Bài học nhiều nước cho thấy,giá phải trả không áp dụng và thực thi luật môi trường là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận.Tác nhân thường không gánh chịu hậu quả mà là xã hội,người dân và thế hệ sau gánh chịu.
Giá tri của một thương hiệu và hình ảnh của thương hiệu qua sự nhận thức và cảm nhận của người tiêu dùng sẽ chĩ tăng khi thương hiêu đó có những hoạt động xã hội do công ty chủ trương đề ra và thực hiện.Có nhiều nghiên cứu cho thấy những hoạt động như vậy có hiệu quả nhiều trong lĩnh vực tiếp thị quản cáo cho công ty hơn các phương pháp tiếp thị truyền thống cổ điển.Người tiêu thụ hiện nay ở một số nước đã phát triển bắt đầu có khuynh hướng để ý đến vấn đề môi trường,môi sinh tác dộng qua các sản phẩm hau dịch vụ kinh tế.Họ sẵn sàng bỏ ra thêm hay trả giá cao hơn cho các sản phẩm,dịch vụ ít ảnh hưởng đến môi trường mang hiệu quả “sản phẩm xanh”.
Ở Việt Nam thực trạng hiện tại là ít có doanh nghiệp có trách nhiệm về môi trường và lợi ích xã hội trong chính sách và tôn chỉ của công ty.Sự xuất hiện của những “làng ung thư”
Liên tục trong thời gian gần đây cho thấy,các giá phải trả cho ô nhiễm môi trường là quá đắt.Đứng đầu là ô nhiễm môi trường nước do các doanh nghiệp sản xuất đã thải chất thải không được xử lý tiêu chuẩn.Theo ông Trần Hồng Hà,Cục trưởng Cục Bảo vệ môi trường-Bộ TN&MT,cho biết tính đến tháng 6/2006,Việt Nam co 134 khu Công Nghiệp,khu chế xuất,trong đó chỉ có 33 khu đã có công trình xử lý nước thải tập trung.Các khu Công Nghiệp chế xuất này thải ra hàng triệu tấn rác thải mỗi năm,trong do01 có hàng vạn tấn chất thải nguy hại.
Theo tin tức gần đây,trong số 12 khu Công nghiệp ở Tp.HCM chỉ có 2 khu Công Nghiệp là có hệ thống xử lý nước thải.Hàng năm,các nhà máy trong khu Công Nghiệp ,khu chế xuất tại TPHCM thải ra gần 63.000 tấn chất thải rắn.Con số này tăng lên gấp 10 lần nếu tính cả các nhà máy ngoài khu Công Nghiệp.Đoạn sông Thị Vải kéo dài trên 10 km từ xã Long Thọ (Nhơn Trạch,Đồng Nai) cho đến thị trấn Phú Mỹ(Tân Thanh,Bà Rịa –Vũng Tàu)bị ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.
Với những thông tin cập nhật như trên ,trước hết chính phủ cần phải có một chính sách giúp doanh nghiệp thích ứng với những đòi hỏi của xã hội và thế giới bên ngoài thay đổi theo chiều hướng và nhận thức chung của thế giới trong thời đại toàn cầu hóa mà Việt Nam bắt đầu tích cực tham dự sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới(WTO).Thí dụ,các hàng xuất khẩu nông nghiệp và công nghiệp ở một số nước gần đây đã bị trả về hoặc thu hồi do sự kém chất lượng,tác hại vào môi trường và an toàn sức khỏe.
Và khuynh hướng hiện nay là để nâng cao chất lượng cho sản phẩm và thương hiệu của mình trong nước và ngoài nước,các doanh nghiệp vì thế đã dần áp dụng tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu về bảo vệ môi sinh,bảo đảm an toàn trong quá trình sản xuất từ vật liệu đến sản phẩm sau cùng,thậm chí sao cho sản phẩm cuối đời .
15 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2467 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động ngoại vi(Externalities), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I/Tác động ngoại vi(Externalities)
Bài học nhiều nước cho thấy,giá phải trả không áp dụng và thực thi luật môi trường là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận.Tác nhân thường không gánh chịu hậu quả mà là xã hội,người dân và thế hệ sau gánh chịu.
Giá tri của một thương hiệu và hình ảnh của thương hiệu qua sự nhận thức và cảm nhận của người tiêu dùng sẽ chĩ tăng khi thương hiêu đó có những hoạt động xã hội do công ty chủ trương đề ra và thực hiện.Có nhiều nghiên cứu cho thấy những hoạt động như vậy có hiệu quả nhiều trong lĩnh vực tiếp thị quản cáo cho công ty hơn các phương pháp tiếp thị truyền thống cổ điển.Người tiêu thụ hiện nay ở một số nước đã phát triển bắt đầu có khuynh hướng để ý đến vấn đề môi trường,môi sinh tác dộng qua các sản phẩm hau dịch vụ kinh tế.Họ sẵn sàng bỏ ra thêm hay trả giá cao hơn cho các sản phẩm,dịch vụ ít ảnh hưởng đến môi trường mang hiệu quả “sản phẩm xanh”.
