Các s ố l i ệu thống kê gần đây nhất cho thấy ,
t rên thế gi ới hàng năm có khoảng 250 t ri ệu người bị
tai nạn l ao động. Trong đó có 330 nghìn người bị chết ,
hàng t răm t ri ệu người bị thương nặng. Ngoài ra, còn
hàng chục t ri ệu người khác bị m ắc các bệnh nghề
nghi ệp. Ở V i ệt Nam , theo s ố l i ệu chưa đầy đủ công bố
năm 1999, hàng năm cả nước có khoảng 100 nghìn
người bị tai nạn l ao động, t rong đó có 360 người bị
chết , hàng ngàn người bị thương, hơn 10 nghìn người
m ắc bệnh nghề nghi ệp (t rên thực tế s ố người m ắc
bệnh nghề nghi ệp còn cao hơn nhi ều).
350 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 4369 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tâm lý học lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững nhóm hướng
về các mối quan hệ. Nhưng, đồng thời, năng suất lao
động của những thành viên trong một nhóm có ảnh
hưởng tới tình trạng của không khí tâm lí xã hội.
Tương đông tâm lí
Trong một mức độ nhất định, không khí tâm lí
của nhóm lao động phụ thuộc vào sự tương đồng về
tâm lí của các thành viên trong nhóm, tức là phụ thuộc
vào khả năng hoạt động phối hợp cùng nhau giữa các
thành viên. Hoạt động phối hợp này là dựa trên sự kết
hợp tối ưu các thuộc tính tâm lí của họ. Như vậy khi xây
dựng các nhóm lao động, cần phải tính đến không chỉ
những phẩm chất tâm lí cá nhân, mà cả những hậu
quả có thể có do việc hợp nhất nhiều người thành một
nhóm, bởi vì đó không phải là một số cộng đơn giản
các cá thể tham gia vào thành phần của nó.
Người ta chia ra hai loại tương đồng tâm lí
a) Tương đồng tâm - sinh lí là sự giống nhau
trong xu hướng của các phản ứng tâm - sinh lí và sự
đồng hoá nhịp điệu hoạt động tâm lí của nhiều người.
b) Tương đồng xã hội - tâm lí, là sự kết hợp
tối ưu các kiểu hành vi của nhiều người trên cơ sở
những hứng thú, nhu cầu, xu hướng.
Các công trình nghiên cứu tâm lí xã hội đã chỉ
ra những người tương đồng về tâm lí với nhau nhất là
những người có chung các thuộc tính tâm lí nào đó.
Chẳng hạn, những người có chung một nhu cầu tiếp
xúc cao thì tác động qua lại với nhau tốt hơn. Mặt khác
những người có hệ thần kinh mạnh sẽ tiếp xúc, giải
quyết các nhiệm vụ phối hợp khác nhau với những
người có hệ thần kinh yếu hơn một cách hiệu quả hơn
và ngược lại những người này có thể bổ sung tốt cho
nhau.
Câu hỏi ôn tập
1. Nêu các phương thức sử dụng các thiết bị
trình bày thông tin trong hệ thống.
2. Hãy trình bày về dụng cụ chỉ báo các kim
chỉ như là một trong những cái chỉ báo quan trọng
được dùng nhiều trong công nghiệp.
3. Nên các nguyên tắc phân bố các cái chỉ
báo trên bảng điều khiển.
4. Nêu và phân tích các chức năng của bộ
phận điều khiển?
5. Nêu các quy luật của sự lựa chọn các kiểu
bộ phận điều khiển?
6. Phân tích một số khía cạnh tâm lí trong việc
thiết kế bộ phận điều khiển?
7. Phân tích tầm quan trọng của các số liệu
nhân trắc đối với việc bố trí nơi làm việc của công
nhân.
8. Nếu một số đặc điểm của vận động lao
động trong hoạt động công nghiệp.
9. Kích thước của không gian làm việc và sự
bố trí các thiết bị ở nơi làm việc?
10. Phân tích vai trò của ánh sáng trong sản
xuất công nghiệp?
11. Phân tích vai trò của màu sắc trong sản
xuất công nghiệp?
12. Phân tích vai trò của âm nhạc trong sản
xuất?
13. Hãy phân tích khái niệm "Môi trường xã
hội" với tư cách là một thành tố của hệ thống "người -
máy - môi trường" trong lao động công nghiệp?
14. Hãy nêu các cấu trúc của nhóm nhỏ lao
động công nghiệp.
15. Phân tích ảnh hưởng của không khí tâm lí
xã hội đến năng suất lao động trong các nhóm lao
động công nghiệp.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG
Một trong những vấn để quan trọng đặt ra
trong công nghiệp là sự cố gắng của con người trong
lao động, hiệu quả của một số yếu tố phụ thuộc lẫn
nhau. Đối với vấn đề thứ nhất, có hai khía cạnh cần
quan tâm là: a) Khả năng làm việc của con người có
những giới hạn nhất định, nếu bị coi nhẹ sẽ dẫn đến
cố gắng quá mức của con người, dẫn đến mệt mỏi; b)
Trong điều kiện huy động khả năng làm việc dưới hạn
và hoạt động lập lại đều đều sẽ xuất hiện số đơn điệu.
Kết quả là làm giảm năng xuất lao động và có thể đưa
đến những trường hợp bất hạnh trong sản xuất.
Trong chương này chúng ta sẽ xem xét một
số yếu tố có liên quan với nhau trong quá trình người
công nhân thực hiện hoạt động lao động. Đó là: a)
Tính đơn điệu trong sản xuất; b) Sự mệt mỏi; c) Sức
làm việc và d) Các trường hợp bất hạnh trong sản xuất
và vấn đề an toàn lao động.
1. Tính đơn điệu
Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG
HỢP BẤT HẠNH TRONG SẢN XUẤT VÀ
VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
2. Sự mệt mỏi
3. Sức làm việc
4. Các giờ giải lao
5. Các trường hợp bất hạnh trong sản xuất và sự an toàn
lao động
6. Ngăn ngừa các trường hợp bất hạnh trong sản xuất
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH
TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Sự tiến bộ kỹ thuật đã làm thay đổi cơ bản nội
dung và tính chất của lao động. Nhìn chung, quá trình
phát triển của kỹ thuật đã nâng cao những yêu cầu đối
với hoạt động tư duy của người công nhân, thúc đẩy
sự phát triển các năng lực trí tuệ và sức sáng tạo của
họ. Nhưng, cùng với xu thế vạn năng hoá công việc và
nâng cao nội dung sáng tạo của lao động, sự tiến bộ
kỹ thuật lại khơi sâu thêm sự phân công lao động và
sự chuyên môn hoá người công nhân. Mức độ chia
nhỏ quá trình lao động đặc biệt lớn ở các công việc lắp
ráp bằng tay kiểu dây chuyền cũng như ở những công
việc đứng máy được thực hiện bằng các công cụ
chuyên môn hoá.
Cùng với những thao tác dài, đa dạng về nội
dung trong các loại hình lao động ấy, lại có những thao
tác cực kỳ ngắn ngủi và đều đều. Với số chia nhỏ thao
tác như vậy, lao động của con người chỉ là một tổng số
những thao tác đơn giản nhất.
1. Tính đơn điệu
Trong một mức độ đáng kể, tình trạng đó là
một quy luật. Sự phân hoá sâu sắc quá trình lao động
là một đặc điểm của thời kỳ tự động hoá bộ phận, đặc
trưng cho nền sản xuất hiện đại. Sự phân chia một
cách chi tiết các quá trình lao động là cơ sở cho sự tự
động hoá hoàn toàn nền sản xuất liên quan đến vấn
đề này có nhiều quan điểm khác nhau. Một số tác giả
cho rằng, sụ phân chia quá nhỏ quá trình lao động là
một hiện tượng không thể tránh khỏi do sự tiến bộ kỹ
thuật gây nên. Thậm chí, một số tác giả còn cho tính
đơn điệu của lao động được chia nhỏ là một nhân tố
thúc đẩy sự phát triển của nhân cách. Sự thật, trong
một số loại hình lao động có thể sử dụng hoạt động
đơn điệu để suy nghĩ một số vấn đề nào đó, nhằm tìm
kiếm những con đường hoàn thiện quá trình sản xuất
nói chung. Nhưng điều đó không thể là cơ sở để cho
rằng tính đơn điệu của lao động là một nhân tố phát
triển nhân cách được. Sự tự động hoá các động tác,
khả năng thực hiện công việc bằng cơ giới chỉ có ý
nghĩa tích cực chừng nào nó có thể tạo ra những điều
kiện nhất định, tạo tiền đề cho con người tập trung chú
ý vào mặt sáng tạo, phức tạp hơn của lao động. Còn
nếu như toàn bộ hoạt động lao động chỉ là một tổng
số các cử động đơn giản, được lặp lại hàng ngàn lần
trong một ca sản xuất, nếu như toàn bộ quá trình được
quy định một cách chặt chẽ về không gian và thời gian,
thì khó có thể nói đến những thể hiện sáng tạo.
