Vì vậy, khi tiến hành gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu
trước sức chịu đựng của ngân hàng trung gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban
hành. Để ngân hàng trung gian không bị lỗ và cộng tác với ngân hàng trung ương
trong việc thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể trả lãi cho
mức dự trữ thặng dư nào đó của ngân hàng trung gian, kèm theo một chính sách
lãi suất thích hợp, cộng vào đó, ngân hàng trung ương có thể vận dụng mức dự
trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn, bằng cách phân biệt nhiều mức dự trữ
bắt buộc, chẳng hạn, do tính chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi, ngân hàng
trung ương có thể quy định tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn
cao hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi có kỳ hạn.
Chính sách chiết khấu: Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại là kinh
doanh tiền tệ, bằng nguồn vốn huy động tiền gửi là chính. Nhưng không phải lúc
nào hoạt động ngân hàng cũng đều thuận lợi. Có những lúc người gửi tiền đến rút
tiền quá nhiều, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng thiếu vốn. Những trường hợp ào
ạt rút tiền thường xảy ra theo những chu kỳ kinh tế. Do đó, nhiều ngân hàng khó
tránh khỏi tình trạng thiếu khả năng thanh khoản. Vì vậy, nếu không có ngân
hàng trung ương, các ngân hàng thương mại sẽ rất dễ rơi vào tình trạng phá sản.
Chính vào những lúc khó khắn đó, ngân hàng thường mại tìm đến sự giúp đỡ của
ngân hàng trung ương, người cho vay cuối cùng
21 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 830 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài chính doanh nghiệp - Bài 2: Tiền tệ - Chính sách tiền tệ - lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 1
BÀI 2:
TIỀN TỆ - CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - LẠM PHÁT
Hướng dẫn:
Kiểm tra lại kiến thức về cung tiền và cầu tiên trong môn học Kinh tế học vĩ mô.
Tìm hiểu về chính sách tiền tệ tại Việt Nam thông qua trang web của Ngân
hàng nhà nước
Liên hệ tình huống thực tế và làm các bài tập thực hành để tăng khả năng
vận dụng lý thuyết vào thực tế.
Nội dung:
Tìm hiệu khái niệm và các hình thái tiền tệ trong quá khứ và hiện tại.
Nghiên cứu về cung tiền và cầu tiền thực tế.
Nghiên cứu vai trò của chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền
tệ trong nền kinh tế.
Tìm hiểu lạm phát và các dạng lạm phát cũng như tác động của lạm phát đến
nền kinh tế.
Mục tiêu :
Học viên sau khi nghiên cứu xong bài này cần phải:
Hiểu được khái niệm tiền tệ, khối lượng tiền.
Chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.
Hiểu rõ được khái niệm lạm phát và tác động của lạm phát đến nền kinh tế.
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 2
Nội dung:
I. TIỀN TỆ
1. Khái niệm và bản chất của tiền tệ
Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương
tiện trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền
kinh tế.
Tiền tệ – kim loại vàng là sản phẩm của lao động con người có đầy đủ hai
thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng là hàng hóa đặc biệt, bởi lẽ tiền có
giá trị sử dụng đặc biệt, dùng nó người ta có thể trao đổi với bất cứ hàng hóa nào.
Do nền kinh tế hàng hóa là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát
triển bị chi phối bởi nhiều quy luật khách quan. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa
phát triển đến giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường được hình thành theo đúng
nghĩa của nó thì quá trình phi vật chất của tiền tệ cũng đồng thời diễn ra một cách
tương ứng. Nghĩa là vai trò của tiền vàng theo xu hướng giảm dần và tăng cường
sử dụng các loại dấu hiệu trong lưu thông. Cho nên, định nghĩa trên là phù hợp
với lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế thị trường phát triển.
2. Các hình thái tiền tệ
Trước hết phải thừa nhận tiền được mọi người chấp nhận là những dạng
vật chất quen thuộc và có ích với tất cả mọi người, hoặc được mọi người đánh
giá cao về mặt giá trị.
- Hoá tệ là lấy hàng hoá làm tiền tệ, đây là hình thái đầu tiên của tiền tệ và
được sử dụng trong một thời gian dài. Hàng hoá được sử dụng làm tiền tiền tệ có
2 loại : Hàng hoá không phải kim loại và kim loại.
- Tín tệ là loại tiền tệ mà bản thân nó không có giá trị, hoặc giá trị của nó
rất nhỏ không đáng kể, nhưng nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu
dụng. Tín tệ có 2 loại là tiền kim loại ( dùng kim loại để đúc thành tiền) và tiền
giấy ( sử dụng giấy để làm tiền). Giá trị của tiền không phụ thuộc vào nguyên
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 3
liệu làm tiền mà nó phụ thuộc vào những dấu hiệu ghi trên mặt đồng tiền do nhà
nước quy định.
- Bút tệ (tiền ghi sổ): đây là những khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân
hàng. Đó là tiền do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra trong quá trình thực
hiện nghiệp vụ tín dụng. Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ được thực hiện bằng các
bút toán ghi Nợ, ghi Có trên các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng.