Ở Việt Nam thực trạng hiện tại là ít có doanh nghiệp có trách nhiệm về môi trường và lợi ích xã hội trong chính sách và tôn chỉ của công ty.Sự xuất hiện của những “làng ung thư”
Liên tục trong thời gian gần đây cho thấy,các giá phải trả cho ô nhiễm môi trường là quá đắt.Đứng đầu là ô nhiễm môi trường nước do các doanh nghiệp sản xuất đã thải chất thải không được xử lý tiêu chuẩn.Theo ông Trần Hồng Hà,Cục trưởng Cục Bảo vệ môi trường-Bộ TN&MT,cho biết tính đến tháng 6/2006,Việt Nam co 134 khu Công Nghiệp,khu chế xuất,trong đó chỉ có 33 khu đã có công trình xử lý nước thải tập trung.Các khu Công Nghiệp chế xuất này thải ra hàng triệu tấn rác thải mỗi năm,trong do01 có hàng vạn tấn chất thải nguy hại.
Theo tin tức gần đây,trong số 12 khu Công nghiệp ở Tp.HCM chỉ có 2 khu Công Nghiệp là có hệ thống xử lý nước thải.Hàng năm,các nhà máy trong khu Công Nghiệp ,khu chế xuất tại TPHCM thải ra gần 63.000 tấn chất thải rắn.Con số này tăng lên gấp 10 lần nếu tính cả các nhà máy ngoài khu Công Nghiệp.Đoạn sông Thị Vải kéo dài trên 10 km từ xã Long Thọ (Nhơn Trạch,Đồng Nai) cho đến thị trấn Phú Mỹ(Tân Thanh,Bà Rịa –Vũng Tàu)bị ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.
Với những thông tin cập nhật như trên ,trước hết chính phủ cần phải có một chính sách giúp doanh nghiệp thích ứng với những đòi hỏi của xã hội và thế giới bên ngoài thay đổi theo chiều hướng và nhận thức chung của thế giới trong thời đại toàn cầu hóa mà Việt Nam bắt đầu tích cực tham dự sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới(WTO).Thí dụ,các hàng xuất khẩu nông nghiệp và công nghiệp ở một số nước gần đây đã bị trả về hoặc thu hồi do sự kém chất lượng,tác hại vào môi trường và an toàn sức khỏe.
Và khuynh hướng hiện nay là để nâng cao chất lượng cho sản phẩm và thương hiệu của mình trong nước và ngoài nước,các doanh nghiệp vì thế đã dần áp dụng tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu về bảo vệ môi sinh,bảo đảm an toàn trong quá trình sản xuất từ vật liệu đến sản phẩm sau cùng,thậm chí sao cho sản phẩm cuối đời có thể được tái chế hay dễ được sinh hủy không gây ô nhiễm đến môi trường.Ngoài luật trong nước liên quan đến môi trường mà các doanh nghiệp sản xuất phải tuân theo,vai trò của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế là tạo ra một môi trường cạnh tranh với các cơ chế khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn sản xuất phù hợp,các dịch vụ môi trường và sự xử dụng các kỷ thuật bảo vệ môi sinh và an toàn sản phẩm có sức mạnh cạnh tranh trong và ngoài nước.
Hiện nay trong khu vực ASEAN,một số nước như Thái Lan,Mã lai,Singapore,Phi Luật Tan đã triển khai và bắt đầu áp dụng hệ thống chuẩn nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm,ít tác hại vào môi trường và an toàn cho lao động trong quá trình sản xuất,thâu hoạch,chế biến nông phẩm.Dự định trong tương lai gần ,ASEAN sẽ đề ra tiêu chuẩn chung gọi là ASEANGAP dựa vào các chuẩn đang được thực hiện ở các nước trên.Chính phủ Việt Nam vì thế nên đề ra một chuẩn tương tự và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước áp dụng để sửa soạn cho sản phẩm của mình có chất lượng cao về độ an toàn,không tác hại vào môi sinh và sức khỏe con người.Áp dụng được chuẩn này sẽ giúp cho nông dân và doanh nghiệp tạo ra được các sản phẩm có sức cạnh tranh tốt vào thị trường thế giới,nhất là ở các thị trường có tiêu chuẩn cao như Nhật ,Mỹ và Âu Châu.Không những sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng mà giá thành và rủi ro sẽ được giảm nhiều và tạo được tiếng tốt cho thương hiệu của các doanh nghiệp áp dụng chuẩn GAP.
Hệ thống chuẩn GAP cho sản phẩm nông nghiệp giống như chuẩn ISO 14000 cho sản phẩm công nghiệp.Hiện nay nhiều doanh nghiệp trong nước đã ý thức tầm quan trong của chuẩn ISO 14000 và áp dụng vào trong quá trình sản xuất sản phẩm.Ví dụ như công tư Phong Phú Q9,Việt Tiến,hải sản Bình An(Cần Thơ)đã áp dụng hệ chuẩn ISO 14000 và có những kết quả khả quan trong sự cạnh tranh ở các thị trường này.Đây không phải vì luật pháp bắt buộc mà là sự sống còn của thương hiệu và của chính doanh nghiệp.