Tính đơn điệu của lao động có tác động rõ rệt
đến cơ thể người công nhân, làm cho họ bị mệt mỏi
trước thời gian.
Cơ chế tác động của tính đơn điệu trong lao
động là tác dụng gây ức chế của các kích thích được
lặp lại đều đều (quy luật chuyển từ hưng phấn sang ức
chế), tác dụng này được thể hiện càng mạnh, thì khu
vực vỏ não được kích thích càng bị giới hạn hẹp lại. Đó
là một quy luật thần kinh cấp cao có tác động giống
nhau ở mọi công nhân cùng làm việc bằng những
thao tác đơn điệu, lặp đi lặp lại đều đều.
Ảnh hưởng xấu của tính đơn điệu thể hiện ở
chỗ làm mất hứng thú đối với công việc, gây nên sự
đánh giá quá mức về độ dài của thời gian làm việc,
ngày làm việc dường như dài hơn, người công nhân
không đợi đến hết ca sản xuất được vì buồn ngủ.
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận thấy rõ những
đặc điểm tâm lí cá nhân của những người khác nhau
trong phản ứng của họ đối với công việc đơn điệu. Một
số kết quả chỉ ra rằng, thái độ đối với lao động phần
lớn phụ thuộc vào tính chất và nội dung của bản thân
công việc và một phần nhỏ được quyết định bởi những
nhân tố nằm ngoài quá trình lao động (những điều
kiện lao động, tiền lương, các nhân tố sinh hoạt v.v...).
Cho đến nay vẫn có những ý kiến cho rằng
quá trình lao động càng được chia nhỏ bao nhiêu thì
hiệu suất của nó càng cao bấy nhiêu. Thực tế, việc
chia nhỏ lao động và thực hiện nó một cách song
song ở những địa điểm khác nhau đã trút ngắn thời
gian sản xuất, hạ thấp thời gian chung cho cả chu trình
sản xuất. Việc chia nhỏ quá trình lao động làm giảm
nhẹ việc trang bị cho những nơi sản xuất, giảm bớt
việc sử dụng các phương tiện cơ giới hoá, rút bớt số
lượng động tác lao động, tạo nên những điều kiện ổn
định của hoạt động lao động, đồng thời tạo điều kiện
cho công nhân nắm được những kỹ xảo cần thiết thột
cách nhanh chóng hơn. Do đó nâng cao được năng
suất lao động.
Nhưng thực tế hoạt động của các xí nghiệp và
những tài liệu nghiên cứu khoa học đã cho thấy rằng,
có một giới hạn mà sau nó, sự chia nhỏ hơn nữa quá
trình lao động sẽ trở thành không có lợi, kìm hãm việc
tiếp tục nâng cao năng suất lao động.
Như vậy, việc chia nhỏ quá trình lao động chỉ
có lợi đến một giới hạn nhất định. Nhưng, giới hạn đó
được xác định bằng cái gì? Những công trình nghiên
cứu của các nhà tâm lí học đã chỉ ra rằng: giới hạn đó
được xác định bằng mức độ có thể cho phép của tính
đơn điệu của lao động.
Khái niệm về "Tính đơn điệu" thường gắn với
sự lao động nhằm thực hiện những thao tác ngắn hạn
và đều đều. Nhưng đến nay vẫn chưa có sự thống nhất
ý kiến về tiêu chuẩn của mức độ đơn điệu của công
việc. Một số ý kiến cho "tính đơn điệu" là đặc điểm
khách quan của bản thân quá trình lao động, một số
khác lại cho nó là một trạng thái tâm lí của con người,
trạng thái này là hậu quả của sự đều đều của công
việc.
Chúng ta không phủ nhận ý kiến thứ hai,
nhưng điều đó không thể là cơ sở để phủ nhận tính
đơn điệu như là một hiện tượng tồn tại khách quan đối
với quá trình lao động và có ảnh hưởng không thuận
lợi đối với tuyệt đại đa số công nhân. Bởi vậy muốn
chống lại tác hại của tính đơn điệu thì trước hết phải
thay đổi bản thân quá trình lao động, xây dựng nó một
cách hợp lí.
Những công trình nghiên cứu của Viện
Nghiên cứu khoa học về lao động của Liên Xô đã cho
phép xác định mức độ có thể cho phép của tính đơn
điệu và các con đường khắc phục ảnh hưởng xấu của
nó tới người công nhân.
Các nhà nghiên cứu đã lấy thời gian của thao
tác lao động. kết hợp với số lượng, nội dung và tính
chất của các thành phần cấu tạo nên thao tác, làm tiêu
chuẩn cho mức độ đơn điệu của thao tác lao động.
Những kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: với
thời gian của các thao tác lao động mà ngắn hơn 30
giây thì những chuyển biến của các chức năng tâm
sinh lí của người công nhân vượt hơn mức bình
thường. Những thao tác có thời gian là 30 giây hay
hơn nữa thường hay gây nên sự thoả mãn. Từ đó,
người ta đi đến kết luận là, thời gian của thao tác lao
động dài 30 giây là thời gian tới hạn. Tuy nhiên, có thể
có trường hợp thao tác đủ tiêu chuẩn về độ dài thời
gian nhưng lại chỉ là sự thực hiện những động tác
giống nhau. Cho nên, cần phải tính đến cả thành phần
của thao tác nữa. Theo quan điểm tâm - sinh lí thì, một
thao tác được chấp nhận là một thao tác bao gồm các
thành phần mà trong đó gánh nặng được luân chuyển
cho các cơ quan cảm giác khác nhau hay các phần
khác nhau của cơ thể người công nhân. Theo sự chỉ
dẫn của các nhà tâm lí học thì một thao tác lao động
cần phải bao gồm không dưới 5 thành phần khác
nhau. Trong nhiều ngành công nghiệp, nhất là ngành
chế tạo máy, có nhiều thao tác sản xuất không đáp
ứng được yêu cầu trên. Vì vậy, cần tìm những biện
pháp để ngăn ngừa ảnh hưởng xấu của công việc đơn
điệu.
Sau đây là một số biện pháp chính:
a) Hợp nhất nhiều thao tác ít súc tích thành
những thao tác phức tạp, đa dạng hơn. Biện pháp này
có thể làm tăng năng suất lao động lên 5% và tăng
sản phẩm loại I lên 6 - 8%.
Nhưng biện pháp này chỉ có hiệu quả khi các
thành phần được hợp nhất phải khác nhau về những
đặc điểm tâm - sinh lí của mình. Chẳng hạn không
được hợp nhất các thành phần đòi hỏi sự chú ý căng
thẳng, sự kiểm soát liên tục của mắt thành một thao
tác. Tốt nhất là nên hợp nhất thành một thao tác các
thành phần mà việc thực hiện nó có liên quan với sự
hoạt động của các cơ quan cảm giác khác nhau.
b) Luân phiên công nhân làm các thao tác
sản xuất khác nhau. nếu như thực hiện lâu những thao
tác đó sẽ gây nên sự đơn điệu. Thực chất của biện
pháp này là: trong thời gian một ca sản xuất và đôi khi
trong một tuần lao động người công nhân di chuyển từ
một thao tác này sang một thao tác khác. Sự luân
phiên thực hiện những thao tác đơn giản nhưng khác
nhau làm cho lao động của người công nhân trở nên
hứng thú hơn, đỡ nhàm chán và thường làm tăng
năng suất lao động và tăng chất lượng sản phẩm
(khoảng 10 – 15%).
c) Thay đổi nhịp độ của các động tác trong
băng chuyền.
