Hạn chế phát thải
Trong việc ứng phó với BĐKH nhằm hạn chế
sự tác động tiêu cực đến ngành nông nghiệp,
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là cần có giải
pháp giảm nhẹ BĐKH, cụ thể là giải pháp hạn
chế phát thải khí nhà kính. Để đạt được mục
tiêu này cần có sự đồng thuận và phối hợp
của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hiện nay,
Việt Nam là một trong những quốc gia tích
cực tham gia vào việc giảm nhẹ BĐKH như
đã tham gia ký Nghị định thư Kioto vào tháng
12/1998 cam kết cắt giảm lượng khí thải gây
hiệu ứng nhà kính; đưa ra Chương trình mục
tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH vào tháng
12/2008… Việt Nam có thể tham khảo một số
chính sách để tạo ra động lực hạn chế phát
thải khí nhà kính như:
- Lồng ghép các chính sách về khí hậu vào
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
- Đưa ra tiêu chuẩn phát thải cho các ngành
kinh tế.
- Đưa ra mức thuế phát thải - Hỗ trợ tài chính (trợ cấp hoặc giảm thuế)
- Các thỏa ước tự nguyện giữa Chính phủ và
doanh nghiệp.
- Phát triển công cụ thông tin
- Chính sách về áp dụng công nghệ, sử dụng
năng lượng hiệu quả, tiết kiệm.
- Hợp tác quốc tế
- Tăng cường nghiên cứu khoa học.
Thích nghi
Xuất phát từ thực tế, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực
cần có giải pháp phù hợp nhằm thích ứng với
BĐKH. Đối với ngành nông nghiệp, để thích
ứng với BĐKH nước ta cần có những giải
pháp như:
- Xây dựng cơ cấu cây trồng phù hợp với
BĐKH, phát triển các giống cây có khả
năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh
khắc nghiệt như tìm ra các giống lúa thích
nghi với điều kiện úng ngập, chịu phèn,
chịu hạn, chịu mặn…
- Tăng cường sử dụng có hiệu quả và quy
hoạch nguồn nước tưới như đẩy mạnh triển
khai xây dựng, nâng cấp hồ chứa, các công
trình tiêu úng.
- Các biện pháp chống xâm nhập mặn như
xây dựng, nâng cấp hệ thống đê biển, đê
sông; phát triển rừng ngập mặn.
- Phát triển khoa học công nghệ phòng tránh,
khắc phục hậu quả thiên tai.
- Xây dựng các biện pháp kỹ thuật canh tác
phù hợp với biến đổi khí hậu.
- Tăng cường công tác tuyên truyền và đào
tạo nguồn nhân lực nhằm nâng cao nhận thức
của cán bộ và người dân về thích ứng với
BĐKH
4 trang |
Chia sẻ: hoant3298 | Lượt xem: 975 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của biến đổi khí hậu đến ngành nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Thị Nguyệt Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 51 - 54
51
TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Lê Thị Nguyệt*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu đang đặt ra những thách thức lớn đối với nhân loại bởi sự tác động không dừng
lại ở một quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng rất lớn đến thiên nhiên và sự phát triển
kinh tế xã hội của con người.Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng
của biến đổi khí hậu. Trong số các hoạt động kinh tế, lĩnh vực chịu tác động sớm nhất và mạnh mẽ
nhất của biến đổi khí hậu là sản xuất nông nghiệp. Bài viết này đưa ra một số tác động của biến đổi
khí hậu đến ngành nông nghiệp Việt Nam và một số vùng dễ bị tổn thương, đồng thời đưa ra một
số giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu bao gồm giải pháp giảm nhẹ biến đổi khí hậu (hạn chế
phát thải) và giải pháp thích nghi.
Từ khoá: biến đổi, khí hậu, ngành nông nghiệp Việt Nam, ứng phó, thích ứng
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã trở thành một
vấn đề thời sự mang tính toàn cầu đang ảnh
hưởng đến mọi mặt đời sống của con người
và thiên nhiên. Do sự tác động của BĐKH,
thiên tai trên phạm vi toàn cầu đã, đang và sẽ
xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn, cường độ
cũng mạnh hơn rất nhiều.
Theo sự đánh giá của các chuyên gia nghiên
cứu trên thế giới, với vị trí địa lí của mình,
Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh
hưởng nghiêm trọng của BĐKH. Do sự tác
động của BĐKH, thiên tai sẽ ngày càng gia
tăng phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
của người dân, các hoạt động sản xuất, cản
trở sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Chịu sự tác động sớm nhất và mạnh mẽ nhất
của BĐKH chính là ngành nông nghiệp, các
vùng đồng bằng ven biển do mực nước biển
dâng cao. Từ thực tế trên, đòi hỏi nước ta cần
phải khẩn trương đưa ra chương trình hành
động, giải pháp cụ thể nhằm ứng phó kịp thời
với những diễn biến bất thường của khí hậu.
TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm:
nông nghiệp, lâm nghiêp và ngư nghiệp. Đây
là ngành sản xuất chịu tác động sớm nhất và
mạnh mẽ nhất của BĐKH toàn cầu.
*
Tel: 097 880523; Email: minhnguyet2104@gmail.com
Nông nghiệp
Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB),
Việt Nam với đường bờ biển kéo dài 3260 km,
khi nước biển dâng cao 1 mét, khoảng 10 triệu
người ở các đồng bằng ven biển sẽ chịu tác
động, ảnh hưởng đến 10% tổng sản phẩm thu
nhập quốc nội GDP, 29% diện tích đất ngập
nước, 7% diện tích đất nông nghiệp . Ước tính
Việt Nam sẽ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng
lúa trong tổng số hơn 4 triệu ha trồng lúa hiện
nay, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương
thực quốc gia (bảng 1).
BĐKH đã khiến khí hậu, thời tiết ở nước ta
diễn biến phức tạp. Lượng mưa hàng năm
biến đổi thất thường, số cơn bão có cường độ
mạnh trong những năm gần đây tăng lên,
nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị
thường hơn. Sau bão thường là mưa lớn, gây
sạt lở đất, lũ ống, lũ quét. BĐKH cũng gây
nên tình trạng rét đậm, rét hại kéo dài.Tình
trạng khí hậu, thời tiết đó đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến điều kiện sống của cây
trồng và vật nuôi. Một số loài cây trồng, vật
nuôi bị giảm sức đề kháng do biên độ dao
động của nhiệt độ, độ ẩm. Sự thay đổi của các
yếu tố khí hậu, thời tiết còn làm nảy sinh
những dịch bệnh mới, thậm chí trở thành đại
dịch. Ở nước ta trong thời gian gần đây, dịch
rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá, sâu quấn lá
trong trồng trọt hay dịch H5N1, H1N1trong
chăn nuôi đã gây thiệt hại rất lớn đến năng suất
nông nghiệp, làm gia tăng chi phí sản xuất.
Lê Thị Nguyệt Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 51 - 54
52
Bảng 1. Dự báo tác động của việc dâng mực nước
biển 1 mét ở Việt Nam
Tổng số
Chịu tác động
(Giá trị
tuyệt đối)
Diện tích
(Km2) 328.535 16.977
Dân số
(Triệu người) 78.137 9.637
GDP
(Tỉ USD) 154.787 15.805
Diện tích nông
nghiệp(Km2) 192.816 13.773
Đất ngập nước
(Km2) 46.179 13.241
Nguồn: WB [5]
BĐKH làm suy thoái nghiêm trọng tài nguyên
đất - tư liệu sản xuất thiết yếu của ngành nông
nghiệp. Đất nông nghiệp của nước ta vốn đã
bị thoái hoá do sự lạm dụng phân hoá học và
mất lớp thực vật che phủ, cùng với sự tác
động của BĐKH khiến cho hiện tượng khô
hạn, rửa trôi do mưa tăng lên, dẫn đến tình
trạng thoái hoá đất ngày càng trầm trọng hơn.
Những nghiên cứu gần đây về chất lượng đất
ở đồng bằng sông Hồng cho thấy: hàm lượng
lân, hàm lượng mùn trong đất bị suy giảm, đất
nghèo dần K dễ tiêu, độ chua đất tăng lên.
Quá trình xói mòn rửa trôi đất ở vùng ven
biển Bắc Trung Bộ nhiều nơi lên tới hàng
trăm tấn/ha/năm; quá trình hình thành kết von
và đá ong hóa cũng diễn ra mạnh mẽ với diện
tích hàng chục ngàn ha và đặc biệt là quá
trình sa mạc hoá cục bộ đã diễn ra ở nhiều nơi
trong khu vực[1][4], Đồng bằng sông Cửu
Long - nơi phải gánh chịu những tác động
mạnh mẽ của BĐKH, tình trạng mặn hoá,
phèn hoá cũng ngày càng gia tăng mạnh mẽ,
ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng nông
nghiệp của cả nước. BĐKH còn làm mất đi
một diện tích lớn đất nông nghiệp do mực
nước biển dâng lên.
BBĐKH cũng tác động mạnh mẽ đến nguồn
nước phục vụ nông nghiệp. Thực tế ở nước ta
trong những năm qua, hạn hán đã xảy ra
nhiều hơn; nước lũ cao hơn tại các tỉnh An
Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang,
Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu GiangLưu
lượng nước sông Mê Công giảm từ 2 - 24%
trong mùa khô, tăng từ 7 - 15% trong mùa lũ
gây khó khăn trong sản xuất nông nghiệp [7].