Bên cạnh đó còn có chính sách dùng vật liệu tái tạo.Chính quyền trung ương và địa phương cũng phải có chính sách làm dễ dàng hơn cho doanh nghiệp tham dự vào sự việc chung bảo vệ môi trường tài nguyên.Thí dụ ở các thành phố,chính sách dùng vật liệu tái tạo như giấy ,hộp,plastic,chai lọ được khuyến khích và thực thi qua xử lý hai loại rác từ hộ trong thành phố lớn với hai loại thùng rác khác nhau.Trước hết chính sách này có thể được áp dụng ở các thành phố lớn,nơi mà xử lý chất thải rắn(chưa kể việc xử lý chất thải y tế)là một vấn đề lớn rất trầm trọng ở TPHCM và Hà Nội,để giảm áp lực vào các bải rác chôn.Và từ đó có thể áp dụng các nơi khác.Song song với việc thực thi chính sách này là sự giáo dục quần chúng qua nhiếu phương tiện khác nhau để có được hiệu quả cao.Khi đã có nơi cho phép xử lý khác nhau của các loại phế thải trên,doanh nghiệp cụng vì thế sẽ áp dụng chính sách này trong phạm vi rác từ doanh nghiệp.Vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa có lợi cho môi trường và xã hội.Điều này có thể mô tả giống như hoạt động được gọi là marketing xanh(Green Marketing).Marketing môi trường-Marketing sinh thái là những thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động marketing các loại sản phẩm được cho là tốt cho môi trường .Marketing xanh bao gồm hàng hoạt các hoạt động doanh nghiệp từ thay đổi thiết kế sản phẩm,quy trình sản xuất bao bì đóng gói,kể cả hoạt động quản cáo…nhằm đáp ứng “nhu cầu xanh”của người tiêu dùng và xã hội,từ đó tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trước các đối thũ
II.Sự gia tăng quyền lực độc quyền(Monopoly)
Trên thị trường hiện nay có ba hình thức trong mối quan hệ hệ giữa các công tu với nhau thể hiện hành vi độc quyền,hành động của một công ty hoặc sự kết hợp về cấu trúc giữa các công ty độc lập.Ba hình thức này là:các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,độc quyền,lạm dụng vị trí độc quyền hoặc vị trí thống lĩnh và sáp nhập.
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cho phép các nhóm công ty hoạt động cùng nhau nhằm đạt được lợi ích trong vị trí độc quyến,tăng giá,hạn chế sản phẩm và ngăn cản sự xâm nhập mới vào thị trường hoặc các hoạt động phát triển(thường công nghệ hoặc kỹ thuật).Những thỏa thuận nguy hiểm nhất là các thỏa thuận ngăn cản sự ganh đua về các động lực cơ bản của cạnh tranh trên thị trường là giá cả sản phẩm.Tùy theo từng hoàn cảnh,các thỏa thuận về sản phẩm kết hợp chẳng hạn như yêu cầu các nhà phân phối đảm nhận tất cả các khâu hoặc trói buộc các sản phẩm khác nhau lại(chẳng hạn như yêu cầu bán kèm hoac85mua kèm một sản phậm với một sản phẩm đăn được thị trường ưa chuộng),có thể hoặc tạo điều kiện hoặc hạn chế giới thiệu sản phẩm mới.Quyền kinh doanh thường bao gồm một tập hợp các thỏa thuận với các yếu tố cạnh tranh quan trọng.Một thỏa thuận về sử dụng quyền kinh doanh có thể bao gồm các điều khoản về cạnh tranh trong cùng môi trường địa lý,về việc liên hệ với nguồn cung và về các quyền đối với sở hữu trí tuệ chẳng hạn thương hiệu(ví dụ như kinh doanh dưới thương hiệu nào đó phải đảm bảo thống nhất về cách thức trang trí cửa hàng hay sử dụng cùng một nhà cung cấp dịch vụ).Lạm dụng vị trí độc quyền đích thực do không phải đối mặt với cạnh tranh hay đe dọa canh tranh sẽ đưa mức giá cao hơn và sản xuất ít hơn hoặc sản phẩm kém chất lượng hơn.Công ty này cũng có thể ít giới thiệu các sản phẩm phát triển hay các phương pháp cải tiến chất lượng.Thứ ba là “sáp nhập”hay “tập trung kinh tế” bao gồm các loại hợp nhất về cấu trúc chẳng hạn như cổ phần hoặc tài sản,công ty liên doanh,cùng nắm giữ cổ phần hoặc ban quản trị phối hợp(cùng tham gia trong vấn đề điều hành công ty) Việc sáp nhập tại các thị trường có độ tập trung bất thường hoặc việc sáp nhập tạo ra các công ty có thị phần cao bất thường được coi là có nhiều khả năng ành hưởng tới cạnh tranh..
Các hình thức hợp tác giữa các công ty hoặc của một công ty đơn lẻ nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên thị trường đang diễn ra ngày càng nhiều.Đó cũng là lý do luật cạnh tranh đang được thông qua ngày càng nhiều trên thế giới với xu hướng ngày càng trừng phạt nặng hơn đối với các hành vi có hại cho cạnh tranh,làm giảm sự năng động của thị trường và làm méo mó quan hệ cung cầu.Và 1/7/2005 theo tờ trình của Chính phủ ,sự cần thiết tạo công cụ pháp lý hạn chế cạnh tranh không lành mạnh đảm bảo sự công bằng,bình đẳng trong kinh doanh,Luật Cạnh tranh chính thức có hiệu lực.