Sự thay đổi có điều chỉnh nhịp độ trong thời
gian một ngày làm việc sẽ hạ thấp tính đơn điệu và sự
đều đều của công việc. Biện pháp này được sử dụng
kết hợp với các biện pháp khác.
d) Đưa chế độ lao động và nghỉ ngơi có cơ sở
khoa học vào sản xuất và sử dụng thể dục sản xuất.
e) Sử dụng các phương pháp tác động thẩm
mĩ khác nhau trong thời gian sản xuất, nhất là âm
nhạc.
f) Nghiên cứu và sử dụng các hệ thống khen
thưởng vật chất và tinh thần một cách chính xác.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH
TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Là hình thức rối loạn trong việc tổ chức hoạt
động như là kết quả của sự cố gắng làm việc với
những biến đổi chức năng trên mọi bình diện: sinh
hoá, sinh lí, tâm lí mệt mỏi, là kết quả sự tích luỹ và tác
động của các yếu tố khác nhau như: sự cố gắng về thể
chất, về trí tuệ, cảm giác, những yếu tố môi trường vật lí
cường độ và tần suất các vận động, sự đơn điệu, tình
trạng sức khoẻ của cơ thể dinh dưỡng không hợp lí,
các yếu tố xã hội.
Mệt mỏi có thể được biểu hiện ở sự giảm khả
năng lao động dẫn đến giảm năng suất lao động ở
những biến đổi về sinh lí (trong hoạt động cơ bắp cũng
như hoạt động thần kinh trung ương) và tâm lí (tăng số
lỗi, không bao quát được hết trường tri giác, các phản
ứng trả lời bị thay đổi).
Khía cạnh động cơ - xúc cảm đóng một vai trò
quan trọng trong sự xuất hiện trạng thái mệt thỏi. Bởi vì
động cơ và xúc cảm là giá đỡ động năng của hành
2. Sự mệt mỏi
động, cho nên sự biến đổi những yếu tố này có thể
làm nảy sinh hoặc che dấu sự mệt mỏi.
Mệt mỏi chính là một phản ứng tự vệ tự nhiên
của cơ thể đối với hoạt động nhằm ngăn ngừa sự phá
huỷ cơ thể. Sự lao động được tổ chức không hợp lí sẽ
dẫn đến sự tiêu tốn nhiều năng lượng. Nếu quá mệt
thì cơ thể sẽ suy sụp, cho nên biết mỏi là một hiện
tượng khách quan, con người có làm việc thì có mệt
mỏi.
Theo nhiều tác giả, nên phân biệt hai nhóm
khái niệm "mệt mỏi" và "mệt nhọc". Mệt mỏi là một
khái niệm sinh lí học, đó chỉ là những biến đổi sinh lí
trong cơ thể người công nhân, do sự tiêu tốn năng
lượng trong quá trình hoạt động gây nên. Còn "mệt
nhọc" là một khái niệm tâm lí học, đó là sự thể nghiệm
mệt mỏi, một trạng thái tâm lí nảy sinh khi đó. Hai khái
niệm này có liên quan với nhau. nhưng không đồng
nhất: mệt nhọc do mệt mỏi gây ra, nhưng có thể có
trường hợp mệt mỏi nhiều mà mệt nhọc lại ít, hoặc
mệt mỏi ít mà mệt nhọc lại nhiều. Bao giờ mệt nhọc
cũng là dấu hiệu của sự mệt mỏi.
Các nhà tâm lí học phân biệt ba loại mệt mỏi
khác nhau:
a) Mệt mỏi chân tay (cơ bắp) là sự mệt mỏi do
các loại lao động chân tay tạo ra.
b) Mệt mỏi trí óc (mệt óc), là sự mệt mỏi do
các loại lao động trí óc tạo nên.
c) Mệt mỏi cảm xúc, là sự mệt mỏi do hoàn
cảnh "chừ đợi thụ động" tạo nên, hoặc do những tình
huống căng thẳng trong lao động tạo nên.
Sự phân chia trên đây chỉ có ý nghĩa tương
đối. Trong thực tế sản xuất, sự mệt mỏi của người lao
động thường có dạng tổ hợp của ba loại trên vì các
loại mệt mỏi đó có liên quan với nhau.
Như ta đã thấy sự mệt mỏi là hiện tượng
khách quan không thể tránh khỏi khi thực hiện quá
trình lao động. Vấn đề là ở chỗ phải làm thế nào để
cho sự mệt mỏi không xảy ra sớm. Muốn thế, phải tìm
hiểu các nguyên nhân gây ra mệt mỏi trong sản xuất
để đề ra biện pháp ngăn chặn sự mệt mỏi quá sớm.
Theo các nhà tâm lí học, có ba loại nhân tố gây ra mệt
mỏi:
a) Nhân tố cơ bản, là nhân tố trực tiếp gây ra
sự mệt mỏi, đó là sự tổ chức lao động không hợp lí.
b) Nhân tố bổ sung, là nhân tố mà bản thân
nó trong điều kiện nhất định, cũng có thể trực tiếp gây
ra sự mệt mỏi.
c) Nhân tố thúc đẩy là nhân tố tạo điều kiện
thuận lợi cho mệt mỏi dễ dàng xảy ra.
Do vậy biện pháp chính để ngăn ngừa không
cho biết mệt mỏi xẩy ra sớm là sự tổ chức hợp lí bản
thân quá trình lao động. Ngoài ra, các biện pháp cải
thiện hoàn cảnh và phương tiện, điều kiện lao động
cũng có ý nghĩa quan trọng. Khi sự mệt mỏi được
giảm bớt, thì sức làm việc được nâng lên.
Đánh giá sự mệt mỏi
Ngày nay, vấn đề mệt mỏi không chỉ được đặt
ra dưới góc độ năng lượng và cơ bắp mà cả góc độ
tâm lí. Cho nên tình trạng mệt mỏi cần phải được xem
xét nhiều khía cạnh như: ở mức độ yêu cầu của một
hoạt động nhất định, giới hạn tối đa của yêu cầu đó,
phương thức tối ưu để cân bằng hoạt động với nghỉ
ngơi.
Hiện tượng mệt mỏi phải được nghiên cứu
theo một quan điểm toàn diện, hệ thống nhằm vào con
người, máy móc, sản phẩm, môi trường vật lí và xã hội.
Vì vậy, khi nghiên cứu hiện tượng mệt mỏi cần có sự
phối hợp giữa các nhà sinh lí học, tâm lí học và các kỹ
sư.
Xuất phát từ sự đánh giá mức độ phức tạp
của các thao tác lao động, người ta đã đưa ra các tiêu
chí sau đây khi phân tích một tâm - sinh lí học của hoạt
động, số lượng của thao tác phụ và các điều kiện
logic, mức độ thống nhất trong sự phân bố các
phương án có thể có để thực hiện một algôrit, cường
độ thay đổi của hoạt động, khối lượng thông tin cần xử
lí, mức độ rập khuôn (đơn điệu), sự phức tạp về logic
và sự căng thẳng về xúc cảm.
Một tập thể các nhà nghiên cứu đã lưu ý đến
hai tiêu chí chủ yếu trong việc xác định mức độ yêu cầu
của hoạt động đối với con người, đó là::
a) Mức độ yêu cầu đối với các quá trình tâm lí
và vận động khác nhau trong các loại hình hoạt động
khác nhau; b) Mức độ phức tạp của các quá trình này.
Đối với mỗi quá trình tâm lí: các tác giả đã xác định
nhiều mức độ phức tạp khác nhau:
- Đối với quá trình tri giác: tiếp nhận giản đơn
một tín hiệu, tiếp nhận, so sánh và phân tích tín hiện
bằng tri giác, so sánh liên tục, lặp đi lặp lại hoặc so
sánh các tín hiệu trong một khoảng thời gian dài, tìm
kiếm một cách tích cực và lựa chọn thông tin.
- Đối với quá trình trí nhớ: tái tạo đơn giản
hoặc lưu giữ thụ động các dữ liệu; duy trì và tái tạo một
số yếu tố tĩnh, tái tạo có chọn lọc các thông tin, tái tạo
có chọn lọc một loạt yếu tố phức tạp.
