Cành cạch đen RTB, RLR
76 Hemixos flavala Blyth, 1845 Cành cạch xám RLR
77 Hypsipetes mcclellandii (Horsfield, 1840) Cành cạch núi RLR
78 Iole propinqua (Oustalet, 1930) Cành cạch nhỏ RLR
Cisticolidae Họ Chiền chiện
79 Prinia atrogularis (Moore, 1854) Chiền chiện núi họng trắng RTB
Sylviidae Họ Chích
80 Phylloscopus borealis (Blasius, H, 1858) Chích Phương Bắc RLR
81 Seicercus affinis (Hodgson, 1854) Chích đớp ruồi mày đen RLR
82 Phylloscopus reguloides Blyth, 1842 Chích đuôi xám RLR
Phung Ba Thinh, Nguyen Hao Quang, Le Khac Quyet, Hoang Minh Duc
35
Timaliidae Họ Khướu
83 Mesia argentauris (Hodgson, 1837) Kim oanh tai bạc RTB, RLR
84 Cutia legalleni Robinson & Kloss, 1919 Khướu hông đỏ RTB, RLR
85 Pteruthius flaviscapis (Temminck, 1835) Khướu mỏ quặp mày trắng RLR
86 Stachyris ruficeps Blyth, 1847 Khướu bụi đầu đỏ RLR
87 Stachyris nigriceps Blyth, 1844 Khướu bụi đầu đen RLR
88 Dryonastes chinensis (Scopoli, 1786) Khướu bạc má RLR
89 Dryonastes vassali (Ogilvie-Grant, 1906) Khướu đầu xám RTB, RLR
90 Garrulax milleti Robinson & Kloss, 1919 Khướu đầu đen RLR 1: LR, 2: NT
91 Pomatorhinus schisticeps Hodgson, 1836 Họa mi đất mày trắng RTB, RLR
92 Chrysomma sinense Gmelin, 1789 Họa mi mỏ ngắn RTB *
93 Alcippe peracensis Sharpe, 1887 Lách tách vành mắt RLR
94 Alcippe klossi Delacour & Jabouille, 1919 Lách tách đầu đốm RLR
95 Malacias desgodinsi (Oustalet, 1877) Mi đầu đen RTB, RLR
96 Pomatorhinus ochraceiceps Walden, 1873 Họa mi đất mỏ đỏ RLR
97 Crocias langbianis Gyldenstolpe, 1939 Mi langbian RLR 1: EN, 2: EN
Nectariniidae Họ Hút mật
98 Aethopyga gouldiae (Vigors, 1831) Hút mật họng vàng RVS, RLR
99 Arachnothera longirostra (Latham, 1790) Bắp chuối mỏ dài RLR
100 Arachnothera magna (Hodgson, 1837) Bắp chuối đốm đen RLR
Estrildidae Họ Sẻ
101 Passer flaveolus Blyth, 1844 Sẻ bụi vàng RTB
102 Passer montanus (Linnaeus, 1758) Sẻ nhà RTB
Motacillidae Họ Chim manh
103 Anthus hodgsoni (Rickmond, 1907) Chim manh Vân Nam RTB
104 Motacilla cinerea Tunstall, 1771 Chìa vôi núi RVS
Fringillidae Họ Sẻ thông
105 Carduelis monguilloti (Delacour, 1926) Sẻ thông họng vàng RTB 1: LR, 2: NT
106 Loxia curvirostra Linnaeus, 1758 Mỏ chéo RTB
1. Sách Đỏ Việt Nam (2007); 2. IUCN (2011); LR. nguy cơ thấp; NT. gần bị đe dọa; EN. Nguy cấp; RTB.
Rừng thông và cây bụi; RVS. Rừng ven suối; RLR. Rừng lá rộng thường xanh; (*). loài ghi nhận mới cho
VQG Bidoup - Núi Bà; (**). Ghi nhận mới cho Việt Nam.