Luật cạnh tranh quy định các hành vi gây hạn chế cạnh tranh bị cấm như: Thỏa thuận ấn định giá ,phân chia thị trường lạm dụng vị thế độc quyền,vị trí thống lãnh thị trường(chiếm trên 30% thị phần)…để áp đạt giá mua,bán bất hợp lý.Tuy nhiên,trên thực tế,năm 2008 đã liên tiếp xảy ra các vụ việc khá điển hình về các vi phạm như Hiệp hội thép Việt Nam ra nghị quyết ấn định giá bán(yêu cầu các thành viên bán 13.7-14 triệu đồng/tấn thép),vụ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thống nhất mức chi phí bảo hiểm len 3.95%/năm cho tất cả các đối tượng khách hàng…Theo luật cạnh tranh,những doanh nghiệp tham gia”liên minh làm giá”này sẽ bị phạt tối đa 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi.Luật gia Vũ Xuân Tiền đã chỉ ra rằng,Luật cạnh tranh đã bao quát hàng loạt nội dung mới không có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế theo mô hình”con anh,con tôi,con chúng ta”như đã xảy ra trong không ít Luật và Pháp lệnh ở nước ta;Luật cạnh tranh cũng bao quát một cách toàn diện những vấn đề liên quan đến cạnh tranh thương trường…Và bên cạnh đó việc Bộ Công thương trình Chính phủ đề án xóa bỏ độc quyền,xây dựng thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh điện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và mong muốn của người tiêu dùng là một nỗ lực rất đáng hoan nghênh.Vấn đề lớn và phức tạp nên có ý kiến khác nhau là điều không lạ và có thể giúp cho việc hoàn thiện đề án.Điều quan trọng là vấn đề này không nên đóng khung việc thảo luận trong các cơ quan,tổ chức có liên quan trực tiếp mà cần phát huy được trí tuệ của nhiều người,đặc biệt là các trí thức ở trong và ngoài nước.Việc này làm tốt sẽ thúc đẩy những nổ lực xóa bỏ độc quyền,tạo lập môi trường kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác,đồng thời tạo tiền đề cho việc xây dựng luật bảo đảm quyền của dân được tiếp cận thông tin và đóng góp ý kiến hoàn thiện thể chế,đặc biệt là những chủ trương,chính sách có quan hệ mật thiết tới sản xuất và đời sống của dân.
III/Chênh lệch thái hóa về thu nhập của dân cư:
Lao động ở những ngành “độc quyền” thu nhập rất khác, ví dụ như thu nhập bình quân ở các ngành than, thép, hoá chất, xăng dầu, ngân hàng, điện lưc…cao gấp khoảng 4 lần các ngành dệt may, da giày hay cơ khí. Theo đó, sự phân hoá về thu nhập của người lao động (NLĐ) trong các khu vực và trong các ngành tuỳ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, vào lợi thế độc quyền làm cho chênh lệch mức sống ngày càng cao. Thu nhập của NLĐ trong DNNN Trung ương và DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thường cao hơn DNNN địa phương và DN ngoài quốc doanh.
Cụ thể, thu nhập của NLĐ trong các đơn vị về xăng dầu, bảo hiểm, ngân hàng, điện lực thường cao hơn thu nhập của các ngành nghề khác; các ngành như than, thép, hoá chất, xăng dầu, thuốc lá, rượu, bia, nước giải khát, sữa nhựa… có thu nhập bình quân từ 4-5,4 triệu đồng/NLĐ/tháng/; trong khi lao động trong các ngành dệt may, da giày, cơ khí chỉ thu nhập từ 800 nghìn đồng- 1,2 triệu đồng/NLĐ/tháng. Tiền lương của công nhân trong các DN tư nhân, Công ty TNHH nhìn chung thấp hơn so với các DNNN: như thu nhập bình quân của các DN ngoài nhà nước thuộc ngành công thương năm 2007 chỉ vào 3,1 triệu đồng/tháng; ngành giao thông thậm chí còn thấp hơn, chỉ khoảng 2,4 triệu đồng/tháng. Đối với DN FDI lại nảy sinh khó khăn khác cho NLĐ: làm việc trực tiếp với cường độ cao, nhưng các chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền thưởng, lương làm thêm giờ không được tính đủ và kịp thời; định mức lao động cao khiến NLĐ phải làm thêm giờ mới đạt được. Hiện nay, các doanh nghiệp FDI thuộc ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ…đa số chỉ trả lương cho NLĐ cao hơn lương tối thiểu một chút, buộc NLĐ muốn có thu nhập phải làm thêm. Ở các DN dệt may, da giày đang có tình trạng biến động rất lớn về lao động do cường độ lao động căng thẳng, thu nhập thấp trong khi giá cả ngày càng tăng. Nhiều lao động chọn giải pháp về làm ở địa phương, khiến cho khu vực TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương bị thiếu hụt lao động nghiêm trọng. Giá cả tăng cũng đã ảnh hưởng mạnh đến khu vực hành chính, sự nghiệp. Lương thấp, ngày lại càng nhiều khoản đóng góp, tiêu dùng khiến đời sống cán bộ, công chức gặp nhiều khó khăn. Đã xảy ra tình trạng "chảy máu" chất xám ở các cơ quan hành chính nhà nước.Từ góc nhìn của một nhà quản lý, ông Hoàng Minh Hào, Phó vụ trưởng Vụ Tiền lương - Tiền công, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, nhìn nhận vấn đề chênh lệch thu nhập trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường là điều khó tránh khỏi.Theo ông, có ba nguyên nhân khiến cho chênh lệch thu nhập giữa các nhóm lao động ngày càng lớn. Thứ nhất, việc trả lương đã không còn bị bó buộc bởi các quy định, định mức như trước đây. Thứ hai, thỏa thuận mức lương đã theo quy luật cung cầu về lao động. Thứ ba, mức lương chịu tác động bởi biến động nhân lực của từng ngành.