- Tiền điện tử: các ngân hàng đã có thể thay thế phương thức thanh toán
truyền thống sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điến tử
(Electronic means of payment), điều kiện cần là cá nhân và tổ chức cần thanh
toán có tài khoản tại ngân hàng. Các giao dịch chuyển tiền sẽ được thực hiện trên
hệ thống máy tính kết nối hệ thống ngân hàng.
Trong khi tiền được hiểu tương đối hẹp, thì cách sử dụng tiền thì có ý nghĩa rất
rộng, có thể thông qua ví dụ sau để hiểu được. Nếu như một ai đó nói “trong túi
tôi có rất nhiều tiển” có nghĩa là anh ta đang nói đến tiền mặt được mang theo
trong người. Còn nếu anh ta nói “tôi kiếm được rất nhiểu tiền” điều này có thể
hiểu là thu nhập của anh ta. Trong trương hợp anh ta nói “tôi có rất nhiều tiền”
thì lại là đang nói về của cải của anh ta có được bao gồm cả bất động sản, tiền
trong tài khoản, tranh nghệ thuật, trang sức bằng kim loại quý.
Từ đó, các nhà kinh tế và những người sản xuất kinh doanh bắt đầu nghĩ và đưa
ra những tiêu chuẩn tiện lợi mà tiền – với tư cách là vật trung gian trao đổi – cần
phải có, đó là:
- Phải có giá trị thực tế
- Dễ sử dụng trong tự nhiên
- Dễ vận chuyển và không quá cồng kềnh
- Có thể chia nhỏ phục vụ cho việc giao dịch thông thường hàng ngày
- Có thể tồn tại lâu dài và không hư hại
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 4
Từ những tiêu chuẩn trên có thể thấy được rất nhiều thứ đã là tiền bây giờ trở nên
không thích hợp, tiền đá khó vận chuyển và không có giá trị thực tế. Bò hay lừa
khó vận chuyển và khó chia nhỏ và không thể tồn tại lâu dài.
3. Chức năng của tiền
* Phương tiện trao đổi: tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian
trong việc trao đổi các hàng hoá, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền
tệ, nó phản ánh lý do tại sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế
hàng hoá. Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu
chuẩn nhất định:
- Được chấp nhận rộng rãi
- Dễ nhận biết
- Có thể chia nhỏ
- Dễ vận chuyển, không bị hư hỏng một cách nhanh chóng
- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng và có tính đồng nhất.
* Chức năng phương tiện lưu giữ giá trị: Để được thừa nhận là một phương tiện
trao đổi tiền buộc phải có tính chất bảo tồn giá trị. Chúng ta sẽ không dám chấp
nhận tiền nếu nó chỉ có hiệu lực trao đổi trong ngày hôm nay mà không thể dùng
để trao đổi từ ngày mai trở đi. Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là
nơi cất giữ sức mua qua thời gian.
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đến đâu tuỳ thuộc
vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối
lượng hàng hoá mà nó có thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ
giảm đi và ngược lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít
muốn giữ nó, điều này thường xảy ra khi lạm phát cao. Vì vậy để tiền thực hiện
tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định. Với chức năng này có
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 5
thể thấy tiền cũng là một loại tài sản như những tài sản khác chỉ là nó không sinh
lời theo thời gian.
* Thước đo giá trị: giá trị của tiền tệ được sử dụng làm chuẩn để đo lường giá trị
của các hàng hóa khác. Thông qua quan hệ so sánh này giá trị của các hàng hóa
được biểu hiện thành giá cả hàng hóa. Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền
tệ là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong các hàng hóa. Muốn thực
hiện được chức năng này, tiền tệ có những đặc điểm sau đây:
- Có giá trị nội tại
- Tiêu chuẩn giá cả
- Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã làm cho mọi hàng
hóa đều có một tiếng nói chung đó là giá cả. Giá cả của hàng hóa, là giá trị của
hàng hóa được biểu hiện bằng tiền. Thực chất giá cả của hàng hóa là tỷ lệ so sánh
giữa giá trị của nó với giá trị tiền tệ hay nói cách khác giá cả của hàng hóa là một
đại lượng tỉ lệ thuận với giá trị của hàng hóa và tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ.
* Chức năng phương tiện thanh toán: chức năng này là chức năng gộp của hai
chức năng: trung gian trao đổi và đơn vị tính toán. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học
tiền tệ vẫn muốn tách nó riêng ra để phản ánh một tính chất điển hình của tiền:
tiền là phiếu nợ.
* Công cụ để điều tiết nền kinh tế: số lượng tiền tệ được cung ứng cho mỗi thời
điểm của nền kinh tế tùy thuộc vào hai điều:
- Nhu cầu tiền của nền kinh tế vào thời điểm đó. Điều này phụ thuộc vào
tình trạng hoạt động của nền kinh tế. Nhân tố này thường rất thụ động.
- Số lượng cung ứng tiền phụ thuộc vào quyết định của mỗi chính phủ
thông qua ngân hàng trung ương của mình, và đây là nhân tố xác định chủ động.
