III. KẾT LUẬN
Phương pháp hóa học tuy cho phép tách
chiết triệt để lượng protein nhưng lại làm biến
màu carotenoid và chất thải hóa học của quá
trình thu hồi gây ô nhiễm môi trường. Phương
pháp sinh học cho sản phẩm thu hồi protein
và carotenoid trong phức hợp carotenoprotein
nên rất bền màu nhưng hiệu suất thu hồi chế
phẩm thấp hơn và giá thành cao do sử dụng
enzyme. Để nâng cao chất lượng chế phẩm
caroten-protein từ phế liệu tôm thu hồi có hoạt
tính sinh học và hiệu suất thu cao, tùy mục đích
ứng dụng sản phẩm thu hồi chúng ta có thể lựa
chọn phương pháp xử lý sinh học sử dụng đơn
hay kết hợp hai enzyme có bản chất endo- và
exo-protease hay kết hợp phương pháp xử lý
hóa học và sinh học nhằm mục đích tăng khả
năng thu hồi sản phẩm với chất lượng cao,
giảm thiểu sự hư hỏng các hoạt chất sinh học
và ô nhiễm môi trường. Phương pháp kết hợp
hóa học và sinh học hoặc kết hợp hai protease
có bản chất endo- và exo- có thể cải thiện
được nhược điểm so với từng phương pháp
xử lý đơn lẻ. Chế phẩm caroten-protein được
tách chiết bằng các phương pháp kết hợp có
chất lượng cao, có thể ứng dụng trong công
nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi, công nghệ
chế biến thực phẩm, y dược và mỹ phẩm
9 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tách chiết và thu nhận chế p hẩm caroten-Protein từ phế liệu tôm và ứng dụng - Phạm Thị Đan Phượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
142 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI
TÁCH CHIẾT VÀ THU NHẬN CHẾ P HẨM CAROTEN-PROTEIN
TỪ PHẾ LIỆU TÔM VÀ ỨNG DỤNG
EXTRACTION AND RECOVERY OF CAROTENOID–PROTEIN
FROM SHRIMP WASTE AND ITS APPLICATION
Phạm Thị Đan Phượng1, Trang Sĩ Trung2, Nguyễn Thị Như Thường3
Ngày nhận bài: 13/10/2014; Ngày phản biện thông qua: 15/10/2015; Ngày duyệt đăng: 15/12/2015
TÓM TẮT
Trong quá trình sản xuất chitin/chitosan từ phế liệu tôm, chúng ta cũng có thể tách chiết và thu nhận chế
phẩm caroten-protein có cao giá trị sử dụng cao, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Có hai phương
pháp tách chiết chính đang được sử dụng phổ biến là phương pháp hóa học và sinh học. Để nâng cao hiệu suất
thu hồi và chất lượng của chế phẩm caroten-protein, việc kết hợp các phương pháp tách chiết bằng hóa học
và sinh học đã cải thiện được nhược điểm so với từng phương pháp xử lý đơn lẻ. Trong bài báo này, chúng tôi
giới thiệu tổng quan về các phương pháp tách chiết và thu hồi chế phẩm caroten-protein trong quá trình sản
xuất chitin/chitosan và khả năng ứng dụng của nó trong chăn nuôi thủy sản, công nghệ thực phẩm, y dược và
mỹ phẩm.
Từ khóa: caroten-protein, carotenoid, phế liệu tôm
ABSTRACT
In the process of producing chitin/chitosan from shrimp waste, carotenoid and protein should be
recovered to provide added valuable products as well as to minimize environmental pollution. There are two
main methods widely used to extract carotenoid-protein, which are including chemical method and biological
method. In our study, a combination of chemical and biological methods was applied successfully, which
enhance recovery effi ciency and quality of carotenoid-protein in compared to the single treatment method.
This paper reviews the methods for extraction and recovery of carotenoid-protein from shrimp waste and its
potential applications in aquaculture, food technology, medicine, and cosmetics.
Keywords: carotenoid-protein, carotenoid, shrimp waste
1 ThS. Phạm Thị Đan Phượng: Khoa Công nghệ thực phẩm – Trường Đại học Nha Trang
2 PGS. TS. Trang Sĩ Trung: Trường Đại học Nha Trang
3 ThS. Nguyễn Thị Như Thường: Viện Công nghệ sinh học và Môi trường – Trường Đại học Nha Trang
I. MỞ ĐẦU
Trong công nghiệp chế biến tôm, tùy thuộc
vào công nghệ, loại tôm và sản phẩm cuối
cùng mà lượng phế liệu tôm có thể chiếm từ 25
– 40% so với khối lượng nguyên liệu ban đầu.