Sự chênh lệch là điều đã xảy ra trong xã hội. Vậy giải pháp nào để thu ngắn khoảng cách đó. Theo tôi chúng ta cần phải tăng cường thảo luận về điều này và với tôi, chúng ta cần làm liền các bước sau:
1.Lập quỹ hổ trợ người thu nhập thấp. Quỹ này dùng kinh phí tự doanh nghiệp để:
a) Xây dựng các trung tâm thông tin về doanh nghiệp sử dụng lao động và mức lương cụ thể,chế độ lao động…b) Xây dựng trung tâm tìm kiếm việc làm, với trách nhiệm giới thiệu việc làm miễn phí cho thành viên. c) Lập các nghiệp đoàn, nhằm đào tạo tay nghề, bổ sung kiến thức miễn phí... d) Lập trung tâm pháp lý bảo vệ người thu nhập thấp, đẩy mạnh hoạt động pháp lý để yêu cầu các công ty sử dụng lao động hoạt động đúng pháp luật...
2. Công đoàn phải thật sự là công đoàn, lắng nghe người lao động, hoạt động vì người lao động... 3. Huy động chuyên gia, tình nguyện viên,.... làm việc với Công đoàn nhằm đào tạo miễn phí các khóa Kỹ năng mềm và cứng (hard skills & soft skills...). 4. Các cơ quan chức năng phải làm quyết liệt, thay vì họp hành và bàn cải.
IV/Chu kỳ kinh doanh(Business cycles)
Khi nghiên cứu các mô hình kinh tế, các nhà kinh tế luôn hướng tới việc tìm hiểu cơ chế dẫn đến các trạng thái cân bằng, đặc biệt trong dài hạn. Trên thực tế, nền kinh tế luôn bị các biến động làm đi chệch khỏi cân bằng dài hạn, gọi là các sốc (shock). Các sốc này có thể tác động rất lâu dài, hoặc rất chóng vánh, có thể dự kiến được hay hoàn toàn bất ngờ. Tùy vào loại sốc, mà dưới tác động của nó nền kinh tế có thể vẫn ở nguyên vị trí cân bằng hay bị dịch chuyển sang trạng thái khác. Quá trình điều chỉnh của nền kinh tế để trở về trạng thái cân bằng có thể nhanh hoặc chậm. Hành trình nền kinh tế khi chịu tác động của sốc, dịch chuyển trở lại vị trí cân bằng được gọi là “chu kỳ kinh doanh“, mặc dù trên thực tế, hành trình này có vẻ không giống như các loại chu kỳ chúng ta thường gặp. Ý nghĩa của nó như sau. Cho dù nền kinh tế không ở trạng thái cân bằng khi hành trình điều chỉnh đang diễn ra, nhưng các nhà kinh tế cho rằng nền kinh tế sẽ “ứng xử” một cách tối ưu trong chu kỳ kinh doanh đó, để hướng tới trạng thái cân bằng dài hạn. Trên thực tế, chu kỳ kinh doanh là một dãy các trạng thái nền kinh tế đi qua, được gọi là dãy các điểm cân bằng tạm thời, và người ta xem mỗi điểm cân bằng tạm thời đó là trạng thái tối ưu tại thời điểm xác định. Dãy các trạng thái này được gọi là một mô hình về cân bằng liên thời. Khái niệm này đặc biệt quan trọng đối với các chính sách kinh tế vĩ mô hiện đại, được xử lý theo phương pháp nghiên cứu DGE, và là một phần thiết yếu của nền tảng cho các chính sách ổn định kinh tế của các chính phủ. Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh.
Các pha của chu kỳ kinh tế
Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt Nam cho đến đầu thập niên 1990, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Nay không còn thấy cách gọi này nữa.
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
Nguyên nhân chu kỳ kinh doanh:
Vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau.
Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo, khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển hướng các chính sách đó sang thắt chặt. Hình 1 minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: tổng cầu dịch chuyển từ AD sang AD' khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' và giá cả giảm từ P đến P' (lạm phát giảm).
Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do sự can thiệp của chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính. Vì thế, để không xảy ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh sau các cú sốc cung, chính phủ không nên can thiệp gì cả. Hình 2 minh họa một trường hợp suy thoái do tổng cung giảm: vì lý do nào đó (ví dụ giá đầu vào tăng đột biến) tổng cung giảm từ AS xuống AS' khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' nhưng giá cả lại tăng từ P lên P' (lạm phát tăng).