- Đối với tư duy: xác lập một số quan hệ đơn
giản; xác lập một số quan hệ phức tạp dựa trên việc so
sánh bằng trí tuệ với một thang chuẩn phức tạp, lựa
chọn một số quan hệ mang tính nguyên nhân sâu
hơn; đề xuất một số chiến lược riêng để giải quyết các
tình huống.
- Đối với hành động: phản xạ vận động đơn
giản, một quãng thao tác đơn giản triển khai theo một
mô hình; một quãng thao tác phức tạp hơn; một loạt
quãng thao tác phức tạp.
Khi xác định mức độ yêu cầu đối với các quá
trình tâm lí và vận động của các hoạt động, cần xuất
phát từ chỗ hiểu các điều kiện làm việc, tính chất của
các nhiệm vụ được thực hiện để sau đó có thể làm rõ
những thay đổi chức năng xuất hiện trong quá trình
triển khai hoạt động tương ứng. Chẳng hạn, đối với
các thao tác viên trong các trung tâm năng lượng,
người ta đã xác định được có những thay đổi sau đây
của các quá trình tâm lí, ảnh hưởng về trí nhớ (do thao
tác viên phải thường xuyên theo dõi tiến độ về thời gian
của các thông số), giảm chức năng phân bố chú ý;
giảm khả năng rút ra và hiểu một số quan hệ. Đồng
thời, người ta cũng làm rõ những thay đổi trên bình
diện tâm sinh lí, giảm thời gian phản ứng vận động và
ngôn ngữ; khả năng đánh giá thời gian bị giảm sút;
những thay đổi của hệ thần kinh thực vật.
Việc nghiên cứu sự mệt mỏi được tiến hành
bằng những phương pháp khác nhau. Đó là những
phương pháp có thể phát hiện cả những biến đổi về
mặt sinh lí lẫn những biến đổi của các quá trình tâm lí,
đồng thời vẫn theo dõi được những thay đổi về số
lượng và chất lượng của sản phẩm hoạt động. Các chỉ
số tâm - sinh lí được đánh giá bằng các phương pháp
do tuần hoàn và hô hấp; điện tim điện não; kết quả thị
lực, các phép thử đo phản ứng vận động đối với các
kích thích thị giác và thính giác, các phép đo khả năng
bền bỉ đối với sự cố gắng về thể chất và trí tuệ những
biến đổi của chú ý, trí nhớ, tư duy, sự khéo tay v.v... Các
chỉ số cá nhân và xã hội được đánh giá thông qua sự
chuẩn bị nghề nghiệp; lứa tuổi, năng lực, điều kiện
sống; các mối quan hệ liên nhân cách. Người ta thấy
rằng, những bảng hỏi được sử dụng thành công nhất
là những bảng hỏi trong đó nghiệm thể đánh giá cả
cường độ của hoạt động lẫn những hậu quả đã được
trải nghiệm (như bảng hỏi của J. Barmack).
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH
TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Sức làm việc là một khái niệm sinh lí thường
do sinh lí học nghiên cứu trong một số chỉ số ở người
và động vật. Sức làm việc nói lên khả năng làm việc
dẻo da, lâu bền,không biết mệt mỏi sớm.
Sức làm việc của con người phụ thuộc vào
nhiều nhân tố. Có thể chia làm hai nhóm: những nhân
tố bên ngoài và những nhân tố bên trong.
Thuộc vào những nhân tố bên ngoài có:
những yêu cầu của sản xuất đối với tính chất của hoạt
động sản xuất (tầm quan trọng và mức độ trách nhiệm
của việc thực hiện nhiệm vụ, tính chất của các động
tác, sự phức tạp của chúng, độ chính xác cường độ
v.v...). những điều kiện trong môi trường vật lí và xã hội
của sản xuất (không khí tâm lí trong nhóm, các điều
kiện vệ sinh phòng bệnh, những điều kiện xã hội của
đời sống người công nhân, trình độ chuyên môn, thâm
niên nghề nghiệp, tuổi tác v v…)
3. Sức làm việc
Thuộc vào những nhân tố bên trong có: tính
chất của những phản ứng trả lời, của các quyết định và
động tác lao động do quá trình sản xuất quy định, tình
trạng của các hệ thống cơ quan khác nhau và trước
hết là các cơ quan tham gia vào công việc chuyên môn
đó, trạng thái thần kinh - tâm lí, trạng thái mệt mỏi.
Trong thời gian một ngày lao động (hay một
ca sản xuất) sức làm việc có những biến đổi xác định,
mang tính quy luật, không phụ thuộc vào những công
việc khác nhau, xí nghiệp khác nhau. Đồ thị biểu diễn
sự biến đổi đó được gọi là "đường cong của sức làm
việc", có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Thường thì người ta
hay lấy năng xuất lao động làm chỉ số của sức làm
việc.
Trong trường hợp điển hình, với nhịp độ tối
ưu của hoạt động sản xuất, thì sức làm việc được biến
đổi theo một đường cong hai pha - tăng ở lúc đầu và
giảm ở cuối ca sản xuất. Trong suốt một ngày làm việc
có ba giai đoạn rõ rệt (Hình 15).
Hình 15. Đường cong điển hình của sức làm
việc trong một ngày lao động
a) Giai đoạn "đi vào công việc" (ở thời gian
đầu của ngày làm việc), đó là giai đoạn sức làm việc
được tăng dần lên và cuối cùng đạt được tốc độ tối đa.
Những lúc mới bắt đầu làm việc thì các chỉ số kinh tế
kỹ thuật đều ở mức độ tương đối thấp và có sự căng
thẳng nhất định của các chức năng sinh lí. Sự đi vào
công việc dần dần trong một hoạt động sản xuất cụ thể
là hậu quả ảnh hưởng của các nhân tố phụ khác nhau
lên con người trước lúc bắt đầu sản xuất. Sự đối
kháng giữa hai hệ thống chức năng cơ sở và chức
năng phụ sẽ tạo nên xung đột về sinh lí thần kinh, bao
gồm cả chức năng phối hợp của não bộ. Trong thời
gian xung đột sinh lí thần kinh, các kỹ xảo lao động
không được vững chắc, đồng thời hay có động tác
thừa. Do đó, các chỉ số kinh tế - kỹ thuật trong quá trình
lao động đều thấp. Do sự tập luyện các kỹ xảo mà sự
xung đột sinh lí thần kinh được khắc phục hoàn toàn
và bắt đầu hình thành trạng thái, chức năng bình
thường và các chỉ số kinh tế - kỹ thuật đạt tới mức cao
nhất.
b) Giai đoạn "sức làm việc tối đa" (hay "sức
làm việc ổn định"), là giai đoạn sức làm việc ổn định ở
mức cao nhất. Dấu hiệu đặc trưng của giai đoạn này là
các chỉ số kinh tế - kỹ thuật đều cao. Đồng thời có sự
hạ thấp tình trạng căng thẳng của các chức năng sinh
lí do sự xung đột sinh lí thần kinh lúc trước gây nên.
Giai đoạn này xuất hiện và được duy trì khi
xung đột sinh lí thần kinh giữa hệ thống chức năng cơ
sở và các hệ thống chức năng khác được khắc phục
và khôi phục được sự phối hợp giữa chúng. Giai đoạn
này thể hiện trạng thái bình thường của cơ thể người
đang lao động. Các chỉ số kinh tế - kỹ thuật đạt mức độ
tối đa, các chỉ số sinh lí đạt mức độ tối ưu và đường
cong của sức làm việc mang tính chất ổn định trong
suốt một thời gian dài.
c) Giai đoạn "sức làm việc giảm sút" (hay giai
đoạn sự mệt mỏi phát triển) là giai đoạn trong đó các
chỉ số kinh tế - kỹ thuật bắt đầu bị hạ thấp, năng suất
lao động bị giảm sút, chất lượng sản phẩm kém đi, sự
căng thẳng của các chức năng sinh lí tăng lên.
Về bản chất, giai đoạn này là sự xung đột sinh
lí thần kinh căng thẳng giữa hệ thống chức năng cơ sở
và hệ thống chức năng phục hồi. Tuỳ theo mức độ
căng thẳng của xung đột mà trong cơ thể người lao
động sẽ hình thành trạng thái ranh giới và sau đó có
thể hình thành cả trạng thái chức năng bệnh lí nữa.