Trước đây, nguồn phế liệu đầu và vỏ tôm chủ
yếu được dùng để làm nguyên liệu chế biến
thức ăn gia súc, gia cầm, phân bón... Sau
đó, các nhà khoa học đã nghiên cứu và sản
xuất sản phẩm có giá trị kinh tế cao từ phế
liệu tôm như chitin và chitosan. Tuy nhiên,
trong quá trình thu hồi chitin/chitosan, một số
thành phần có giá trị khác gồm carotenoid,
protein và khoáng chất (Ca, P, K, Mg, Mn và Fe)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 143
trong phế liệu tôm (đặc biệt có trong đầu tôm
với hàm lượng đáng kể) chưa được nghiên
cứu thu hồi và ứng dụng nhiều [3, 5, 18]. Trong
đó, carotenoid được biết là một chất màu tự
nhiên an toàn cho các ngành công nghệ thực
phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm. Gần đây, nhiều
phương pháp đã được sử dụng để tách chiết và
thu nhận các chế phẩm đạm giàu carotenoid.
Chúng có thành phần chính là protein và
carotenoid ở dạng phức hợp caroten-protein và
có nhiều trong phế liệu giáp xác (tôm hùm, tôm
sú, tôm chì, tôm thẻ chân trắng) và một số phế
liệu hải sản khác. Việc tách chiết chúng không
chỉ thu nhận được các sản phẩm có giá trị gia
tăng mà còn giảm thiểu ô nhiễm môi trường [3,
5, 12, 18](Chakrabarti, 2002 #268;Phạm Thị
Đan Phượng, 2013 #260). Tuy nhiên, việc lựa
chọn phương pháp để tách chiết và thu hồi chế
phẩm caroten-protein đạt được hiệu suất cao
và chất lượng tốt nhưng không ảnh hưởng đến
chất lượng của chitin/chitosan rất cần được
quan tâm. Trong bài báo này, chúng tôi trao đổi
về việc lựa chọn phương pháp tách chiết chế
phẩm caroten-protein và các ưu-nhược điểm
của chúng.
II. NỘI DUNG
1. Nguồn gốc và bản chất của chế phẩm
caroten-protein
Trong các loài sinh vật biển, carotenoid
và protein thường liên kết với nhau tạo
thành phức carotenoprotein. Ngoài ra, phức
carotenoprotein còn liên kết với các chất khác
như axit béo, chitin, khoáng chất (hình 1). Đặc
biệt, phức carotenoprotein thường gặp ở các
loài động vật giáp xác thủy sản, tồn tại nhiều ở
lớp ngoại bì, trong vỏ, ở các cơ quan nội tạng
(trứng, dạ dày hay bạch huyết). Carotenoprotein
được chia thành 2 nhóm chính: (1) carotenoid
liên kết với lipo(glyco)protein, (2) carotenoid
liên kết với một protein hoặc glycoprotein [28].
Phản ứng giữa các nhóm 4- và 4’-keto trong
các vòng đầu mạch của astaxanthin với các
nhóm chức amin trong protein là điều kiện
tiên quyết để hình thành phức carotenoprotein
giữa astaxanthin và protein [12, 28].
Phức hợp carotenoprotein tan trong nước
và có tính bền vững. Trong một vài trường
hợp, màu sắc của nó bền đến vài năm trong
không khí ở điều kiện nhiệt độ phòng. Các
carotenoid có liên kết với protein ít bị oxi hóa
hơn so với khi chúng ở dạng tự do. Do vậy,
carotenoid ở trong cơ thể sinh vật bền vững
hơn so với carotenoid sau tách chiết ở dạng
tự do. Carotenoid ở dạng tự do thường có
màu vàng, cam hoặc đỏ. Tuy nhiên, trong cơ
thể những loài động vật biển không xương
sống, các phức hợp carotenoprotein tạo
nên nhiều màu khác nhau như xanh lá cây,
xanh dương và tía. Trong các loài giáp xác
thủy sản có chứa 3 loại crustacyanine là
α-, β- và γ-crustacyanine. Cả 3 loại này đều có
astaxanthin và ở dạng nhóm liên kết
(prosthetic group). Trong đó, astaxanthin
thường liên kết với các phân tử protein tạo
thành phức hợp α-crustacyanin, hấp thụ cực
đại ở bước sóng (λmax) 628 nm, có màu xanh
đen đặc trưng thường thấy ở các loài thủy sản
sống. Dưới tác dụng của nhiệt, liên kết trên
bị phá hủy và giải phóng astaxanthin tự do
có màu đỏ cam (λmax = 480 nm). Cấu trúc của
carotenoid cũng quyết định các chức năng sinh
học của chúng, trong đó phần lớn carotenoid
đều có mạch 40 carbon liên kết với các nhóm
chức chứa oxy khác nhau. Trong phế liệu tôm,
carotenoid chủ yếu là astaxanthin (trên 95%),
thuộc nhóm chất tetraterpenoid, là sắc tố màu đỏ
cam. Tương tự như carotenoid khác, nó có tính
phân cực thấp và hòa tan tốt trong mỡ hoặc dầu.