V/Thông tin thị trường lệch lạc(incomplete information)&những suy thoái đạo đức
Ngày 28-3, tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã tổ chức hội nghị triển khai công tác đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại toàn quốc năm 2008. Ông Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ Công Thương, nhận xét tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trong năm đầu tiên khi VN gia nhập WTO rất phức tạp. Các hình thức gian lận khi tạm nhập tái xuất với mặt hàng ô tô, gian lận xuất xứ hàng hóa để được hưởng ưu đãi từ các nước ASEAN diễn ra phổ biến. Cùng đó, đã xuất hiện các phương thức hoàn thiện hàng giả tại Hà Nội, TPHCM đưa đi các tỉnh tiêu thụ như: kính mắt, giày, quần áo, rượu ngoại, sữa bột, mỹ phẩm. Đáng nói là phát hiện ngày càng nhiều mặt hàng nhập lậu có giá trị cao qua đường hàng không như: vàng, ngoại tệ, kim loại quý, tân dược, ma túy, mỹ phẩm, linh kiện điện tử cao cấp, máy tính xách tay... Tinh vi hơn là một số doanh nghiệp nhập khẩu phần mềm khai báo giá nhập khẩu với giá trị rất lớn, có dấu hiệu để chuyển tiền ra nước ngoài. Chẳng hạn như các trường hợp: Tại TP.HCM, 15/1/2008, lực lượng công an phối hợp với Chi cục Quản lý thị trường thành phố phát hiện kho chứa 58.000 gói thuốc lá ngoại nhập lậu tại nhà số 750/1/16 đường Nguyễn Kiệm, phường 4, quận Phú Nhuận. 20/12/2007, 4,6 tấn gà nhập lậu nguồn gốc không rõ ràng, có nguy cơ lây nhiễm cúm gia cầm cao đã bị các lực lượng chức năng bắt giữ và tiêu hủy tại huyện Văn Lãng (Lạng Sơn). Tháng 8-2008, giá cả thị trường có chiều hướng ổn định hơn. Cụ thể giá xăng dầu giảm nhẹ, xăng không chì và dầu hỏa giảm 1.000 đồng/lít, vàng SJC giảm 211.000 đồng/chỉ, đô la Mỹ giảm 150VNĐ/USD, giá gas các loại giảm từ 4.000 đồng/bình. Tuy nhiên thực tế thị trường vẫn tồn tại nhiều bất cập. Một số doanh nghiệp, cá nhân đã lợi dụng chính sách tạo thuận lợi khi tiến hành thủ tục hải quan để xuất nhập khẩu hàng cấm, hàng giả, lợi dụng chính sách quà tặng để nhập khẩu tân dược trái quy định. Không chỉ gian lận trong kinh doanh xăng dầu, giả mạo các nhãn hiệu phân bón mà tình hình hàng giả, hàng kém chất lượng đã xảy ra trên diện rộng như: rượu, sữa, thuốc tây, thuốc lá, điện thoại di động, gas, xi măng... Nguy hại hơn khi tình trạng sử dụng hàn the - một chất hóa học độc hại để pha chế trong thực phẩm vẫn còn tiếp diễn, bánh Trung thu được sản xuất ở nhiều nơi bất chấp vệ sinh an toàn thực phẩm. Biến động nổi bật nhất là tình trạng bán trái giá xăng và ngừng bán sau khi giá xăng đã giảm. Lúc 9 giờ 30 ngày 22-7 Đội QLTT Củ Chi kiểm tra cây xăng của DNTNKD xăng dầu Nguyễn Xuân tại Quốc lộ 22, ấp Tiền, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi do ông Nguyễn Xuân Bàng làm chủ. Tại đây có sáu trụ bơm nhưng không hoạt động, lấy lý do là ba trụ bị hư. Đội đã xử phạt 4.000.000 đồng. Lúc 11 giờ ngày 14-8, lực lượng QLTT quận Tân Phú phát hiện cây xăng Bình An tại số 462 đường Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh vẫn bán xăng cho khách với giá 19.000 đồng/lít thay vì 18.000 đồng/lít như quy định mới. Đội đã có quyết định xử phạt hành chính 15.000.000 đồng đối với chủ cây xăng. Mặc dù những vi phạm trên đã bị xử lý hành chính nhưng có nhiều ý kiến cho rằng đây là tội lừa dối khách hàng ở mức độ nghiêm trọng có quy định trong Bộ luật hình sự và nên xem xét để xử lý hình sự nhằm răn đe tình trạng hàng kém chất lượng mà xăng dầu là một mặt hàng thiết yếu.