Tùy theo các loại hình lao động và các điều
hiện hay hoàn cảnh cụ thể khác nhau, thời gian của
giai đoạn một dao động từ vài phút đến 1,5 - 2 giờ; giai
đoạn hai dao động từ vài phút đến vài giờ; giai đoạn
ba cũng có những khoảng thời gian khác nhau từ vài
phút đến vài giờ.
Ở nửa sau của ngày lao động, tức là sau khi
ăn trưa, ba giai đoạn trên lặp lại một cách kế tiếp
nhau. Trong một số trường hợp, ở cuối ngày lao động
lại không xảy ra sự hạ thấp sức làm việc mà là sự
nâng cao sức làm việc. Trên đường cong của sức làm
việc có thể thấy rõ điều đó (Hình 15). Hiện tượng này
được gọi là đợt cuối cùng. Trong trường hợp này, sự
nâng cao sức làm việc là do tác động cảm xúc khi nhìn
thấy trước được sự kết thúc công việc. Ở nửa sau của
ngày làm việc thì giai đoạn một ngắn hơn so với ở nửa
ngày đầu (chỉ kéo dài khoảng 10 đến 30 phút); giai
đoạn hai cũng ngắn hơn, sức làm việc tối đa cũng
thấp hơn (bởi vì, sự nghỉ ăn trưa có đúng lúc và đầy đủ
thời gian, cũng không thể đẩy lùi được toàn bộ sự mệt
mỏi đã được tích luỹ); và ở giai đoạn ba, sự mệt mỏi
cũng xảy ra nhanh hơn. Nói chung, sức làm việc của
nửa ngày đầu cao hơn nữa ngày sau từ 30 đến 40%.
Sức làm việc của con người cũng không ổn
định trong suốt một tuần làm việc. Ở đây cũng có
những biến đổi mang tính chất quy luật như những
biến đổi trong một ngày làm việc, nghĩa là cũng thấy có
đủ cả ba giai đoạn nói trên. Người ta cũng nhận thấy
rằng, sức làm việc tối đa thường xuất hiện vào ngày
thứ tư, tức là vào giữa tuần (tương tự như vậy đối với
hoạt động học tập của học sinh).
Sức làm việc cũng biến đổi trong thời gian cả
năm. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy sức làm
việc tối đa được thấy vào những tháng mùa đông, và
sức làm việc thấp nhất rơi vào những tháng mùa hè
trong năm.
Như trên đã nói, đường cong của sức làm
việc có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Căn cứ vào đó, chúng
ta có thể tổ chức các giờ giải lao trong một ca sản xuất
một cách hợp lí, có cơ sở khoa học.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH
TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Từ lâu, người ta để thấy rằng cần có sự luân
phiên giữa các thời kỳ làm việc và các thời kỳ nghỉ ngơi
(giải lao). Điều phức tạp nằm ở chỗ, làm thế nào kết
hợp tối ưu thời gian của các thời kỳ đó. Trong một ca
sản xuất có những thời kỳ giải lao chính thức sau: nghỉ
ăn trưa, thể dục giữa giờ. Trong khi đó, con người
không thể làm việc liên tục trong thời gian 3-4 giờ liền,
do đó họ buộc phải ngừng làm việc trong một thời gian
nào đó. Cũng có những trường hợp người công nhân
không muốn dừng công việc lại nhưng cơ thể buộc họ
phải làm điều đó. Lúc này, sự ngừng tay để nghỉ ngơi
phát sinh một cách không chủ định. Từ đây, nảy ra vấn
đề nên đưa thêm vào trong chế độ lao động và nghỉ
ngơi những giờ giải lao có tổ chức để công nhân được
nghỉ ngơi một cách thanh thản, hạ thấp độ mệt mỏi và
nâng cao hiệu quả lao động của họ.
Vấn đề các giờ giải lao đã được nghiên cứu
một cách khá đầy đủ. Thường trong thời gian một ca
4. Các giờ giải lao
sản xuất, người ta sử dụng một vài lần giải lao có độ
dài từ 5 đến 10 phút. Những giờ giải lao dài hơn rất ít
gặp. Tổng số các lần giải lao thường là từ 10 đến 30
phút (bao gồm cả giờ thể dục giữa ca).
Khi đưa thêm giờ giải lao vào công nhân sẽ ít
mệt mỏi hơn và do đó năng suất lao động tăng hơn.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh điều này.
Không có một quy tắc chung để xác định số
lần giải lao và sự phân bố chung trong một ca sản
suất. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào những điều kiện
cụ thể của sản xuất, của phân xưởng, của các loại hình
lao động cụ thể.
Tuy nhiên, cũng có những quy luật chung cần
tính đến khi xây dựng chế độ lao động và nghỉ ngơi
cho hợp lí.
a) Những lần nghỉ giải lao đầu tiên, về cơ
bản, mang tính chất dự phòng, do đó lần giải lao đầu
tiên nên được bắt đầu sau khi đã bắt đầu làm việc
được từ 1,5 - 2 giờ. Lần giải lao này rất quan trọng, bởi
vì nó hạ thấp sự mệt mỏi đã được tích luỹ cho đến lúc
này (tuy không lớn). Có thể dùng lần nghỉ giải lao đầu
tiên này để ăn sáng đối với những công nhân chưa kịp
ăn gì ở nhà hoặc không thích ăn quá sớm.
b) Trong nửa đầu của ngày sản xuất có thể
chỉ tổ chức một lần giải lao. Nếu giờ nghỉ ăn trưa được
bố trí vào đúng giữa ngày làm việc (sau 4 giờ làm
việc). Còn nếu giờ nghỉ ăn trưa lẫn vào nửa sau của
ngày làm việc, thì ở nửa đầu của ngày làm việc cần
thêm một lần giải lao nữa. Theo các nhà sinh lí học
Liên Xô thì, việc bố trí giờ nghỉ ăn trưa vào đúng giữa
ngày làm việc (ngày làm việc 8 giờ) là hợp lí nhất, và
thời gian nghỉ ăn trưa không được kéo dài dưới 50
phút.
c) Trong nửa sau của ngày làm việc, cần phải
có một vài lần giải lao sau khi đã bắt đầu làm việc
được 1-1,5 giờ. Ở đây, về cơ bản, các lần giải lao thực
chất là để nghỉ ngơi bởi vì đã bắt đầu xuất hiện sự mệt
mỏi.
d) Thời gian các lần giải lao phần lớn phụ
thuộc vào mức độ của gánh nặng thể lực và tâm lí. Với
những công việc đều đều và đơn điệu. không đòi hỏi
tiêu tốn nhiều năng lượng thì mỗi lần giải lao là 5 phút.
Với công việc mà gánh nặng thể lực lớn hơn đòi hỏi
sự chú ý, sự chính xác của động tác thì thời gian một
lần giải lao là 10 phút, có khi lên tới 15phút. Đồng thời
cũng có quan điểm cho rằng, trong những điều kiện
vững chắc khác nhau thì nhiều lần giải lao ngắn tốt
hơn là ít lần giải lao dài. Tuy nhiên, sự quyết định cuối
cùng được thực hiện sau khi đã nghiên cứu động thái
của sức làm việc của các công nhân ở một bộ phận
sản xuất cụ thể.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH
TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Bất cứ một cơ sở công nghiệp nào cũng
được hiểu như là một hệ thống. Do việc áp dụng
chương trình kỹ thuật riêng cho từng hệ thống nhất
định mà các thành tố của nó (người, máy, môi trường)
có những mối quan hệ với nhau. Tuỳ thuộc vào mục
đích đặt ta (tức đầu ra của hệ thống). Sự tác động qua
lại giữa các thành tố thể hiện sự vận hành của hệ
thống. Có hai loại lớn các chỉ số mà nhờ đó có thể xác
định được chất lượng vận hành của hệ thống. Đó là: a)
Các chỉ số trực tiếp (hậu quả trực tiếp của một hành
động hay một sự tác động qua lại), b) Các chỉ số gián
tiếp (các hậu quả phụ). Hiển nhiên là, tiêu chí để các
định các chỉ số này là rất khác nhau: kỹ thuật, công
nghệ, kinh tế, con người v.v...