Astaxanthin có thể được tìm thấy trong vi tảo,
men bia, cá hồi, cá, loài nhuyễn thể, động vật
giáp xác thủy sản và lông của một số loài chim.
Trong các loài giáp xác thủy sản, astaxanthin chủ
yếu tập trung ở phần vỏ ngoài. Nó thường tồn tại
ở dạng đồng phân quang học (3S, 3’S), trong đó
chủ yếu là ở dạng mono- hay di-ester với các axit
béo không no mạch dài, hoặc dưới dạng phức
hợp carotenoprotein [9, 11, 12].
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
144 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
2. Các phương pháp tách chiết và thu hồi
chế phẩm caroten-protein từ phế liệu tôm
trong quá trình sản xuất chitin/chitosan
Trước đây, các nhà khoa học tập trung
nghiên cứu chiết tách và thu hồi chất màu
(carotenoid), chất mùi (protein) từ phế liệu
tôm bằng một số dung môi hữu cơ, axit, nhiệt,
nước hay nước muối loãng. Để nâng cao chất
lượng sản phẩm và có thể ứng dụng trong công
nghệ thực phẩm, y dược và mỹ phẩm, các hợp
chất trên được tách chiết bằng cách dùng dầu
thực vật và các loại enzyme protease hoặc kết
hợp các phương pháp chiết nhằm thu hồi cả
carotenoid và protein [3, 11, 13, 24]. Tuy nhiên,
protein và carotenoid nhanh chóng bị hư hỏng
hoặc bị oxy hóa khi ở dạng tự do sau tách
chiết, trong khi ở dạng phức hợp lại bền và
ổn định hơn [12, 23]. Điều này đã được chứng
minh trong các nghiên cứu công bố gần đây.
Hình 2 trình bày quy trình thu hồi chế
phẩm caroten-protein trong quá trình sản xuất
chitin/chitosan. Sản phẩm tách chiết sau khi
thủy phân sẽ được phân riêng thành phần bã
(dùng để sản xuất chitin/chitosan) và phần dịch
thủy phân (dùng để kết tủa để thu hồi phức
hợp carotenoprotein, protein tự do, carotenoid
tự do...). Để thu hồi chế phẩm trong dung dịch
đạm thủy phân được tách chiết từ giáp xác
thủy sản nói chung và phế liệu tôm trong quá
trình sản xuất chitin nói riêng, phải có phương
pháp thích hợp để đạt hiệu suất thu hồi sản
phẩm cao nhất nhưng mức độ ảnh hưởng đến
chất lượng của sản phẩm thấp nhất, đặc biệt
là hạn chế sự hư hỏng carotenoid. Hiện nay,
nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu kết hợp sử
dụng một số các phương pháp thu hồi để nâng
cao chất lượng sản phẩm và tăng hiệu suất thu
hồi chế phẩm caroten-protein nhằm ứng dụng
trong thức ăn chăn nuôi hoặc thực phẩm cho
người. Đồng thời, đây là một hướng đi theo
phương pháp sản xuất sạch hơn.
2.1. Phương pháp tách chiết chế phẩm
caroten-protein từ phế liệu tôm
2.1.1. Tách chiết chế phẩm caroten-protein
bằng phương pháp hóa học
Trong quá trình sản xuất chitin/chitosan
các công đoạn xử lý đều sử dụng hóa chất
tùy theo nguyên liệu, công nghệ và yêu cầu
Hình 1. Các liên kết hóa học giữa astaxanthin với axit béo, chitin và protein trong đầu vỏ tôm [9]
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 145
chất lượng của chitin/chitosan. Các loại axit
hữu cơ thường dùng trong quá trình ủ xilo như
axit lactic, acetic, formic, propionic... hoặc axit
vô cơ như axit sunphuric, axit hydrochloric,
axit phosphoric. Đây là phương pháp dễ dàng
triển khai với quy mô lớn và có chi phí sản xuất
tương đối thấp. Tuy nhiên, việc sử dụng hóa
chất trong công nghệ sản xuất chitin, chitosan
không những ảnh hưởng xấu đến chất lượng
của chế phẩm caroten-protein thu được mà
còn có thể gây ra ô nhiễm môi trường trầm
trọng do hóa chất sau khi sử dụng được thải
ra hoặc sẽ phải tiêu tốn chi phí để xử lý nước
thải này [5, 8].
Hình 2. Quy trình thu hồi chế phẩm caroten-protein chung trong quá trình sản xuất chitin/chitosan
Trong thực tế, phương pháp ủ xilô bằng
các axit hữu cơ hoặc kết hợp axit hữu cơ với vô
cơ vẫn được nghiên cứu và ứng dụng khá phổ
biến để thu hồi chế phẩm dịch ủ xilô dùng cho
sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc và thủy sản.