4. Khối lượng tiền
* Các phép đo khối tiền tệ được đưa ra tuỳ thuộc vào các phương tiện được hệ
thống tài chính cung cấp và thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp, nhưng
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 6
nhìn chung các khối tiền tệ trong lưu thông bao gồm:
- Khối tiền giao dịch (M1) gồm những phương tiện được sử dụng rộng
rãi trong thanh toán chi trả về hàng hoá dịch vụ, bộ phận này có tính lỏng cao nhất:
+ Tiền mặt trong lưu hành: Bộ phận tiền mặt (giấy bạc ngân hàng và
tiền đúc) nằm ngoài hệ thống ngân hàng.
+ Tiền gửi không kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng.
- Khối tiền mở rộng (M2) gồm:
+ M1
+ Tiền gửi có kỳ hạn
Bộ phận tiền gửi có kỳ hạn mặc dù không trực tiếp sử dụng làm phương
tiện trao đổi, nhưng chúng cũng có thể được chuyển đổi ra tiền giao dịch một
cách nhanh chóng và với phí tổn thấp. Bộ phận này còn có thể được chia ra theo
kỳ hạn hoặc số lượng.
- Khối tiền tài sản (M3) bao gồm:
+ M2
+ Trái khoán có mức lỏng cao như: Hối phiếu, tín phiếu kho bạc
II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1. Cầu tiền tệ
Keynes xây dựng lý thuyết về cầu tiền tệ được gọi là lý thuyết về sự ưa
thích tiền mặt. Lý thuyết này được trình bày trong tác phẩm nổi tiếng: “Học thuyết
chung về công ăn việc làm, lãi xuất và tiền tệ”. Trong học thuyết của mình,
Keynes đã nêu ra 3 động cơ cho việc giữ tiền:
• Nhu cầu tiền cho giao dịch: hoạt động giao dịch của các tác nhân và thể
nhân (gọi chung là tác nhân) diễn ra thường xuyên. Mọi giao dịch đều cần phải
sử dụng tiền, như: trả công lao động (trả lương), mua nguyên vật liệu, thanh toán
nợ, mua vật phẩm tiêu dùng ... Các khoản chi này hợp thành Tổng cầu tiền cho
giao dịch.
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 7
• Nhu cầu tiền cho tích luỹ: ngoài các khoản chi thường xuyên cho giao
dịch, các tác nhân còn phải tích luỹ một khoản tiền nhất định cho các nhu cầu đã
dự định trước, như: mua sắm tài sản, đầu tư, cho kỳ du lịch sắp đến ... Giá trị của
các khoản này chưa đến "độ sử dụng", chúng ở trong quỹ của các tác nhân dưới
dạng tiền nhàn rỗi. Khi lãi suất tiền gửi thấp, thì số tiền giành cho nhu cầu tích
lũy với các mục đích trên sẽ cao. Nhu cầu tích lũy phụ thuộc vào mức thu nhập
và mục đích của các tác nhân. Thời gian sử dụng tiền càng cấp bách thì đòi hỏi
tác nhân tích lũy càng nhanh. Giá trị khoản chi càng lớn thì phải tích lũy càng
nhiều.
• Nhu cầu tiền cho dự phòng: dự phòng là nhu cầu bắt buộc của các tác
nhân. Nhu cầu này được chia làm ba loại. Dự phòng một số tiền để chờ cơ hội
mua mà không dự báo trước được. Dự phòng chi thường xuyên. Đây là những
khoản chi thường xuyên cho nhu cầu cá nhân, buộc mọi người phải dự phòng
một khoản tiền tối thiểu và cuối cùng dự phòng chi cho rủi ro.
• Nhu cầu tiền để cất trữ: đây là số lượng tiền nhàn rỗi lâu dài, chưa có
mục tiêu sử dụng. Trường hợp này các thể nhân thường đưa số "tiền thừa" vào
cất trữ. Tiền cất trữ thể hiện bằng vàng.
Tổng hợp các nhu cầu tiền nêu trên thành tổng cầu tiền của nền kinh tế
trong một thời kỳ.
- Các nhân tố ảnh hưởng.
Nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế tăng lên hay giảm xuống nó phụ thuộc vào các
nhân tố sau: Giá trị các khoản giao dịch; lãi suất tín dụng; sự không đồng bộ về
thời gian thu và chi, tập quán chi tiêu của từng dân tộc, địa phương.
2. Cung tiền tệ
Cung tiền tệ là khối lượng tiền tệ đã được cung cấp cho nền kinh tế bởi hệ
thống ngân hàng. Nói khác đi mức cung tiền tệ là tổng các phương tiện tiền tệ
thực tế trong lưu thông và được nắm giữ bởi các chủ thể trong nền kinh tế.
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 8
3. Cân bằng cung và cầu tiền tệ
Thị trường tiền tệ luôn hướng về điểm cân bằng khi mức cung tiền tệ
bằng mức cầu tiền tệ. Điều kiện cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ là:
MS = MD
Khi mức gía (P) và thu nhập thực tế (Y) cho trước, sự cân bằng cung và
cầu tiền thực tế sẽ tạo ra mức lãi xuất cân bằng (i) trên thị trường.