Dựa vào các chỉ số vừa nêu, có thể xác định
được hệ thống đang vận hành bình thường hay không
bình thường (lệch lạc nhiều hay ít hơn so với các tiêu
chuẩn đã định sẵn). Trong trường hợp thứ hai sẽ có
5. Các trường hợp bất hạnh trong sản
xuất và sự an toàn lao động
sụ trục trặc. Theo quan điểm hệ thống thì sự trục trặc
là một hiện tượng không mong muốn, có tính chất và
nguồn gốc phức tạp. Bất cứ một sự trục trặc nào cũng
có những nguyên nhân và hậu quả nhất định. Tuy
nhiên, khái niệm trục trặc chỉ là tương đối. Xét dưới
góc độ hậu quả của nó, một hiện tượng đột biến có thể
được coi là một sự trục trặc. Còn xét dưới góc độ các
nguyên nhân hay nguồn gốc của nó, sự trục trặc đó có
thể là hậu quả của một sự trục trặc khác, mà, đến lượt
nó, lại do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Ở
đây, căn cứ vào hậu quả ít nhiều nghiêm trọng của sự
trục trặc trong hệ thống mà có thể có sự cố và tai nạn.
Như vậy, tai nạn là một đầu ra không mong
muốn của hệ thống, là một chỉ số hoặc một dấu hiệu
của sự trục trặc trong hệ thống. Do đó là một hiện
tượng có nguồn gốc phức tạp, do nhiều yếu tố và
nguyên nhân gây ra. Tai nạn có thể là hậu quả trực tiếp
của sự trục trặc nhưng cũng có thể là hậu quả gián
tiếp hơn (được tách ra từ một số lượng ít hoặc nhiều
các rối loạn hoặc sự vận hành không bình thường).
Sự cố là một chỉ số khác của sự trục trặc và
khác với tai nạn ở chỗ có thể quy định một hoạt động
đền bù (bổ sung). Nếu hoạt động này không phù hợp
có thể gây ra một sự cố khác hay thậm chí là tai nạn.
Khi phân tích nguyên nhân gây ra các sự cố
gây hư hỏng hay chấn thương cho công nhân hoặc
gây ra những điều bất hạnh, nhìn chung có thể quy về
hai loại nhân tố: "con người" và "máy móc".
Người công nhân vi phạm các nguyên tắc sử
dụng các thiết bị, công cụ kỹ thuật, coi thường các
nguyên tắc an toàn lao động, và nếu vì thế mà gây ra
các tình huống hay các bất hạnh thì rõ ràng điều đó là
lỗi của họ. Nhưng, mặt khác, có thể có những sự cố
xuất hiện do những khiếm khuyết không thấy được của
máy móc, do sự không hoàn thiện của quy trình kỹ
thuật, do sự không hoàn thiện của quá trình thông tin,
có nghĩa là do những nguyên nhân không phụ thuộc
vào bản thân người công nhân. Nhưng, nếu xếp
những nguyên nhân đó vào loại những nhân tố “máy
móc” thì cũng không hoàn toàn đúng. Bởi vì, chính việc
chế tạo máy móc, xây dựng các quy trình sản xuất,
cũng như bất kỳ đối tượng nào của môi trường vật chất
xung quanh người công nhân và việc chăm sóc các
thiết bị, lắp ráp và sửa chữa đều là do con người thực
hiện. Cho nên, khó có thể nói đến những nguyên nhân
thuần tuý máy móc trong các trường hợp bất hạnh. Từ
đây, có thể thấy vai trò của tâm lí học lao động trong
việc tạo ra những điều kiện an toàn lao động là rất
quan trọng. Ở đây, vai trò của nhà tâm lí học còn thực
sự quan trọng do chỗ những trường hợp bất hạnh
không phải xảy ra với tất cả mọi người và không phải
bao giờ cũng xảy ra.
a) Những sự khác biệt cá nhân. Những
trường hợp bất hạnh không phải xẩy ra với tất cả mọi
công nhân. Trong thực tế, đơn vị công nghiệp nào
cũng có những công nhân không phạm sai lầm trong
quá trình lao động. Đồng thời cũng có những nhóm
công nhân mắc phải những sự cố ở những mức độ
khác nhau.
Có nhiều tài liệu chứng tỏ rằng có sự phân
phối không đồng đều các trường hợp giữa nam và nữ
công nhân. Các nhà tâm lí học Hunggari - I.Balintơ và
M.Murani đã tiến hành thống kê trong sản xuất, và thấy
rằng: năm 1960, cứ trên 1000 công nhân nam thì xảy
ra 71,9 trường hợp bất hạnh, còn trên 1000 công nhân
nữ thì có 41,9 trường hợp. Sang năm sau, tương quan
đó thực tế không bị thay đổi (70,7 và 38,8).
Sự xuất hiện các trường hợp bất hạnh còn
phụ thuộc ở một mức độ nhất định vào kinh nghiệm
nghề nghiệp và thâm niên công tác theo chuyên môn.
Các tác giả trên nhận thấy rằng: năm 1960 có 41.5%
trường hợp bất hạnh trong sản xuất đã xảy ra ở những
công nhân có thâm niên nghề nghiệp dưới 1 năm.
Năm 1961 cũng ở các công nhân đó chỉ xẩy ra 37.7%
trường hợp bất hạnh.
Có nhiều tài liệu còn chứng tỏ rằng có sự phụ
thuộc của tần số xuất hiện các trường hợp bất hạnh
vào lứa tuổi của công nhân. Người ta thấy rằng: trong
những điều kiện ngang bằng vững chắc, thì công nhân
trẻ thường chịu những trường hợp bất hạnh nhiều
hơn. Theo tài liệu của Hội đồng an toàn quốc gia Mỹ thì
những người lái ô tô dưới 25 tuổi chịu khả năng gặp
trường hợp bất hạnh gấp 2 lần so với người lái ô tô
trên 25 tuổi.
Sự phụ thuộc này không chỉ được giải thích
bằng sự tăng lên của kinh nghiệm nghề nghiệp.
Thông thường, theo lứa tuổi, sự trưởng thành nhân
cách cũng tăng lên. Con người trở nên chín chắn hơn,
tinh thần trách nhiệm đối với những kết quả lao động
cũng như đối với sức khoẻ của bản thân được nâng
cao. Khi cần phải đối mặt với sự nguy hiểm, những
người lớn tuổi, có kinh nghiệm sống nhiều hơn sẽ
hành động bình tĩnh hơn và tự tin hơn.
Sự phân tích trên đây khiến ta phải đề cập tới
nhân cách của người công nhân. Trước hết cần nói
đến xu hướng nghề nghiệp. Trong thực tế không loại
trừ trường hợp là sự không hứng thú với hoạt động
nghề nghiệp là một trong những nguyên nhân gây ra
các trường hợp bất hạnh. Những công nhân có hứng
thú mạnh mẽ và ổn định đối với nghề nghiệp ít gặp sự
cố hơn so với những công nhân không thích nghề của
mình lắm hoặc hoàn toàn không thích.
Năng lực chuyên môn có một ý nghĩa quan
trọng về mặt an toàn lao động. Mỗi người tuỳ thuộc vào
mức độ phát triển của các năng lực nhất định của bản
thân mà có thể chịu những sự cố ngay trong một hoạt
động nghề nghiệp cụ thể nào đó.
Những nét tính cách của cá nhân cũng có thể
quyết định sự an toàn lao động. Có một số nghề
nghiệp đòi hỏi rất nhiều ở người công nhân tính cân
bằng, sự vững vàng của cảm xúc, kỹ năng hành động
trong những tình huống căng thẳng.