Tuy nhiên, sử dụng axit vô cơ để ủ xilô nhằm
mục đích thu hồi chế phẩm caroten-protein
sẽ không cho sản phẩm có chất lượng cao so
với phương pháp ủ xilô bằng axit hữu cơ hoặc
lên men vi sinh (vi khuẩn), do các acid vô cơ có
khả năng phân hủy một số carotenoid, đặc biệt
là có khả năng gây biến tính protein. Như vậy,
chế phẩm caroten-protein thu được sẽ có chất
lượng thấp do lượng protein và carotenoid
thu được thấp, đặc biệt ảnh hưởng rất lớn
đến màu sắc của sản phẩm do carotenoid bị
oxy hóa mạnh và chỉ phù hợp làm thức ăn
chăn nuôi. Hơn nữa, để sử dụng chế phẩm
caroten-protein thu được từ quá trình ủ xilô
bằng axit vô cơ cần phải được trung hòa chế
biến thức ăn chăn nuôi [7].
2.1.2. Tách chiết chế phẩm caroten-protein
bằng phương pháp sinh học
Để nâng cao chất lượng sản phẩm thu
được, carotenoid được tách chiết và thu hồi
trong phức hợp carotenoprotein nhằm giữ bền
màu do liên kết giữa carotenoid và protein.
Hơn nữa, protein có trong phế liệu tôm có
chất lượng dinh dưỡng khá cao, bao gồm đầy
đủ các axit amin cần thiết [1, 12, 23]. Do vậy,
việc thu hồi chế phẩm bao gồm cả carotenoid
và protein rất quan trọng trong ngành công
nghệ thực phẩm và chăn nuôi. Lee và
cộng sự (1999) [20] đã so sánh khả năng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
146 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
tách chiết và thu hồi carotenoid có trong chế
phẩm caroten-protein bằng phương pháp ủ
xilô axit acetic và phương pháp kết hợp sử
dụng dung dịch đệm Na3-EDTA và enzyme
protease với mục đích sử dụng làm phẩm màu
thực phẩm chức năng. Kết quả nghiên cứu cho
thấy hiệu quả tách chiết chế phẩm caroten-protein
cao nhờ phương pháp kết hợp sử dụng
Na3-EDTA và một loại enzyme protease sinh
từ vi sinh vật (không ủ xilô bằng axit).
Ngoài ra, việc sử dụng phương pháp sinh
học sản xuất chitin/chitosan bằng protease
không những nhằm nâng cao chất lượng chế
phẩm caroten-protein thu hồi mà còn hạn chế
ô nhiễm môi trường do chất thải sau sản xuất.
Khanafari và cộng sự (2007) [19] cũng khẳng định
hiệu quả tách chiết carotenoid trong chế phẩm
caroten-protein bằng vi sinh vật (Lactobacillus
plantarum, Lactobacillus acidophilus) cao hơn
nhiều so với phương pháp hóa học. Các loại
enzyme được sử dụng để tách chiết phổ biến
hiện nay là papain, trypsin, pepsin, một số loại
protease chiết rút từ vi sinh vật (Aspergillus
melleus, Aspergillus oryzae, Bacillus Licheniforrnis,
Bacillus subtilis, Pseudomonas) và các loại
protease thương mại khác (Alcalase, Protamex,
Flavourzyme, Neutrase) [5, 12, 20]. Đặc điểm
chung của các enzyme này là có khoảng pH
thích hợp rộng, thường từ 5,5 - 8,5; vì vậy, khi
ứng dụng thủy phân thì có thể thích ứng với
pH môi trường tự nhiên của nguyên liệu thủy
sản mà không cần điều chỉnh pH. Nhiệt độ
thích hợp của các enzyme này dao động trong
khoảng từ 45 – 600C.
Sử dụng protease sẽ phá vỡ các liên kết
của các protein khác trong phế liệu tôm, do đó
làm giảm sự kết tủa protein tại điểm đẳng điện
pI và làm tăng khả năng thu hồi caroten-protein
[15]. Các enzyme thủy phân protein như
papain, pepsin, trypsin đều hoạt động tốt ở
nhiệt độ phòng. Tuy nhiên, mỗi loại enzyme
có pH tối ưu khác nhau như pepsin hoạt động
tối ưu ở pH 4,6, papain ở pH 6,2 và trypsin
ở pH 7,6. Trong đó, so với papain và pepsin,
hiệu suất thu hồi bột nhão caroten-protein của
trypsin thấp nhất, nhưng hàm lượng carotenoid
và protein trong chế phẩm caroten-protein thu
được cao nhất. Mặc dù, tổng lượng protein
thu được từ phế liệu tôm cao nhất khi sử dụng
trypsin nhưng nó có giá thành cao. Do đó,
papain vẫn được dùng để thu hồi chế phẩm
protein và caroten-protein từ phế liệu tôm
trước khi sản xuất chitin/chitosan [12].