4. Chính sách tiền tệ
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là
quá trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là
ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn (targeting
interest rate) để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như
kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động
hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các
loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị
trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
5. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Thường các ngân hàng trung ương xây dựng chính sách tiền tệ hướng đến
những mục tiêu sau:
Ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm
soát được lạm phát.
Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái.
Ổn định lãi suất
Ổn định các thị trường tài chính
Tăng trưởng kinh tế trong sự ổn định
Tạo công ăn việc làm và giảm bớt thất nghiệp
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 9
Trong tác phẩm “sức mua của tiền tệ”, nhà kinh tế học Mỹ Irving Fisher
đưa ra mối quan hệ giữa tổng lượng tiền tệ (M) với tổng chi tiêu để mua hàng
hoá, dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế dựa trên một khái niệm gọi là tốc
độ lưu thông tiền tệ theo phương trình trao đổi tính theo giá trị danh nghĩa của
các giao dịch trong nền kinh tế:
MVT = PT
Trong đó P là giá bình quân mỗi giao dịch,
T là số lượng giao dịch tiến hành trong một năm
VT : là tốc độ giao dịch của tiền tệ - tốc độ khối lượng tiền quay vòng hàng
năm
Vì giá trị danh nghĩa của các giao dịch (T) rất khó đo lường cho nên học
thuyết số lượng đã được phát biểu theo tổng sản phẩm (Y):
MV=PY
6. Công cụ của chính sách tiền tệ:
Là những hoạt động của Ngân hàng trung ương nhằm tác động đến cung
tiền và lãi xuất, qua đó nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngân
hàng trung ương sử dụng hai nhóm công cụ chính sách tiền tệ đó là:
Những công cụ gián tiếp được dùng phổ biến hiện nay như:
- Nghiệp vụ thị trường mở: Trong các công cụ điều chỉnh chính sách tiền
tệ thì công cụ nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung
ương để điều chỉnh khối lượng tiền lưu thông và lãi suất.
- Nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân hàng trung ương tham gia mua
hoặc bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với các ngân hàng thương
mại với mục đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hòa cung và cầu về giấy tờ
có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng thương mại tại ngân
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 10
hàng trung ương, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân
hàng này.
Trên thị trường tiền tệ, ngân hàng trung ương chủ yếu mua bán trái phiếu
của Chính phủ và trái phiếu ngân hàng trung ương để làm tăng giảm khối dự trữ
của ngân hàng thương mại, khi đó, ngân hàng thương mại có thể mở rộng hoặc
hạn chế khả năng cho vay.
Việc ngân hàng trung ương mua trái phiếu góp phần tăng cung tín dụng,
từ đó làm lãi suất tín dụng hạ thấp, kích thích các doanh nghiệp đi vay. Đây cũng
là một cách gia tăng khối tiền tệ. Ngược lại, bằng cách bán trái phiếu trên thị
trường tiền tệ cho ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương thu hút tiền vào
làm giảm bớt khối tiền tệ. Kết quả làm cho dự trữ của ngân hàng thương mại tại
ngân hàng trung ương bị giảm, từ đó hạn chế khối lượng cấp tín dụng của ngân
hàng thương mại.
Nếu sự mua bán trái phiếu không có ngân hàng trung ương tham gia mà
chỉ là giữa các ngân hàng thương mại với nhau thì khối tiền tệ không thay đổi.
Đó chỉ là sự di chuyển trái phiếu từ ngân hàng thương mại này sang ngân hàng
thương mại khác và một sự di chuyển ngược lại từ một phần dự trữ thặng dư của
ngân hàng thừa vào dự trữ của ngân hàng thiếu.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm
1920. Nó là công cụ tác động mạnh, linh hoạt và chủ động, công cụ này có thể
hạn chế được những khiếm khuyết của công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ nghiệp
vụ thị trường mở linh hoạt ở chỗ là dễ đảo ngược được tình huống khi phát hiện
tiền lưu thông thừa hay thiếu bằng cách mua hoặc bán ra các giấy tờ có giá trị.
Tuy nhiên, hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền
trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng.
Ở Việt Nam, công cụ nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện bằng việc
phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho bạc
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 11
Nhà nước. Do đó, hiệu quả điều tiết không cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ
của các ngân hàng.
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc: Các ngân hàng trung gian phải ký gửi tại ngân hàng
trung ương một phần của tổng số tiền gửi mà ngân hàng trung gian nhận được từ
dân cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất định.
Phần bắt buộc ký gửi đó được gọi là tiền gửi dự trữ bắt buộc (Reserve
Requirements) và tỷ lệ phần trăm mà ngân hàng trung ương quy định như trên
được gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng tiền gửi huy động
được mà các ngân hàng thương mại không được sử dụng để kinh doanh. Mục
đích của việc thực hiên dự trữ bắt buộc là nhằm:
- Duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của các ngân hàng trung gian,
hoặc trong những trượng hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng đồng
loạt rút tiền gửi (bank run) của công chúng, tránh được tình trạng khủng hoảng
ngân hàng.
- Giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, tránh được trường
hợp ngân hàng này quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể
phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng, tức là đảm bảo an
toàn tiền gửi của khách hàng.