Việc tính đến các khác biệt cá nhân có một ý
nghĩa to lớn trong sự tạo ra các điều kiện an toàn lao
động. Tuy nhiên, những trường hợp bất hạnh không
phải lúc nào cũng xẩy ra. Điều đó có nghĩa là, cần tìm
kiếm các nhân tố gây ra các trường hợp bất hạnh trong
một thời gian nào đó, có thể là một thời gian nhất định
đối với chúng. Nói cách khác, cần nắm được những tri
thức để giải thích: tại sao trường hợp bất hạnh lại xẩy
ra ở chính thời điểm này mà không xẩy ra sớm hơn
hoặc muộn hơn?
b) Đặc điểm tạm thời
Trước hết, không ai ngạc nhiên khi thấy rằng,
một người đi làm trong trạng thái bệnh tật bị nguy
hiểm ở mức độ lớn hơn nhiều so với người khoẻ
mạnh. Cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi nghe nói
về hậu quả nguy hại của rượu đối với các trường hợp
bất hạnh. Chẳng hạn, những người nghiên cứu ở
Pháp cho thấy, ở những công nhân uống rượu thường
xuyên thì những trường hợp bất hạnh xẩy ra nhiều hơn
35%, và tổn thương do những trường hợp bất hạnh đó
đem lại thường nặng hơn so với những công nhân
không uống rượu.
Khả năng xảy ra các trường hợp bất hạnh
tăng lên theo sự tăng lên của mệt mỏi. Sau đây là
những số liệu cụ thể về sự phân bố các trường hợp
bất hạnh trong công nghiệp theo từng giờ của ngày
làm việc (Hình 16). Các số liệu này cho thấy khi độ mệt
mỏi tăng thì tỉ lệ phần trăm các trường hợp bất hạnh
cũng tăng lên và tỉ lệ này hạ thấp rõ rệt khi công nhân
được nghỉ ngơi, rồi lại tăng trở lại sau khi nghỉ ăn trưa.
Ở cuối nửa ca đầu và cuối nửa ca sau thì tỉ lệ đó
chiếm những "đỉnh" cực cao, tức là ở những lúc người
công nhân mệt mỏi nhất.
Khi phân tích những số liệu này, có thể nói
rằng sự mệt mỏi là một nhân tố có tính chất tạm thời
rất cơ bản trong việc gây ra các trường hợp bất hạnh
trong lao động. Tuy nhiên, không thể giải thích nguồn
gốc của các trường hợp bất hạnh chỉ bằng sự mệt mỏi
của công nhân. Trong thực tế, không phải ngày nào
cũng có tai nạn xẩy ra. Sự mệt mỏi thúc đẩy việc nảy
sinh trường hợp bất hạnh nhưng không gây ra sự bất
hạnh.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng:
phần lớn các chấn thương xẩy ra là do sự ngừng tay
của công nhân trong lúc đang làm việc. Nó thường có
liên quan đến hiện tượng mất cảnh giác. Người ta
phân chia sự ngưng tay trong khi sản xuất làm hai
nhóm: a) Những sự ngừng tay có liên quan với sự
phát triển không đầy đủ của những phẩm chất nhân
cách nhất định. b) Những sự ngừng tay "ngẫu nhiên"
khó thấy trước, loại này là đặc biệt nguy hại.
Ngày nay, khi nghiên cứu về nguyên nhân gây
ra các trường hợp bất hạnh trong sản xuất, các công
trình càng chú ý nhiều hơn đến vai trò của các trạng
thái tâm lí, của tâm trạng người công nhân, thái độ của
họ đối với hoạt động lao động. Hy vọng rằng, những
nghiên cứu sâu hơn và toàn điện hơn về nhân cách
người công nhân sẽ cho chúng ta nhiều tài liệu có giá
trị để hiểu các nguyên nhân của những trường hợp bất
hạnh.
Các số liệu thống kê gần đây nhất cho thấy,
trên thế giới hàng năm có khoảng 250 triệu người bị
tai nạn lao động. Trong đó có 330 nghìn người bị chết,
hàng trăm triệu người bị thương nặng. Ngoài ra, còn
hàng chục triệu người khác bị mắc các bệnh nghề
nghiệp. Ở Việt Nam, theo số liệu chưa đầy đủ công bố
năm 1999, hàng năm cả nước có khoảng 100 nghìn
người bị tai nạn lao động, trong đó có 360 người bị
chết, hàng ngàn người bị thương, hơn 10 nghìn người
mắc bệnh nghề nghiệp (trên thực tế số người mắc
bệnh nghề nghiệp còn cao hơn nhiều). Thiệt hại mỗi
năm lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Điều đáng lưu ý là số
vụ tai nạn lao động hàng năm không ngừng tăng lên
và ngày càng nghiêm trọng, làm chết và làm bị thương
hoặc làm tàn phế nhiều người, để lại hậu quả rất lớn
cho gia đình. Nhà nước và xã hội. Chẳng hạn, ngay
đầu năm 1999 đã xảy ra một số tai nạn nghiêm trọng
như: vụ nổ khí Me tan ở mỏ than Mạo Khê (Quảng
Ninh) làm 19 công nhân chết, 12 người khác bị
thương, vụ nổ khu chứa nước ở khu công nghiệp Tân
Tạo, Quận Bình Chánh (thành phố Hồ Chí Minh) làm 6
công nhân bị thiêu cháy, vụ đổ cột điện làm chết 5
người, bị thương 15 người khác hay vụ sụt đất tại bãi
đào vàng làm nhiều người bị chết... Nguyên nhân chủ
yếu là do công nhân chưa tuân thủ nghiêm ngặt các
quy đjinh an toàn vệ sinh lao động, chưa tự giác chấp
hành quy trình quy phạm vận hành máy móc, khai thác
thiết bị an toàn, đặc biệt nhiều xí nghiệp chưa quan
tâm đúng mục tới việc cải thiện điều kiện làm việc vệ
sinh hơn an toàn hơn cho người lao động. Vì vậy,
nhiệm vụ cấp bách đặt ra là cần nghiên cứu và thực
hiện việc bảo hộ cho yếu tố con người trong quá trình
lao động sản xuất để nhằm ngăn ngừa các trường
hợp bất hạnh trọng sản xuất.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH
TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Theo các nhà nghiên cứu, đối với việc ngăn
ngừa các tai nạn lao động, cần lưu ý hai điểm cơ bản
sau: a) Vấn đề an toàn lao động cần được bao quát
trong toàn bộ hệ thống. Bởi vì sự tác động qua lại giữa
các thành tố sẽ làm cho bất cứ một thay đổi nào trong
phạm vi của một thành tố cũng sẽ gây ra những thay
đổi trong toàn bộ hệ thống. b) Trong mỗi xí nghiệp
công nghiệp bao giờ cũng có nhiều mức độ (xí nghiệp,
các phân xưởng, các tổ sản xuất, các vị trí công tác). Vì
vậy cả việc chẩn đoán lẫn việc ngăn ngừa đều phải
được tiến hành một cách khác nhau.
Vấn đề an toàn lao động đề cập tới nhiều khía
cạnh khác nhau, cho nên đòi hỏi sự cộng tác của các
nhà chuyên môn thuộc những lĩnh vực khác nhau. Tuy
nhiên, yếu tố quan trọng nhất lại là bản thân công
nhân, là người tham gia một cách hữu hiệu và tích cực
vào an toàn lao động cho mình và thực hiện một sự tự
bảo vệ.
6. Ngăn ngừa các trường hợp bất hạnh
trong sản xuất
Với mục đích hoàn thiện tình trạng an toàn
cho hệ thống, hành động ngăn ngừa có thể được thể
hiện thông qua một loạt biện pháp như: các quy tắc an
toàn lao động, giáo dục, tuyên truyền, áp dụng các
nguyên tắc thái học, tổ chức phân công lao động hợp
lí, đào tạo tay nghề.
Các quy tắc an toàn lao động phải phù hợp
với nhau và phù hợp với các quy tắc khác trong nhà
máy, dễ ghi nhớ, rõ ràng và dễ hiểu đối với công nhân,
nên sử dụng kết hợp với các hình vẽ.
Tuyên truyền là một biện pháp ngăn ngừa
nhằm hình thành cho người công nhân một hành vi
phù hợp thông qua việc hình thành thái độ thực của họ
(chứ không phải những câu trả lời trong bảng anket).
Cái khó ở đây là những thói quen và các kỹ xảo không
dễ dàng làm thay đổi chỉ bằng cách thay đổi chỗ làm
việc.
Thông tin đề cập đến những cách thức đối
phó chắc chắn trước những tình huống nguy hiểm
trong khi thực hiện từng thao tác lao động, đề cập tới
mức độ an toàn của những hoạt động xung quanh đó.