2.1.3. Tách chiết chế phẩm caroten-protein
bằng phương pháp kết hợp
a. Phương pháp kết hợp hóa học và sinh học
Trong phế liệu tôm, chitin kết hợp chặt chẽ
với protein, chất màu carotenoid và khoáng.
Trong đó, protein, chất màu carotenoid tồn tại
dưới dạng phức chất carotenoprotein. Do vậy,
trong quá trình sản xuất chitin/chitosan, việc thu
hồi đồng thời carotenoid, protein và loại khoáng
là một vấn đề đáng quan tâm. Nhân tố chính
trong quy trình sản xuất chitin là các tác nhân
khử khoáng (EDTA, HCl, nhiệt) và các tác nhân
kết tủa (HCl, (NH4)2SO4), nhiệt) có khả năng
ảnh hưởng đến chất màu carotenoid. Vì vậy,
nhằm nâng cao hiệu suất chiết caroten-protein
và giữ được hoạt tính sinh học của chất màu
carotenoid trong quá trình loại protein ra khỏi
phế liệu tôm, các nhà khoa học kết hợp việc
sử dụng hóa chất (axit vô cơ hay hữu cơ) và
enzyme protease để xử lý [7, 8, 15].
Để hạn chế nhược điểm của các phương
pháp ủ xilô, Trang Sĩ Trung và cộng sự (2009)
[7] đã sử dụng kết hợp axit hữu cơ và Alcalse,
có bổ sung rỉ đường để chiết carotenoid từ
phế liệu tôm. Quá trình axit hóa cho phép giảm
nhanh pH đến mức ổn định nhằm ức chế vi
sinh vật gây thối, tạo môi trường thuận lợi cho
các enzyme nội tại hoạt động, đồng thời cũng
tạo điều kiện cho vi khuẩn lactic có mặt trong
nguyên liệu phát triển, thúc đẩy quá trình tự
thủy phân. Trong quá trình ủ xi lô, bổ sung
đường có vai trò quan trọng cho hoạt động
của vi sinh vật, tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình khử khoáng và khử protein. Mục đích ủ
xilô bằng axit hữu cơ nhằm tách khoáng và
protein ra khỏi phế liệu nhưng không ảnh
hưởng lớn đến carotenoid. Hơn nữa, khi tiếp tục
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 147
tách protein bằng Alcalase cho phép thu hồi
chitin/chitosan và hỗn hợp caroten-protein có
chất lượng cao đồng thời giảm thiểu ô nhiễm
môi trường đáng kể. Hàm lượng protein và
carotenoid thu được từ quá trình sản xuất
chitin cải tiến kết hợp xử lý enzyme này cũng
cao hơn hẳn so với phương pháp xử lý bằng
hóa học [4]. Ưu điểm của phương pháp cải tiến
này dựa trên sự hạn chế sự thủy phân protein
một phần và sự phân hủy phần lớn carotenoid
khi sử dụng axit ở nồng độ cao và thời gian ủ
xilô kéo dài.
b. Phương pháp sinh học kết hợp sử dụng hai
enzyme protease
Khi thủy phân một protease, hiệu suất
thường đạt không cao do enzyme đó chỉ mang
một trong hai đặc tính hoặc là exoprotease
hoặc là endoprotease và có tính đặc hiệu riêng.
Tuy nhiên, khi kết hợp hai enzyme sẽ nâng
cao được hiệu suất thủy phân nhờ hiệu ứng
cộng hưởng [8, 25, 27]. Enzyme có bản chất
endoprotease (Alcalase, Protamex, Neutrase...)
sẽ thủy phân các liên kết peptide ở bên trong
chuỗi polypeptid. Enzyme có tính exoprotease
(Flavourzyme, Corolase LAP...) thì cắt các liên
kết ở hai đầu tận cùng của chuỗi polypeptide.
Các exoprotease cắt ở đầu tận cùng có nhóm
carboxyl được gọi là carboxylpeptidase, các
exoprotease cắt ở đầu tận cùng có nhóm amin
gọi là aminopeptidase [27].
Việc kết hợp hai protease sẽ có khả năng
thủy phân tốt hơn so với sử dụng đơn protease
vì tác dụng của các protease xảy ra trên nhiều
vị trí khác nhau trong phân tử protein. Bản chất
của các mạch nhánh của axit amin ở bên cạnh
các liên kết peptid có ảnh hưởng mạnh đến hoạt
động của các enzyme. Trên thực tế, các protease
rất đặc hiệu và tỷ lệ những liên kết peptid
trong một phân tử protein bị bẻ gãy bởi một
protease là không cao. Ví dụ, trypsin chỉ thủy
phân liên kết peptid giữa lysine và argininine,
trong khi chymotrypsin chỉ thủy phân những
liên kết peptid giữa tyrosine, phenylalanine,
tryptophan. Thậm chí, chymosin chỉ thủy
phân liên kết peptid giữa Phe105-Met106 của
kappa-casein [27].