Trong các loài mới ghi nhận cho VQG
Bidoup - Núi Bà, loài Quạ nhà (Corvus
splendens) là loài lần đầu tiên ghi nhận cho Việt
Nam. Quạ nhà có kích thước mỏ nhỏ hơn loài
Quạ đen (Corvus macrorhynchos) và có phần cổ,
ngực và lưng hơi xanh. Loài này phân bố chủ yếu
ở Nam Á kéo dài đến Tây Nam Thái Lan [10] và
là loài di cư. Ở VQG Bidoup - Núi Bà, có 1 cá
thể loài này được ghi nhận và chụp hình ở sinh
cảnh rừng thông gần trạm Cổng Trời.
Trong 12 bộ, bộ Sẻ (Passeriformes) có số
lượng loài nhiều nhất, với 74 loài, chiếm
69,81% và 4 bộ có số loài ít nhất, 1 loài, chiếm
0,41% tổng số loài ghi nhận đó là bộ Sếu
(Gruiformes), bộ Mỏ sừng (Bucerotiformes), bộ
Vẹt (Psittaciformes) và bộ Nuốc
(Trogoniformes) (hình 1).
Trong 41 họ ghi nhận được qua các đợt
khảo sát, họ Khướu (Timaliidae) có số lượng
loài nhiều nhất, 15 loài, chiếm 14,15% và 18 họ
có số loài ít nhất, 1 loài, chiếm 0,41% tổng số
loài ghi nhận.
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 30-39
36
Hình 1. Tỷ lệ số loài trong các bộ chim ghi nhận ở VQG Bidoup - Núi Bà
Phân bố theo sinh cảnh vùng nghiên cứu
Sinh cảnh rừng thông và cây bụi: là kiểu
rừng thưa với ưu thế là thông 5 lá. Có 39 loài
chim được ghi nhận ở sinh cảnh này, chiếm tỷ
lệ 36,79% tổng số loài ghi nhận được. Các loài
phân bố ở đây chủ yếu thuộc họ Gõ kiến
(Picidae), Trèo cây (Sittidae), một số loài thuộc
họ Sẻ (Estrildidae) như sẻ nhà, sẻ họng vàng.
Ngoài ra, ở sinh cảnh này còn có loài đặc hữu
của Việt Nam, có vùng phân bố hạn chế (cao
nguyên Đà Lạt, Di Linh) là sẻ thông họng vàng
(Carduelis monguilloti).
Sinh cảnh rừng ven suối: Là dải rừng
thường xanh ven các suối nhỏ dài cùng các
vùng đất ngập nước nhỏ liền kề. Lượng thức ăn
ở đây khá nhiều, gồm các loài côn trùng thủy
sinh, cá... Đây là kiểu sinh cảnh có diện tích hẹp
và số lượng loài chim được phát hiện ít với 15
loài chiếm tỉ lệ 14,15% tổng số loài ghi nhận
được. Những loài chim ở đây kiếm ăn dọc theo
suối như bồng chanh rừng (Alcedo hercules),
chích choè nước trán trắng (Enicurus
schistaceus), cò xanh (Butorides striatus) và các
loài thuộc họ Diều (Accipitridae).
Sinh cảnh rừng lá rộng thường xanh: Là
kiểu rừng chiếm diện tích lớn ở VQG. Ở sinh
cảnh này có độ phong phú cao về thành phần
loài, với 68 loài, chiếm tỉ lệ 64,15% số loài ghi
nhận được. Các họ phổ biến là họ Chào mào
(Pycnonotidae), họ Khướu (Timaliidae), họ Gà
(Phasianidae) và họ Quạ (Corvidae)... Sinh cảnh
này có sự phân bố của các loài chim đặc hữu
Việt Nam như mi langbian (Crocias
langbianis), khướu đầu đen (Garrulax milleti)
và gà lôi vằn (Lophura nycthemera
annamensis).
Các loài quan trọng
Qua các đợt khảo sát, chúng tôi ghi nhân
được 7 loài chim nằm trong Sách Đỏ Việt Nam
(2007) và Danh lục các loài nguy cấp của IUCN
(2011). Số loài quý hiếm tổng hợp từ các nghiên
cứu trước đây tại VQG Bidoup - Núi Bà là 12
loài. Dưới đây là thông tin về 7 loài quan trọng
ghi nhận trong khảo sát này.