- Việc tập trung dự trữ của các ngân hàng trung gian ở ngân hàng trung
ương còn là một phương tiện để ngân hàng trung ương có thêm quyền lực điều
khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của các ngân hàng trung gian đối với
ngân hàng trung ương.
Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp, ngân
hàng trung ương muốn khuyến khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho
vay của họ, tức là muốn gia tăng khối tiền tệ. Điều này sẽ kích thích được các
hoạt động kinh tế, tăng khả năng giao lưu các nguồn vốn tài chính giữa các
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 12
doanh nghiệp, thể hiện một chính sách tiền tệ “nới lỏng”. Ngược lại, khi nâng cao
mức dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương muốn giới hạn khả năng cho vay của
ngân hàng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ “thắt chặt” hay hạn chế
khối tiền tệ. Điều này tác động tới khả năng thu doanh lợi của ngân hàng trung
gian.
Vì vậy, khi tiến hành gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu
trước sức chịu đựng của ngân hàng trung gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban
hành. Để ngân hàng trung gian không bị lỗ và cộng tác với ngân hàng trung ương
trong việc thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể trả lãi cho
mức dự trữ thặng dư nào đó của ngân hàng trung gian, kèm theo một chính sách
lãi suất thích hợp, cộng vào đó, ngân hàng trung ương có thể vận dụng mức dự
trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn, bằng cách phân biệt nhiều mức dự trữ
bắt buộc, chẳng hạn, do tính chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi, ngân hàng
trung ương có thể quy định tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn
cao hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi có kỳ hạn.
Chính sách chiết khấu: Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại là kinh
doanh tiền tệ, bằng nguồn vốn huy động tiền gửi là chính. Nhưng không phải lúc
nào hoạt động ngân hàng cũng đều thuận lợi. Có những lúc người gửi tiền đến rút
tiền quá nhiều, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng thiếu vốn. Những trường hợp ào
ạt rút tiền thường xảy ra theo những chu kỳ kinh tế. Do đó, nhiều ngân hàng khó
tránh khỏi tình trạng thiếu khả năng thanh khoản. Vì vậy, nếu không có ngân
hàng trung ương, các ngân hàng thương mại sẽ rất dễ rơi vào tình trạng phá sản.
Chính vào những lúc khó khắn đó, ngân hàng thường mại tìm đến sự giúp đỡ của
ngân hàng trung ương, người cho vay cuối cùng.
Ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại qua
nhiều hình thức, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và tái
chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu là ngân
hàng trung ương đã làm tăng khối tiền lưu thông. Đây là hình thức phát hành tiền
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 13
được xem là lành mạnh do được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi các
chứng khoán đáo hạn ngân hàng trung ương sẽ đòi được các món nợ đã cho vay.
Bên cạnh đó, việc cho vay này luôn gắn liền với yêu cầu của nền kinh tế do sự
tác động trực tiếp của quy luật cung cầu.
Thường thì việc điều hành công cụ tái cấp vốn để thực thi chính sách tiền
tệ được thông qua lãi suất chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích
giảm hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền
kinh tế, đồng thời giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền. Khi thực hiện chính sách
hạn chế (thắt chặt) tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu lên.
Khi đó, các ngân hàng thương mại sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt
những cơ hội cho vay và ngược lại, nếu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng (nới
lỏng) ngân hàng trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu, ngân hàng thương mại
trong trường hợp này đi vay rẻ, nên có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay
dẫn đến nhu cầu vay tăng.
Tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại là công cụ đắc lực trong định
hướng phát triển kinh tế. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu, ngân hàng
trung ương sẽ ưu tiên tái chiết khấu các thương phiếu xuất khẩu. Tuy nhiên khi
chấp nhận tái chiết khấu là ngân hàng trung ương đã tăng khối lượng tiền cung
ứng. Chính vì tầm quan trọng đó nên ngân hàng trung ương chỉ có thể chấp nhận
tái chiết khấu theo điều kiện:
- Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng, tức cấp tín dụng cho
nền kinh tế còn được phép cung ứng thêm.
- Bản thân các ngân hàng thương mại đem hối phiếu để tái chiết khấu phải
là những hối phiếu tốt.
Như vậy, chiết khấu và tái chiết khấu chính là việc ngân hàng trung ương
“mua” các thương phiếu của ngân hàng thương mại nhằm điều chỉnh mức cung
ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời qua đó
điều chỉnh cung ứng tiền tệ.
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 14
Tuy nhiên, mỗi một công cụ đều có ưu nhược điểm riêng của nó, công cụ
tái cấp vốn (tái chiết khấu) có ưu điểm và nhược điểm sau:
-Ưu điểm: Các khoản cho vay của ngân hàng trung ương đều được đảm bảo bằng
các giấy tờ có giá do nó có khả năng thanh toán. Đồng thời công cụ tái chiết khấu
có tính chất chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay hạn
chế.