Để nâng cao hiệu suất thủy phân cũng
như chất lượng của sản phẩm thu được,
nhiều công trình nghiên cứu đã sử dụng kết
hợp hai enzyme protease và thường được tiến
hành theo hai giai đoạn. Enzyme có bản chất
endoprotease được sử dụng ở giai đoạn đầu và
sau đó bổ sung exoprotease cho giai đoạn sau.
Chức năng chính của endoprotease tạo ra một
lượng lớn các chuỗi peptid có đầu -C và đầu
-N tự do để tạo điều kiện cho các exoprotease
hoạt động [3, 26, 27]. Ví dụ, khi Alcalase
(endoprotease) được kết hợp với Flavourzyme
(protease có cả tính chất endoprotease và
exoprotease, nhưng tính chất exoprotease
trội hơn) thì Alcalase được cho vào trước, sau
đó mới thủy phân bằng Flavourzyme sẽ tăng
hiệu quả của quá trình thủy phân, hiệu suất
quá trình chiết rút và chất lượng sản phẩm
[3, 26]. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại dựa
trên cơ sở thực nghiệm như chất lượng sản
phẩm (màu sắc, mùi vị của sản phẩm), độ an
toàn của enzyme sử dụng, hiệu quả của quá
trình thủy phân để chọn cặp enzyme thích
hợp lại kết hợp hai protease có cùng bản chất
endoprotease như Alcalase kết hợp với
Protamex [16].
2.2. Phương pháp thu hồi hỗn hợp
caroten-protein từ phế liệu tôm
2.2.1. Phương pháp thu hồi bằng pH đẳng điện
(pI)
Phương pháp này thường được sử dụng
để kết tủa protein hoà tan trong dung dịch. Khi
điện tích của protein bằng không (tại pH = pI),
lớp vỏ hydrate bên ngoài bị phá vỡ, các phân
tử protein tập hợp lại với nhau hình thành kết
tủa. Sau đó, chúng có khả năng trở về dạng
phân tử protein hoà tan mà vẫn giữ được hoạt
tính sinh học và cấu trúc phân tử khi loại bỏ tác
nhân gây kết tủa. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế
của phương pháp này không cao do thời gian
kết tủa lâu, hiệu suất thu hồi thấp và chi phí
cao [5, 6].
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
148 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
2.2.2. Phương pháp thu hồi bằng xử lý nhiệt
Phương pháp này cho phép thu hồi kết tủa
triệt để trong thời gian ngắn và ít gây ô nhiễm
môi trường, tuy nhiên chi phí năng lượng cho
quá trình gia nhiệt cao. Tuỳ thuộc từng loại
protein, nhiệt độ biến tính, cường độ và thời
gian khác nhau sẽ quyết định mức độ biến tính
và hiệu quả thu hồi. Khi nhiệt độ tăng thì mức
độ biến tính tăng. Tuy nhiên, khi gia nhiệt ở
điểm đẳng điện (pI) thì tủa kết protein lại nhanh
hơn [5, 6].
2.2.3. Phương pháp thu hồi bằng polyme
(chitosan)
Chitosan là một chất keo tụ, tạo bông tốt
và ứng dụng có hiệu quả trong việc thu hồi các
chất hữu cơ trong nước, đặc biệt là protein.
Phân tử chitosan cũng có khả năng hấp phụ,
tạo cầu nối để liên kết các hạt keo protein đã
kết tủa thành các phân tử có kích thước lớn
hơn và lắng xuống. Chitosan có độ deacetyl
hóa càng cao thì càng thuận lợi để thu hồi
protein hòa tan hơn. Lưu ý, khi nồng độ chitosan
tăng, số điện cùng dấu trên bề mặt của phân tử
protein tăng lên, dẫn đến sự tăng lực đẩy tĩnh
điện giữa chúng do đó cản trở quá trình keo tụ
và sa lắng của các phân tử protein. Phương
pháp này có nhiều ưu điểm như không gây
biến tính, không độc hại, hàm lượng sử dụng
chitosan không lớn nhưng hiệu quả thu nhận
caroten-protein lại cao [5, 6].
3. Tiềm năng ứng dụng
Trước đây, chế phẩm caroten-protein
được thu hồi và chế biến thức ăn chăn nuôi
[2, 21]. Hiện nay, chế phẩm caroten-protein
ngày càng được quan tâm sử dụng trong thực
phẩm, đặc biệt trong chế biến thực phẩm chức
năng. Thành phần dinh dưỡng trong chế phẩm
caroten-protein như carotenoid, protein mạch
ngắn (peptid), các axit amin góp phần tạo màu
và mùi trong công nghệ chế biến thực phẩm.