Những thông tin này sẽ được cung cấp cho công nhân
cả giai đoạn hình thành nghề nghiệp lẫn ở tại nơi làm
việc của họ.
Đào tạo nghề nghiệp. Để có thể góp phần vào
việc làm thay đổi hành vi nhằm nâng cao an toàn lao
động cho công nhân, việc đào tạo nghề nghiệp phải
được tiến hành có kế hoạch và được kiểm tra cẩn
thận. Ở đây, không chỉ lưu ý hình thành tay nghề mà
còn phải hình thành cả thái độ đối với nghề nghiệp. Để
ngăn ngừa các tai nạn lao động có thể xẩy ra, việc đào
tạo nghề nghiệp cần lưu ý một số điểm sau:
a) Thống nhất các mã thông tin, thông báo.
Do các mã thông báo ở từng nhà máy là khác nhau,
cho nên bất cứ một công nhân nào mới được nhận
vào làm việc cũng cần phải học mã để tránh nhầm lẫn;
b) Dạy tiến hành các thao tác phụ và các thao
tác chính. Thường thì các thao tác phụ dễ gây ra tai
nạn lao động, vì vậy công nhân phải học để nắm các
thao tác này tốt như là đối với các thao tác chính. Cũng
cần lưu ý đến một điều là: con người thường có huynh
hướng xem nhẹ sự nguy hiểm của tai nạn lao động;
c) Học đón trước giúp công nhân có khả năng
đón trước (nhìn thấy trước) các tình huống nguy hiểm,
nhằm giải quyết chúng một cách nhanh chóng và hiệu
quả, điều này giúp nâng cao an toàn lao động;
d) Hình thành các nhóm lao động dựa trên
các đặc điểm về chuẩn mực của nhóm;
e) Hình thành thái độ trách nhiệm đối với an
toàn lao động.
f) Đảm bảo độ tin cậy của hệ thống.
Áp dụng các nguyên tắc của công thái học
nhằm mục đích điều chỉnh một số khiếm khuyết hoặc
thiết lập các nhiệm vụ an toàn lao động cho máy ngay
từ giai đoạn thiết kế (lắp đặt các thiết bị an toàn, làm
thiết bị phù hợp với các đặc điểm nhân trắc của người
lao động) hoàn thiện môi trường lao động; hoàn thiện
việc bảo dưỡng máy móc và nơi làm việc. Các nguyên
tắc công thái học phải luôn luôn lưu ý tới những khả
năng cũng như giới hạn của thao tác viên.
Tổ chức lao động sẽ giúp xác định được các
điều kiện tối ưu để hệ thống vận hành tốt. Có thể hoàn
thiện sự hợp tác giữa các đơn vị dịch vụ, hoàn thiện
chương trình thông tin về an toàn lao động, bố trí các vị
trí làm việc phù hợp v.v...
Việc tạo ra những điều kiện an toàn lao động
là kết quả sự nỗ lực của các chuyên gia thuộc những
lĩnh vực khác nhau và của bản thân công nhân.
Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích ý nghĩa của tính đơn điệu trong
sản xuất và nêu các biện pháp ngăn ngừa tính đơn
điệu?
2. Sự mệt mỏi và cách đánh giá nó trong tâm
lí học lao động?
3. Phân tích quy luật diễn biến của sức làm
việc trong một ngày lao động (hay trong một ca sản
xuất)?
4. Phân tích ý nghĩa của các giờ giải lao trong
sản xuất và nêu những quy luật chung cần tính đến khi
xây dựng chế độ lao động và nghỉ ngơi?
5. Phân tích các nguyên nhân tâm lí ổn định
gây ra các trường hợp bất hạnh trong sản xuất?
6. Phân tích các nguyên nhân tâm lí tạm thời
gây ra các trường hợp bất hạnh trong sản xuất.
7. Cần tạo những điều kiện gì để ngăn ngừa
tai nạn lao động?
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG
1. Phạm Tất Dong. Tâm lí học lao động (Tài
liệu dùng cho học viên cao học) Viện KHGD, 1979
2. M.L Vinngrađốp. Sinh lí học lao động. NXB
Y học,
3. Popescu Elena. Cách trình bày thông tin
trong hệ thống. NXB Dacia, Cluj, 1982 (Tiếng Rumani).
4. Ion Holban. Những vấn đề của Tâm lí học
lao động. NXB khoa học. Bucaret, 1980 (Tiếng
Rumani).
5. Gheorghe Iosif. Chức năng giám sát của
các bản điều khiển. NXB Viện Hàn lâm khoa học,
Bucaret, 1980 (Tiếng Rumani).
6. Gheorghe Iosif (Tâm lí học lao động công
nghiệp. NXB Giáo dục. Bucaret, 1986 (Tiếng Rumani).
7. Turcu Filimon. Sự hình thành năng lực kỹ
thuật. NXB khoa học, 1975 (Tiếng Rumani).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
8. Nguyễn Văn Lê. Khoa học lao động. NXB
Lao động, 1975.
9. Adrian Neculau. Thủ lĩnh trong tính cơ động
của nhóm. NXB Giáo dục, Bucaret, 1987 (Tiếng
Rumani).
10. Trần Trọng Thuỷ. Tâm lí học lao động (Tài
liệu dùng cho học viên cao học) Viện KHGD, 1997.
Created by AM Word2CHM
Chương I. Khái quát về lao động và tâm lí học lao
động
1. Khái niệm lao động
2. Cấu trúc của hoạt động lao động 3. Đinh
nghĩa. đối tượng. nhiệm vụ của TLHLĐ
4. TLHLĐ đối với các chuyên ngành tâm lí học
khác và với các khoa học khác về lao động 5. Sơ lược
lịch sử phát triển của TLHLĐ
6. Các phương pháp của tâm lí học lao động
Chương II. Hệ thống người - máy - môi trường
1. Khái niệm người - máy - môi trường 2. Các
tính chất của hệ thống người – máy - môi trường 3.
Các thuộc tính của hệ thống 4. Các kiến hệ thống
5. Thiết kế hệ thống và việc đánh giá yếu tố
con người 6. Các chức năng do con người thực hiện
trong hệ thống Chương III. Sự thích ứng con người
với những yêu cầu của hệ thống
MỤC LỤC
1. Vấn đề chọn nghề và công tác hướng
nghiệp 2. Phân tích lao động 3. Vấn đề đào tạo nghề
nghiệp 4. Hình thành và phát triển các năng lực nghề
nghiệp 5. Hình thành các kỹ xảo trong lao động công
nghiệp Chướng IV. Sự thích ứng hệ thống với con
người
1. Trình bày thông tin trong hệ thống 2. Các
thiết bị điều khiển 3. Một số số liệu nhân trắc và bố trí
nơi làm việc 4. Môi trường vật lý 5. Môi trường xã hội
Chương V. Sự mệt mỏi, các trường hợp bất hạnh
trong sản xuất và vấn đề an toàn lao động
1. Tính đơn điệu
2. Sự mệt mỏi
3. Sức làm việc.
4. Các giờ giải lao
5. Các trường hợp bất hạnh trong sản xuất và
sự an toàn lao động 6. Ngăn ngừa các trường hợp bất
hạnh trong sản xuất Tài liệu tham khảo ---//---
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG
(In lần thứ 3)
Tác giả: ĐÀO THỊ OANH
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
16 Hàng Chuối - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Điên thoại: (04) 9715011 – (04) 9724770 - Fax: (04)
9714899
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc: PHÙNG QUỐC BẢO
Tổng biên tập: NGUYỄN BÁ THÀNH
Người nhận xét: TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA Biên
tập và sửa bản in: PHẠM NGỌC TRÂM
Trình bày bìa: NGỌC ANH
MÃ SỐ: 2K-07/ĐH2008
In 1000 cuốn, khổ 14.5 x 20,5 cm tại Nhà in Đại học
Quốc gia Hà Nội. Số xuất bản: 106-2008/CXB/257-
14/ĐHQGHN, ngày 23/01/2008. Quyết định xuất bản
số: 07KH/XB. In xong và nộp lưu chiểu quý II năm
2008.
Created by AM Word2CHM
Created by AM Word2CHM
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tam_ly_hoc_lao_dong_0875.pdf