-Nhược điểm: Ngân hàng trung ương thụ động khi cung ứng tiền tệ, vì việc vay
hay không vay chủ động nằm ở ngân hàng thương mại
Nhóm công cụ trực tiếp thường mang tính hành chính như:
- Hạn mức tín dụng: là mức dư nợ tối đa mà mỗi tổ chức tín dụng được phép
duy trì theo quy định của Ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ. Hạn mức tín
dụng cho các tổ chức tín dụng là khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù và năng lực
kinh doanh cũng như mức tổng dư nợ tín dụng dự tính của Ngân hàng trung ương
cho toàn bộ nền kinh tế cho từng thời kỳ tại mỗi quốc gia.
- Khung lãi suất: Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, Ngân hàng trung
ương thường điều chỉnh hạ lãi suất để kích thích các ngân hàng thương mại và tổ
chức tính dụng sử dụng tiền vay của ngân hàng trung ương để tăng cường tín
dụng cho nền kinh tế. Ngược lại, để thực hiện chính sách tiền thắt chặt, Ngân
hàng trung ương điều chỉnh tăng lãi suất để hạn chế quy mô tín dụng của các
ngân hàng thương mại cho nền kinh tế.
- Biên độ giao động tỷ giá ít khi được dùng tới: Khi tỷ giả hối đoái biến
động, Ngân hàng trung ương phải can thiệp vào thị trường mở để ổn định tỷ giá
hối đoái bằng việc mua hoặc bán một lượng ngoại tệ
III. LẠM PHÁT
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát đã được các nhà kinh tế học nghiên cứu từ rất sớm, hầu hết các
nhà nghiên cứu về lạm phát đều đồng ý rằng “lạm phát là hiện tương tăng giá liên
tục của mức giá chung trong một khoảng thời gian”.
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 15
Lạm phát cũng thể hiện ở những mức độ nghiêm trọng khác nhau.
- Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự
đoán trước được, tỷ lệ lạm phát hàng năm dưới một con số có thể coi là lạm phát
vừa phải. Khi đó, các thành phần trong nền kinh tế tin tưởng vào việc giữ tiền
mặt và ký các hợp đồng tính theo giá của đồng bản tệ, vì họ tin rằng giá của loại
hàng hóa được mua không chệch đi quá xa.
- Lạm phát phi mã: là tỷ lệ lạm phát trong phạm vi hai chữ số hoặc ba chữ
số, như 20%, 100% hay 200%. Một khi lạm phát phi mã diễn ra thường xuyên thì
sẽ đưa đến rất nhiều biến dạng kinh tế nghiêm trong. Trước nhất, các hợp đồng
mua bán có thể sẽ được neo vào một chỉ số giá nào đấy hoặc theo ngoại tệ có thể
là đôla hoặc Euro. Khi xảy ra lạm phát phi mã, đồng tiền tại quốc gia đó bị mất
giá trị rất nhanh, đưa đến các thành phần trong nền kinh tế chỉ giữ một lượng tiền
tối thiểu vừa đủ cho các thanh toán hàng ngày, họ sẽ chuyển tiền sang các loại
đầu tư không bị ảnh hưởng bởi lạm phát và không gửi tiền tiết kiệm với mức lãi
suất danh nghĩa. Tại Việt Nam, trong những năm 80 của thế kỷ trước, chúng ta
cũng đã có tỷ lệ lạm phát đến 300%.
- Siêu lạm phát: diễn ra khi giá cả trong một nền kinh tế thị trường tăng
hàng triệu hay thậm chí hàng tỷ phần trăm một năm. Các nhà nghiên cứu nhận
thấy một số đặc điểm thường gặp của siêu lạm phát, thứ nhất cầu về tiền giảm
mạnh (đo bằng trữ lượng tiền chia cho mức giá), thứ hai giá cả và lương thực tế
không ổn định. Siêu lạm phát có thể hủy hoại thành quả lao động của các thành
phần trong nền kinh tế như một thảm họa tự nhiên. Thế giới đã được chứng kiến
siêu lạm phát tại Đức vào đầu thế kỷ XX và tại Zimbabwe trong thời gian gần
đây.
2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Milton Friedman đã đưa ra một kết luận nổi tiếng “Lạm phát mọi nơi và
mọi lúc đều là hiện tượng tiền tệ”, nghĩa là khi tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của chính phủ thông qua việc Ngân hàng nhà nước mua trái phiếu do
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 16
Chính phủ phát hành, thì lạm phát là không thể tránh khỏi. Lý thuyết này được
giải thích bới tiền đề tiền tệ trung lập, tiền đề này cho rằng cung tiền tăng lên
hoàn toàn không tác động gì đến số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra
và số việc làm.
Keynes thi cho rằng, việc bù đắp chi tiêu bằng cách tăng cung tiền sẽ
không dẫn tới lạm phát cao, nếu trong nền kinh tế tại quốc gia đó đang có thất
nghiệp cao và các doanh nghiệp chưa tận dụng được hết năng lực sản xuất của
mình. Nói cách khác là nền kinh tế chưa đạt được mức GDP tiềm năng của mình.