Trong đó, carotenoid sau khi được tinh chế
có hoạt tính chống oxy hóa tốt nên được ứng
dụng nhiều trong ngành y dược và mỹ phẩm
[1, 12, 18].
Ngoài ra, carotenoid cũng được dùng trong
công nghiệp thực phẩm do chúng có khả năng
chống oxy hóa, kích thích hệ thống miễn dịch,
kích thích tăng khả năng sinh trưởng và sinh
sản. Nó còn có thể giúp làm giảm stress và
ngăn ngừa một số bệnh thoái hóa cơ thể như
chứng xơ vữa động mạch, ung thư và các bệnh
về mắt [10, 14, 17, 19, 22](Britton, 1995 #286).
Protein cũng là một chất dinh dưỡng tốt cần
được quan tâm thu hồi. Hơn nữa, carotenoid
và protein nằm trong phức carotenoprotein sẽ
bền vững hơn so với dạng đơn lẻ [12, 23]. Chế
phẩm caroten-protein được sử dụng bổ sung
vào hỗn hợp thức ăn cho cá hồi hấp dẫn và
tốt hơn so với việc chỉ sử dụng carotenoid tự
do [21].
III. KẾT LUẬN
Phương pháp hóa học tuy cho phép tách
chiết triệt để lượng protein nhưng lại làm biến
màu carotenoid và chất thải hóa học của quá
trình thu hồi gây ô nhiễm môi trường. Phương
pháp sinh học cho sản phẩm thu hồi protein
và carotenoid trong phức hợp carotenoprotein
nên rất bền màu nhưng hiệu suất thu hồi chế
phẩm thấp hơn và giá thành cao do sử dụng
enzyme. Để nâng cao chất lượng chế phẩm
caroten-protein từ phế liệu tôm thu hồi có hoạt
tính sinh học và hiệu suất thu cao, tùy mục đích
ứng dụng sản phẩm thu hồi chúng ta có thể lựa
chọn phương pháp xử lý sinh học sử dụng đơn
hay kết hợp hai enzyme có bản chất endo- và
exo-protease hay kết hợp phương pháp xử lý
hóa học và sinh học nhằm mục đích tăng khả
năng thu hồi sản phẩm với chất lượng cao,
giảm thiểu sự hư hỏng các hoạt chất sinh học
và ô nhiễm môi trường. Phương pháp kết hợp
hóa học và sinh học hoặc kết hợp hai protease
có bản chất endo- và exo- có thể cải thiện
được nhược điểm so với từng phương pháp
xử lý đơn lẻ. Chế phẩm caroten-protein được
tách chiết bằng các phương pháp kết hợp có
chất lượng cao, có thể ứng dụng trong công
nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi, công nghệ
chế biến thực phẩm, y dược và mỹ phẩm.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phạm Thị Đan Phượng, 2013. Chế biến bột nêm tôm từ chế phẩm đạm giàu carotenoid thu nhận từ đầu tôm thẻ
chân trắng. Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản, 3, 39 - 46.
2. Phạm Thị Đan Phượng, Phạm Thị Minh Hải, Trang Sĩ Trung, Trình Văn Liễn, và Ngô Văn Lực, 2008. Ứng dụng
carotenoprotein thu được từ quá trình sản xuất chitin để sử dụng chế biến thức ăn chăn nuôi. Tạp chí Khoa học
Công nghệ Thủy sản, 2, 37 - 43.
3. Phạm Thị Đan Phượng và Trần Thị Luyến, 2013. Chiết rút chế phẩm đạm giàu carotenoid từ đầu tôm thẻ chân
trắng. Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản, 1, 125 - 131.
4. Trang Sĩ Trung, 2009. Đánh giá chất lượng sản phẩm và hiệu quả môi trường của qui trình sản xuất chitin cải
tiến kết hợp xử lý e nzyme. Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản, 1, 3 - 9.
5. Trang Sĩ Trung, Nguyễn Anh Tuấn, Trần Thị Luyến, và Nguyễn Thị Hằng Phương, 2010. Chitin-chitosan từ phế
liệu thủy sản và ứng dụng. NXB Nông Nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh.
6. Trang Sĩ Trung, Nguyễn Thị Phương, Phạm Thị Thanh Hải, và Phạm Thị Đan Phượng, 2008. Nghiên cứu ứng
dụng chitosan trong việc thu hồi protein từ nước rửa surimi. Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản, 2, 25 - 30.