Bộ Công Thương, ngày 20-9-2008, có công văn số 8698/BCT-QLTT gửi UBND, Ban chỉ đạo 127 các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về phòng chống gian lận trong kinh doanh xăng, dầu, phân bón và vật tư nông nghiệp. Công văn nêu rõ, Bộ Công Thương yêu cầu UBND, Ban 127 tỉnh, thành phố tiếp tục thực hiện khẩn trương công tác quy hoạch hệ thống phân phối, đại lý, cơ sở bán lẻ và các cơ sở dịch vụ kinh doanh xăng, dầu trên toàn tỉnh, tạo lập cơ chế hoạt động để hệ thống này có khả năng tự kiểm soát được chất lượng và số lượng sản phẩm từ khâu nhập khẩu, chế biến, phân phối, đại lý đến khâu bán lẻ cho người tiêu dùng. Ban chỉ đạo 127 địa phương chỉ đạo các lực lượng chức năng tiếp tục triển khai thực hiện phương án 14/PA-BCÐ ngày 8-7-2008 của Ban chỉ đạo 127 Trung ương, xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể đối với tất cả các cơ sở kinh doanh xăng, dầu trong phạm vi toàn tỉnh, đặc biệt chú ý gian lận thương mại về đo lường - chất lượng trong kinh doanh xăng, dầu. Chỉ đạo sở công thương rút giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với các trạm, cửa hàng bán lẻ xăng, dầu có hành vi gian lận thương mại, trường hợp có dấu hiệu tội phạm phải lập hồ sơ chuyển cơ quan pháp luật xử lý. Khẩn trương thực hiện công tác quy hoạch hệ thống phân phối, đại lý, cửa hàng bán lẻ phân bón và vật tư nông nghiệp, tạo lập cơ chế hoạt động để bảo đảm hệ thống có khả năng tự kiểm soát chống hàng giả, hàng kém chất lượng thâm nhập vào hệ thống. Chỉ đạo các lực lượng chức năng thực hiện văn bản số 44/BCÐ-QLTT, ngày 16-9-2008 của Ban chỉ đạo 127 Trung ương về việc thực hiện một số biện pháp chống hàng giả, hàng kém chất lượng theo Chỉ thị số 28/2008/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 16-9-2008, tăng cường kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, về đo lường, xuất xứ, nhãn hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của pháp luật đối với tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh phân bón, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp. Công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng tất cả những trạm, cửa hàng bán lẻ xăng, dầu có hành vi gian lận trong kinh doanh xăng, dầu, các cơ sở sản xuất, kinh doanh phân bón, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp có hành vi vi phạm để nhân dân biết và phối hợp các cơ quan chức năng giám sát, kiểm tra, xử lý.
VI/Thiếu hàng hóa công cộng(Public Goods)
Tính chất hàng hóa công cộng:
Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người không có vé vào xem.
Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính chất này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như quốc phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh...Các hàng hóa đó có chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng. Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn
Cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
Điều kiện Samuelson: muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng một cách hiệu quả, cần xác định đường cung và đường cầu của nó. Mỗi cá nhân có một ngân sách nhất định và có nhu cầu khác nhau về hàng hóa công cộng (G) và hàng hóa cá nhân (X), nếu giá của hàng hóa công cộng là t (mức thuế cá nhân phỉ trả) và của hàng hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá nhân sẽ có dạng: I = pX + tG. Ở mỗi mức thuế khác nhau, cá nhân sẽ có cầu về hàng hóa công cộng khác nhau và để tối đa hóa lợi ích, mỗi cá nhân sẽ có tỷ suất thay thế biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân bằng tỷ số giá giữa chúng (t/p). Đường cầu của mỗi cá nhân về hàng hóa công cộng cũng chính là tỷ suất thay thế biên nên đường cầu tổng hợp của tất cả các cá nhân là tổng tỷ suất thay thế biên. Mặt khác đường cung về hàng hóa công cộng phản ánh chi phí biên mà xã hội phải bỏ ra để sản xuất nó và để tối ưu hóa lợi ích, đường cung này cũng chính là tỷ suất chuyển đổi biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Nhà kinh tế học Paul Samuelson đã chứng minh rằng, để hàng hóa công cộng được cung cấp một cách hiệu quả thì tổng tỷ suất thay thế biên của các cá nhân phải bằng tỷ suất chuyển đổi biên hay tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm cho xã hội để sản xuất nó. Dó chính là điều kiện Samuelson về cung cấp hiệu quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy, kể cả khi đã xác định được mức cung cấp hiệu quả thì việc thực thi chúng lại còn phụ thuộc vào quá trình lựa chọn công cộng nên không phải lúc nào cũng đạt được mức hiệu quả
Cân bằng Lindahl: theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng hóa công cộng sẽ được cung cấp một cách hiệu quả nếu tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm đối với xã hội để cung cấp nó. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hàng hóa công cộng thuần túy không có thị trường để trao đổi như hàng hóa cá nhân, nơi mà cân bằng thị trường do cung cầu quyết định, do vậy việc xác định điểm cân bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách có hiệu quả, nhà kinh tế học người Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô hình mô phỏng mô hình thị trường cho hàng hóa công cộng gọi là cân bằng Lindahl. Mô hình này xác định nhu cầu của mỗi cá nhân về một loại hàng hóa công cộng thuần túy tương ứng với mức thuế (chính là giá của hàng hóa công cộng) ấn định cho cá nhân đó, mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy có hiệu quả là mức mà cầu của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý rằng mức cầu của mỗi cá nhân tương ứng với những mức thuế khác nhau nên cân bằng Lindahl khác với cân bằng thị trường hàng hóa cá nhân khi mà ở đó cân bằng thị trường ở mức giá như nhau đối với mọi cá nhân.