Gà lôi vằn (Lophura nycthemera
annamensis): Sống trong các kiểu rừng thường
xanh nguyên sinh, thứ sinh và rừng phục hồi,
phân bố từ Bắc Bộ đến Nam Bộ [14]. Trong
khảo sát này, loài này được ghi nhận ở các địa
điểm 12o9.369N, 108o25.300E; độ cao 1508 m
và 12o14.130N, 108o41.327E; độ cao 1384 m.
Mi langbian (Crocias langbianis): Phân bố
ở Lâm Đồng (núi Lang Biang, Đà Lạt, Tà
Nung), Đắk Lắk (VQG Chư Yang Sin) và Gia
Lai (VQG Kon Ka Kinh) và là loài đặc hữu ở
Việt Nam [14]. Trong khảo sát này, có 1 cá thể
loài này được ghi nhận ở tọa độ 12o10.476N,
108o25.457E, độ cao 1383 m.
Khướu đầu đen (Garrulax milleti): Là loài
đặc hữu của Việt Nam, Lào và Campuchia;
phân bố từ độ cao khoảng 800-1700 m trong
sinh cảnh rừng lá rộng thường xanh [14]. Một
cá thể loài này được ghi nhận tại tọa độ
12o10.476N, 108o25.457E, độ cao 1.583 m.
Phung Ba Thinh, Nguyen Hao Quang, Le Khac Quyet, Hoang Minh Duc
37
Trèo cây mỏ vàng (Sitta solangiae): Là loài
sinh sống là rừng thường xanh lá rộng, thường
gặp ở độ cao 900-2500 m. Phân bố ở Việt Nam
tại các vùng: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung bộ
và Tây Nguyên [14]. Một số cá thể loài này
được ghi nhận ở 12o9.512N, 108o25.413E; độ
cao 1501 m và 12o2.817N, 108o26.285E; độ cao
khoảng 1.996 m.
Sẻ thông họng vàng (Carduelis
monguilloti): Chỉ phân bố ở vùng núi cao thuộc
tỉnh Lâm Đồng (từ 1.000-2.000 m), thường gặp
ở rừng thông thưa và đất nông nghiệp của các
khu dân cư sống ven rừng. Loài này được ghi
nhận ở các tọa độ 12o10.952N, 108o40.804E; độ
cao 1.366 m và 12o9.346N, 108o38.458E; độ
cao 1.492 m.
Khướu hông đỏ (Cutia legalleni): Là loài
đặc hữu Việt Nam. Trước đây được xếp chung
một loài là Cutia nipalensis, đến năm 2007
được Collar và Robson tách ra làm hai loài
riêng biệt [16]. Chim thường sống ở rừng
thường xanh và rừng thông. Ở VQG Bidoup -
Núi Bà đã ghi nhận ở sinh cảnh rừng thông gần
trạm Kiểm lâm Cổng Trời, tọa độ 12o4.529N,
108o22.668E; độ cao 1.733 m và kiểu rừng
thường xanh trên đỉnh 77, tọa độ 12o8.289N,
108o26.182; độ cao 1.949 m, gần đỉnh Lang
Biang ở tọa độ 12o2.819N, 108o26.340E; độ cao
2.044 m.
Bồng chanh rừng (Alcedo hercules): Gặp
chủ yếu dọc theo các suối nhỏ trong rừng. Hai
cá thể bắt được bằng lưới mờ trong quá trình
khảo sát tại khu vực Láng Tranh, tiểu khu 76.
Nhận xét
Mặc dù thời gian khảo sát thực địa không
dài, cũng như số tiểu khu được khảo sát còn ít
so với diện tích của VQG, số lượng loài ghi
nhận là 106 loài, điều này cho thấy, mức độ đa
dạng cao của khu hệ chim của VQG Bidoup -
Núi Bà. Kết quả tổng hợp với các khảo sát trước
đây cho thấy, VQG Bidoup - Núi Bà là một
trong những trung tâm đa dạng về chim của
Việt Nam với 268 loài được ghi nhận, trong đó,
có nhiều loài đặc hữu.