7. Trang Sĩ Trung, Phạm Thị Đan Phượng, Nguyễn Công Minh, và Ngô Thanh Lĩnh, 2009. Kết hợp ủ xi lô bằng
axit formic để nâng cao hiệu quả qui trình sản xuất chitin từ phế liệu tôm. Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy
sản, 4, 31 - 38.
8. Trang Sĩ Trung, Vũ Ngọc Bội, và Phạm Thị Đan Phượng, 2007. Nghiên cứu kết hợp enzyme protease trong công
nghệ sản xuất chitin từ phế liệu đầu vỏ tôm. Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản, 3, 11 - 17.
Tiếng Anh
9. Armenta, R.E. and Guerrero, L.I., 2009. Amino aci d profi le and enhancement of enzymatic hydrolysis of
fermented shrimp carotenoproteins. Food Chemistry, 112, 310-315.
10. Britton, G., 1995. Structure and properties of carotenoids in relation to function. FASEB J, 9 (15), 1551-8.
11. Buchwald, M. and Jencks, W.P., 1968. Properties of the crustacyanins and the yellow lobster shell pigment.
Biochemistry, 7(2), 844-59.
12. Chakrabarti, R., 2002. Carotenoprotein from tropical brown shrimp shell waste by enzymatic proc ess. Food
Biotechnol, 16, 81-90.
13. Chen, H.M. and Meyers, S.P., 1982. Extraction of Astaxanthin Plgment from Crawfi sh Waste Using a Soy Oil
Process. Journal of Food Science, 47(3), 892-896.
14. Chien, Y.H., Pan, C.H. and Hunter, B., 2003. The resistance to physical stresses by Penaeus monodon juveniles
fed diets supplemented with astaxanthin. Aquaculture, 216(1–4), 177-191.
15. Dauphin, L., 1991. Enhancing value of lobster waste by enzymatic methods. A thesis of Master of Science.
16. Gilmartin, L. and Jervis, L., 2002. Pro duction of cod (Gadus morhua) muscle hydrolysates. Infl uence of
combinations of commercial enzyme preparations on hydrolysate peptide size range. Jounal of Agricultural &
Food Chemistry, 50(19), 5417-23.
17. Higuera, C.I., Felix, V.L. and Goycoolea, F.M., 2006. Astaxanthin: a revie w of its chemistry and applications.
Critical Reviews in Food Science and Nutrition, 46, 185-96.
18. Holanda, H.D.D. and Netto, F.M., 2006. Recovery of components from shrimp (Xiphopenaeus Kroyeri)
processing waste by enzymatic hydrolysis. Journal of Food Science, 71, 29 8-303.
19. Khanafari, A., Saberi, A., Azar, M., Vosooghi, Gh., Jamili, Sh. and Sabbaghzadeh, B., 2007. Extraction of
astaxanthin esters from shrimp waste by ch emical and microbial methods. Iranian Journal of Environmental,
Health Science & Engineering, 4, 93 - 98.
20. Lee, S.H., Roh, S.K., Park, K.H. and Yoon, K.R., 1999. Effective extraction of astaxanthin pigment from shrimp
using proteolytic enzymes. Biotechnology and Bioprocess Engineering, 4(3), 1 99-204.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
150 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
21. Long A.M and Haard N.F, 1988. The effect of carotenoid-protein association on pigmentation and growth rates
of rainbow trout (Salmo qairdneri). Proceeding of the Aquaculture International Congress, Vancouver, BC, 2,
98 - 100.
22. Mayne , S.T., 1996. Beta-carotene, carotenoids, and disease prevention in humans. FASEB Journal, 10(7),
690-701.
23. Simpson, B.K. and Haard, N.F., 1985. The use of proteolytic enzy mes to extract carotenoproteins from shrimp
wastes. Journal of Applied Biochemistry, 7(3), 212-222.
24. Spinelli, J. and Mahnken, C., 1978. Carotenoid deposition in pen-reared salmo nids fed diets containing oil ex-
tracts of red crab (Pleuroncodes planipes). Aquaculture, 13(3), 213-223.
25. Villanueva, A., Clemente, A., Bautista, J. and Millán, F., 1999. Production of an extensive sunfl ower protein
hydrolysate by sequential hydrolysis wi th endo-and exo-proteases. Grasas y Aceites, 50(6), 472-476.
26. Vioque, J., Sánchez-Vioque, R., Clemente, A., Pedroche, J., Bautista, J. and Millan, F., 1999. Production and
characterization of an e xtensive rapeseed protein hydrolysate. Journal of the American Oil Chemists’ Society,
76(7), 819-823.
27. Whitaker, J.R., Voragen, A.G.J. and Wong, D.W.S., 2003. Handbook of food enzymology, Marcel Dekker
Inc., New York.
28. Zagal sky, P.F., 1976. Carotenoid-protein complexes. Pure and Applied Chemistry, 47, 103-120.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19_pham_thi_dan_phuong_4_2015_937_2024327.pdf