Thế nhưng mô hình cân bằng Lindahl trong thực tế lại vấp phải vấn đề kẻ đi xe không trả tiền. Để xác định đúng mức cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả, các cá nhân phải thực hiện nguyên tắc nhất trí và tự nguyện đóng góp đồng thời phải bộc lộ một cách trung thực nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng. Nếu một cá nhân biết được số tiền mà cá nhân khác sẵn sàng đóng góp để có hàng hóa công cộng thì người đó có thể bộc lộ nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng cũng như số tiền sẵn sàng đóng góp ít hơn thực tế. Trong trường hợp cực đoan, nếu một người biết rằng việc mình có trả tiền hay không cũng không ảnh hưởng gì đến việc cung cấp hàng hóa công cộng thì anh ta sẽ không trả tiền - hiện tượng kẻ đi xe không trả tiền. Nếu có rất ít kẻ đi xe không trả tiền thì hàng hóa công cộng vẫn có thể được cung cấp một cách hiệu quả. Trong những cộng đồng nhỏ, khi mà mọi cá nhân biết rõ nhau nên việc che giấu nhu cầu về hàng hóa công cộng khó thực hiện thì dư luận, áp lực cộng đồng có thể buộc mọi người đóng góp đầy đủ để có hàng hóa công cộng. Ví dụ: một xóm có thể yêu cầu các hộ gia đình đóng góp để bê tông hóa con đường chung một cách khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong cộng đồng lớn thì vấn đề trở nên rất phức tạp, không thể hoặc phải tốn chi phí rất lớn mới có thể loại trừ những kẻ đi xe không trả tiền. Đặc biệt nếu hàng hóa công cộng do tư nhân cung cấp thì họ không có công cụ, chế tài để buộc những người sử dụng trả tiền. Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến khu vực tư nhân không muốn cung cấp hàng hóa công cộng. Vì thế, chính phủ phải đóng vai trò cung cấp hàng hóa công cộng và thu các khoản đóng góp thông qua thuế. Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất không thể loại trừ ngày càng bị hạn chế. Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế, có thể ngăn chặn dễ hơn. Ví dụ, nhờ sự phát triển của công nghệ truyền hình, ngày nay đài truyền hình có thể cung cấp dịch vụ qua đường cáp thuê bao, qua đầu thu có cài mã khóa, nên có thể ngăn chặn tốt những người không chịu mất tiền mà vẫn xem được truyền hình. Điều này giải thích tại sao, gần đây, tư nhân ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp hàng hóa công cộng.
Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng
Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng điều đó là không được mong muốn
Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thể được hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức phí quá cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng người sử dụng có thể thấp hơn điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội xảy ra. Hình bên là đồ thị minh họa trường hợp một cây cầu có công suất thiết kế là Qc, trong khi nhu cầu đi lại tối đa qua đó chỉ là Qm. Nếu việc qua cầu miễn phí thì sẽ có Qm lượt người đi qua nhưng nếu thu phí ở mức p thì chỉ còn Qe lượt và xã hội bị tổn thất một lượng bằng diện tích hình tam giác bôi đậm. Do vậy, đối với hàng hóa công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá. Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng không hiệu quả là nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một người có vườn bên đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều người cùng được thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân mình chứ không tính đến nhu cầu của những người hàng xóm, chính vì vậy người đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi.
Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất lớn
Hàng hóa công cộng có chi phí giao dịch lớn
Có những hàng hóa công cộng mà chi phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm loại trừ bằng giá (gọi là chi phí giao dịch) rất tốn kém, ví dụ chi phí để duy trì hệ thống các trạm thu phí trên đường cao tốc,...thì có thể sẽ hiệu quả hơn nếu cung cấp nó miễn phí và tài trợ bằng thuế. Tuy vậy, để cân nhắc việc này cần so sánh tổn thất phúc lợi xã hội trong hai trường hợp. Đồ thị bên phải mô tả việc lựa chọn này. Giả sử hàng hóa công cộng có chi phí biên để sản xuất là c và do phát sinh thêm chi phí giao dịch nên giá của nó bị đẩy lên tới p. Mức cung cấp hàng hóa cộng cộng hiệu quả nhất là khi chi phí biên bằng lợi ích biên nghĩa là Qo. Tuy nhiên do giá bị đẩy lên p bởi chi phí giao dịch nên chỉ còn Qe người sử dụng hàng hóa, xã hội bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích tam giác ABE. Thế nhưng nếu hàng hóa được cung cấp miễn phí thì sẽ có Qm người sử dụng chứ không phải Qo. Trong trường hợp này lợi ích biên (chính là đường cầu) nhỏ hơn chi phí biên c nên xã hội cũng bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích hình tam giác EFQm do tiêu dùng quá mức. Trong trường hợp này chính phủ muốn quyết định xem nên cung cấp hàng hóa công cộng miễn phí hay thu phí cần phải so sánh tổn thất phúc lợi xã hội, nếu tổn thất do tiêu dùng quá mức nhỏ hơn tổn thất trong trường hợp tiêu dùng dưới mức hiệu quả thì cung cấp miễn phí và ngược lại. Tuy nhiên việc cung cấp hàng hóa cộng cộng miễn phí hay thu phí hoàn toàn không liên quan đến khu vực công cộng hay khu vực tư nhân sẽ sản xuất nó. Nếu chính phủ thấy rằng một hàng hóa công cộng nào đó cần được cung cấp miễn phí thì chính phủ hoàn toàn có thể đặt hàng khu vực tư nhân sản xuất rồi cung cấp nó.
LÊ THỊ THANH TUYỀN
LỚP:43_K34
STT:40
MSSV:108204340
Bài nghiên cứu:
NHỮNG KHIẾM KHUYẾT HỆ THỐNG THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH & CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động ngoại vi(Externalities).doc