So sánh thành phần chim của của VQG
Bidoup - Núi Bà với các VQG lân cận trong khu
vực Nam Trường Sơn như VQG Chư Yang Sin
(256 loài), VQG Núi Chúa (163 loài), VQG Cát
Tiên (358 loài) và VQG Bù Gia Mập (231 loài)
cho thấy, khu hệ chim của VQG Bidoup - Núi
Bà chỉ ít hơn về số loài so với VQG Chư Yang
Sin và VQG Cát Tiên. Tuy nhiên, do nằm trên
vùng cao nguyên Đà Lạt với độ cao thay đổi từ
700 m đến 2.287 m, khu hệ chim của VQG
Bidoup - Núi Bà có mức độ đặc hữu cao hơn
với nhiều loài đặc hữu hẹp như các loài: mi núi
bà, khướu đầu đen má xám, khướu đầu đen và
sẻ thông họng vàng. Với 12 loài mới bổ sung
vào danh lục, số lượng loài chim ở VQG
Bidoup - Núi Bà có thể còn cao hơn nhiều nếu
được điều tra nghiên cứu dài hạn. Đặc biệt, cần
có những nghiên cứu tiếp theo ở những khu vực
giáp ranh với tỉnh Đắk Lắk ở các đai độ cao
dưới 1.000 m, nhằm bổ sung thêm thành phần
loài chim, cũng như có bức tranh toàn diện về
khu hệ chim của VQG Bidoup - Núi Bà.
KẾT LUẬN
Với 3 vùng chim quan trọng và 268 loài
chim đã được ghi nhận, trong đó có 12 loài bị
đe dọa cấp quốc gia và toàn cầu và nhiều loài
đặc hữu, VQG Bidoup - Núi Bà đóng vai trò
quan trọng trong việc gìn giữ, bảo tồn các loài
chim có tầm quan trọng tầm quốc gia và quốc
tế. Đặc điểm khu hệ chim của VQG gần gũi với
khu hệ chim VQG Chư Yang Sin nhưng có
nhiều điểm khác biệt với khu hệ chim ở vùng
chuyển tiếp và đất thấp Nam bộ.
Khảo sát này đã ghi nhận trực tiếp 106 loài
chim thuộc 41 họ, 12 bộ trong đó bổ sung một
loài mới cho khu hệ chim Việt Nam và 12 loài
ghi nhận mới cho khu hệ chim VQG Bidoup -
Núi Bà. Ngoài ra, kết quả này cũng đã bổ sung
dẫn liệu về phân bố của một số loài quan trọng.
Có sự khác biệt khá lớn về thành phần các
loài chim trong các sinh cảnh khảo sát. Sinh
cảnh rừng thường xanh đóng vai trò quan trọng
nhất, là nơi sinh sống của hơn 64% số loài ghi
nhận được trong khảo sát này, trong đó có 3 loài
đặc hữu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baltzer, M. C., Nguyen Thi Dao, Shore, R.,
2001. Towards a Vision for Biodiversity
Conservation in the Forests of the Lower
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 30-39
38
Mekong Ecoregion Complex. Hanoi and
Washington D.C., WWF Indochina/WWF
US.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, 2007. Sách Đỏ
Việt Nam. Phần I: Động Vật. Nxb. Khoa
học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
3. Delacour J., Jabouille P., 1931. Les oiseaux
the l’Indochine francaise. V.I-IV. Paris:
Exposition Coloniale Internationale.
4. Delacour J., Jabouille P., 1940. L’Oiseau,
10: 89-220.
5. Delacour J., Greenway J., 1941. L’Oiseau,
11 (suppl.): I-XXI.
6. Eames J. C., 1995. Birds Conservation
International, 5: 491-523.
7. Eames J. C., Lê Trọng Trải, Nguyễn Cử,
1995. Conservation International, 5: 525-
535.
8. Inskipp, T., N. Lindsey., W. Duckworth,
1996. An Anotatated Checklist of the Birds
of the Oriental Region. Bedfordshire:
Oriental Bird Club.
9. IUCN, 2011. Red List of Threatened
Species. truy cập
ngày 16/4/2012.
10. Lekagul B., Round P. D., 1999. A guide to
the bird of Thailand. Saha Karn Bhaet,
Bangkok.