Keynes phân biệt có hai loại lạm phát, đó là lạm phát hàng hóa và lạm
phát thu nhập (Luận thuyết về tiền tệ,1930). Trong đó lạm phát hàng hóa xảy ra
khi giá thị trường của các hàng hóa được sản xuất hàng loạt và lâu dài như nông
sản, dầu thô, khoáng sản tăng lên. Tương đương khi cầu hàng hóa trong tương
lai tăng đột biến trong khi cầu không thay đổi, thì khi đó giá thị trường sẽ tăng
vọt. Lạm phát thu nhập xuất hiện khi chi phí sản xuất hàng hóa tăng lên, điều nay
đưa đến việc các doanh nghiệp sẽ phải tăng giá bán để đảm bảo cho sự tồn tại của
doanh nghiệp. Trong trường hợp này, các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất
như tiền lương, nguyên vật liệu, chi phí cho vốn vay đều trở lên đắt hơn. Trong
khi, năng suất lao động không tăng, hoặc tăng không nhanh bằng tốc độ tăng của
chi phí sản xuất được tính bằng tiền.
Ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, khi các nhà kinh tế học của trường
phái cơ cấu nghiên cứu về lạm phát tại các nước đang phát triển đã tìm thấy một
nguyên nhân gây ra lạm phát là sự không co giãn của cung và sự cứng nhắc của
cơ cấu giữa các khu vực trong nền kinh tế (Torado,1989). Các nhà kinh tế học
đều xây dựng căn cứ để xác định lạm phát cơ cấu dựa trên ba yếu tố căn bản:
- Giá tương đối thay đổi khi cơ cấu kinh tế thay đổi
- Sự kém linh hoạt của giá cả và tiền tệ
- Cung tiền thụ động để cân bằng lượng cầu dư trong thị trường hàng hóa
và dịch vụ.
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 17
Tổng kết lại, cho dù tiếp cận từ các góc độ khác nhau, các nguyên nhân
khác nhau để phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát, thì các nhà kinh tế học đều
chấp nhận rằng lạm phát xảy ra khi tổng cầu hàng hóa và dịch vụ vượt quá tổng
cung hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cấu bao gồm:
- Nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu phải kể đến sự tăng cung tiền, tăng thu
nhập khả dụng, tăng chi tiêu công cộng của chính phủ, tăng tiêu dùng, mở rộng
tín dụng, mở rộng khu vực kinh tế tư nhân, tăng hàng xuất khẩu, manh nên của
nền kinh tế ngầm và một số nhân tố ít ảnh hưởng khác
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung gồm có thiếu các nhân tố sản xuất,
sự mất ổn định trong công nghiệp, thiên tai và dịch bệnh trong nông nghiệp, sự
khan hiếm hàng giả tạo, tăng hàng xuất khẩu, sự độc quyền và các nhân tố khác.
3. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế
Lạm phát thường tác động cả hai mặt: tích cực khi lạm phát thấp và tiêu
cực khi lạm phát ở mức phi mã hoặc siêu tốc.
Lạm phát làm phân phối lại thu nhập và của cải giữa các giai cấp khác
nhau.
Khi có lạm phát những người có tài sản, những người đang đi vay nợ là có lợi, vì
giá cả các loại hàng hóa đều tăng lên, còn giá trị tiền tệ lại giảm xuống. Những
người làm công ăn lương chỉ có nguồn thu nhập chính là tiền lương và những
người gửi tiền là bị thiệt hại.
- Tác động của lạm phát đối với phát triển kinh tế và công ăn việc làm. Đối
với nền kinh tế thị trường, khi lạm phát xảy ra cơ bản là có tác động làm tăng
trưởng nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn. Trong nền kinh tế thị
trường, lạm phát đồng nghĩa với việc cung tín dụng phát triển quá nhanh chóng,
các nhà kinh doanh có cơ hội để đầu tư thêm, công ăn việc làm cũng được tạo ra
nhiều hơn. Nhưng khi lạm phát giảm đột ngột thì sẽ làm cho nền kinh tế bị co
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 18
hẹp lại quá nhanh, hậu quả là số lao động giảm và thiết bị bị bỏ không, không sử
dụng hết năng lực của nền kinh tế, ví dụ như nến kinh tế Việt Nam tại thời điểm
2012. Các món nợ ngân hàng và các chủ nợ khác sẽ dễ dàng thu lại được trong
thời kỳ lạm phát, nhưng nếu là ngân hàng tư nhân họ sẽ không thiệt hại gì cả. Chỉ
có người gửi tiền mới bị thiệt hại.
Các tác động khác của lạm phát
- Lạm phát cân bằng có dự tính được trước: đây là một trường hợp lý tưởng
khi giá cả tăng lên 10% chằng hạn, thu nhập danh nghĩa cũng tăng lên 10% có
nghĩa là lạm phát không ảnh hưởng gì đến thu nhập, nó không phân phối lại thu
nhập. Ở đây Nhà nước đã dự đoán trước được thu nhập và điều chỉnh các chính
sách cho phù hợp, người dân cũng vậy, họ cũng biết trước được tỷ lệ lạm phát và
điều chỉnh các hành vi kinh tế của mình cho phù hợp.
- Một cuộc lạm phát vừa cân bằng, vừa dự đoán trước được không có ảnh
hưởng gì đến sản lượng thực tế, hoặc phân phối lại thu nhập.