11. Mahood S. P., Lê Trọng Trải, Trần Văn
Hùng, Lê Anh Hùng, 2009. Xác định, quy
hoạch và quản lý rừng có giá trị bảo tồn cao:
Báo cáo tư vấn cuối cùng. Chương trình
BirdLife Quốc tế tại Việt Nam, Hà Nội.
12. Ngô Xuân Tường, 2005. Khảo sát thành
phần loài chim khu vực núi Bidoup. Báo
cáo khoa học về Sinh thái và Tài nguyên
Sinh vật. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội: 522-
526.
13. Nguyễn Đăng Hội và Kuznetsov A. N.,
2012. Đa dạng sinh học và đặc trưng sinh
thái vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà. Nxb.
Khoa học tự nhiên và Công nghệ. Hà Nội.
14. Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải, Phillipps K.,
2004. Chim Việt Nam. Chương Trình
Birdlife Quốc Tế tại Việt Nam, Nxb. Lao
Động - Xã Hội, Hà Nội.
15. Robinson H. C., Kloss, C. B., 1919. Ibis, 1:
565-625.
16. Robson C. R, 2008. A Field Guide to the
Birds of South-East Asia. New Holland
Publishers, London.
17. Robson C. R., Eames J. C., Nguyễn Cử,
Trương Văn Lã, 1993. Forktail, 8: 25-52.
18. Robson C. R., Eames J. C., Nguyễn Cử,
Trương Văn Lã, 1993. Forktail, 9: 89-119.
19. Tordoff A. W., Nguyễn Cử, Eames J. C.,
Furey N. M, Lê Mạnh Hùng, Hà Quý
Quỳnh, Seward, A. M., Lê Trọng Trải,
Nguyễn Đức Tú, Zekveld C. T., 2002. Sách
hướng dẫn các vùng chim quan trọng ở Việt
Nam. Chương trình BirdLife Quốc tế tại
Đông Dương và Viện Sinh thái và Tài
nguyên Sinh vật. Hà Nội.
20. Võ Quý, Nguyễn Cử, 1995. Danh lục chim
Việt Nam. Nxb. Nông Nghiệp, Hà Nội.
21. Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà, 2009.
Đánh giá nhu cầu bảo tồn vườn quốc gia
Bidoup - Núi Bà. Báo cáo kỹ thuật cho Quỹ
bảo tồn rừng Đặc dụng Việt Nam. Đà Lạt.
Phung Ba Thinh, Nguyen Hao Quang, Le Khac Quyet, Hoang Minh Duc
39
A SURVEY ON AVIFAUNA
OF BIDOUP - NUI BA NATIONAL PARK, LAM DONG PROVINCE
Phung Ba Thinh1, Nguyen Hao Quang1, Le Khac Quyet2,3, Hoang Minh Duc1
(1)Institute of Tropical Biology, VAST
(2)University of Natural Sciences, Ha Noi
(3)University of Colorado at Boulder, Colorado, Hoa Kỳ
SUMMARY
Located in Lac Duong và Dam Rong districts, Lam Dong province, Bidoup - Nui Ba national park (NP)
covers 64.800 ha of the Da Lat Endemic Bird Area. Bidoup - Nui Ba NP supports three Important Bird Areas
with 256 species including several globally threatened and near-threatened birds, such as the Crested Argus,
Grey-crowned Crocias and Vietnamese Greenfinch. Changes in systematics of the avifauna in the recent years
and lack of information on current status of birds in remote areas of the park generated the need to conduct
supplementary studies of the avifauna of the national park. During four surveys conducted from November
2009 and March 2012 we recorded and photographed 106 bird species; of those, 12 species are newly
recorded for Bidoup - Nui Ba NP, that increased the total of bird species to 268. At least five bird species are
listed in Vietnam Red Book 2007 and IUCN 2009 List of Threatened Species, and five endemic species are
recorded in these surveys.
Keywords: Avifauna, bird Area, endemic species, new record, Bidoup-Nui Ba NP.
Ngày nhận bài: 21-6-2012
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1765_5637_1_pb_5244_2016695.pdf