- Lạm phát không cân bằng: thực tế là lạm phát thường đẩy các loại chi
phí tăng lên, đẩy thuế tăng lên. Có nghĩa là nó có ảnh hưởng đến sản lượng và
thu nhập.
4. Các biện pháp kiềm chế lạm phat
Chính sách hạn chế lượng cung tiền
Biện pháp này thực hiện khi lạm phát diễn ra ở một tốc độ siêu tốc hoặc phi mã.
Thực hiện chính sách thắt chặt lượng cung tiền tệ, ngân hàng trung ương của các
nước thường thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt nhằm hạn chế khối
lượng tiền lưu thông, còn Chính phủ thường thực hiện chính sách hạn chế chi
tiêu hoặc các biện pháp khác, đây là biện pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát.
Chính sách tiền tệ
- Để thực hiện chính sách tiền tệ, hạn chế bằng hai cách “đóng băng” tiền
tệ hoặc “hút” bớt tiền từ lưu thông về, ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ
chính sách tiền tệ theo hướng:
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 19
+ Gia tăng lãi suất để hạn chế nhu cầu vay vốn của nền kinh tế đồng thời
kích thích tăng lượng tiền gửi của doanh nghiệp và tiền gửi tiết kiệm của dân cư
vào ngân hàng.
+Chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.
+ Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc để hạn chế khả năng cấp tín dụng của hệ
thống ngân hàng thương mại.
+ Thực hiện các biện pháp khác nhau nhằm rút bớt khối lượng tiền thừa
trong lưu thông như bán: chứng khoán, vàng, ngoại tệ,.. nhằm thu hút tiền lưu
thông vào hệ thống ngân hàng.
- Đối với chính sách tài chính:
+ tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nước, cắt giảm chi tiêu của Chính phủ mà
không tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế, giảm biên chế nhằm giảm
bớt các khoản chi tiêu phúc lợi xã hội, chi quốc phòng an ninh và các khoản chi
khác.
+ Nỗ lực khơi tăng các nguồn thu ngân sách từ thuế, phí, lệ phí và các
khoản khác, tăng thu nhập cũng phải chú ý đến đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu,
đặc biệt chính sách thuế phải có tác động hướng tới thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh phát triển.
+Hạn chế bội chi ngân sách Nhà nước, đặc biệt là bội chi thường xuyên
cho chi lương, không sử dụng biện pháp phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân
sách.
- Chính sách thu nhập:
Trong thời kỳ lạm phát Chính Phủ thường phải thi hành biện pháp hạn chế
việc tăng thu nhập làm giảm áp lực gia tăng cung ứng tiền tệ vì nếu tăng cung
ứng tiền tệ có thể sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên.
- Chính sách về lao động.
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 20
Lao động là 1 trong các yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của nền
kinh tế, nghĩa là lao động là yếu tố trực tiếp quyết định đến sản lượng, đến tổng
thu nhập xã hội; đến lạm phát.
Mặt khác từ mô hình đường cong Phillips đơn giản, người ta thấy có mối
quan hệ nghịch biến giữa tỉ lệ lạm phát và thất nghiệp. Do vậy trong điều kiện để
hạn chế, kiểm soát lạm phát, người ta phải chấp nhận 1 tỉ lệ thất nghiệp nhất định
để “mua” lấy 1 tỷ lệ lạm phát mong muốn.
Biện pháp mở rộng cầu
Biện pháp này thực hiện khi lạm phát diễn ra tốc độ vừa phải, lạm phát thấp.
-Thi hành các biện pháp nhằm gia tăng khối lượng hàng hóa cung ừng
cho nền kinh tế bằng cách thực hiện:
Kế hoạch sản xuất và lưu thông hàng hóa phù hợp. Việc gia tăng sản xuất
hàng hóa trong nước là biện pháp cơ bản nhất mang tính chiến lược, nhằm tạo cơ
sở phát triển lưu thong hàng hóa và ấn định lưu thông tiền tệ.
Trước mắt, cần phải nhập khẩu hàng hóa thiết yếu cung ứng cho nền kinh
tế, giảm bớt căng thẳng mất cân bằng cung – cầu hàng hóa nhầm thiết lập thể cân
bằng mới.
- Thi hành biện pháp nhằm ổn định giá cả:
Nhằm để hạn chế sự gia tăng của giá cả đối với 1 số mặt hàng thuộc lĩnh
vực: nông sản, công nghệ, nhập khẩu dịch vụ bằng các biện pháp:
Thực hiện việc kiểm soát giá cả, nhất là kiểm soát đối với các mặt hàng
đầu mối, nguyên vật liệu.
Thực hiện chính sách tự do mậu dịch để hàng hóa tự do dịch chuyển, điều
hòa giữa nơi thừ và nơi thiếu.
Nới lỏng hàng rào thuế quan, khuyến khích nhập khẩu hàng hóa với giá rẻ
cung ừng cho nền kinh tế.
Chúc Anh/Chị học tập tốt!
Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS.Nguyễn Tiến Hùng – Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Viện Đại học
Mở Hà Nội – NXB Thông tin và Truyền thông năm 2013.
2. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai2_tien_te_chinh_sacch_tien_te_lam_phat_98.pdf