Lâm nghiệp
Việt Nam là nước có mức độ đa dạng sinh học
khá cao, có sự phong phú, đa dạng về thành
phần loài và các hệ sinh thái. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có sự tác động của BĐKH, đa
dạng sinh học đang bị suy giảm nghiêm trọng,
đặc biệt là các hệ sinh thái rừng.
Qua nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn [2][6], nước biển dâng lên
làm giảm diện tích rừng ngập mặn ven biển
đã tác động xấu đến hệ sinh thái rừng tràm và
rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ở đồng
bằng sông Cửu Long.
Nhiệt độ và lượng bốc hơi tăng cùng với hạn
hán kéo dài sẽ làm thay đổi điều kiện sống và
sự phân bố của các loài sinh vật. Nhiều loài
cây nhiệt đới ưa sáng sẽ di cư lên vùng vĩ độ
cao hơn và các loài cây cận nhiệt đới sẽ mất
dần. Nhiệt độ và hạn hán tăng kéo dài sẽ làm
tăng nguy cơ cháy rừng, vừa gây thiệt hại tài
nguyên sinh vật, vừa tăng lượng phát thải khí
nhà kính, làm gia tăng BĐKH.
BĐKH làm thay đổi số lượng, chất lượng hệ
sinh thái rừng. Chức năng điều hoà sinh thái
của rừng như điều hòa khí hậu, điều tiết nguồn
nước, chống xói mòn đấtbị suy giảm.
Nước biển dâng và hạn hán làm giảm diện tích
và năng suất cây trồng, dẫn tới nhu cầu chuyển
đổi diện tích rừng sang diện tích sản xuất nông
nghiệp tăng, cũng như nhu cầu di cư lên vùng
cao, làm gia tăng nạn chặt phá rừng.
Ngư nghiệp
BĐKH khiến cho mực nước biển dâng cao đã
tác động mạnh mẽ đến ngành ngư nghiệp của
Việt Nam.
Nước biển dâng cao làm cho diện tích rừng
ngập mặn bị thu hẹp, ảnh hưởng đến nơi cư
trú của một số loài thuỷ sản. Đồng thời, do sự
xâm nhập của nước mặn dẫn đến mất nơi sinh
sống của thuỷ sản nước ngọt.
Nhiệt độ tăng làm cho nguồn thuỷ hải sản bị
phân tán. Các loài cá cận nhiệt đới có giá trị
kinh tế cao bị giảm và có nguy cơ mất hẳn.
Theo các nhà khoa học, cường độ và lượng
mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm đi trong
một thời gian dẫn đến sinh vật nhuyễn thể
như nghêu, ngao, sò, sẽ bị chết hàng loạt do
không chịu nổi với nồng độ muối thay đổi.
Lê Thị Nguyệt Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 51 - 54
53
MỘT SỐ VÙNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự
nhiên khoảng 4 triệu ha (2008), với đường bờ
biển dài 740 km kéo dài từ bờ biển phía đông
sang bờ biển phía tây vịnh Thái Lan. Đây là
vùng có tiềm năng kinh tế và có vai trò rất
quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia, nhưng hiện nay đang chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất của BĐKH [3]
Theo báo cáo của Viện Quy hoạch Thuỷ lợi
miền Nam, Trong 10 năm qua, đồng bằng
sông Cửu Long đã có:
- Liên tiếp các năm 2000, 2001, 2002 có lũ
lớn, trong đó năm 2002 là lũ lớn lịch sử. 4
năm liền đồng bằng sông Cửu Long gặp hạn,
đặc biệt hạn kết hợp dòng chảy kiệt trên sông
Mê Công vào năm 2004.
- 02 lần có bão lớn đổ bộ và ảnh hưởng đến
đồng bằng sông Cửu Long (bão Linda năm
1997 và bão Durian vào năm 2006)
- Tố lốc xuất hiện nhiều và gây hậu quả
nghiêm trọng.
- Cháy rừng xảy ra ở nhiều nơi, đặc biệt là đợt
cháy rừng ở U Minh Thượng vào năm 2002.
- Diện tích bị xâm nhập mặn hiện nay khoảng
1,3 triệu ha và sẽ tăng lên khoảng 1,64 triệu ha
với kịch bản mực nước biển dâng 1 mét. Quá
trình xâm nhập mặn sẽ diễn ra mạnh ở các tỉnh
Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến
Tre, Tiền Giang, Long An, Kiên Giang.
Đồng bằng sông Hồng
Đồng bằng sông Hồng có diện tích tự nhiên
khoảng 2 triệu ha (2008), trong đó diện tích
trong đê khoảng 1,15 triệu ha được bảo vệ bởi
hệ thống đê sông và đê biển. Đây là vựa lúa
lớn thứ hai của cả nước nhưng hiện nay cũng
đang đối mặt với sự tác động mạnh mẽ của
biến đổi khí hậu.
Ảnh hưởng của nước biển dâng cao kết hợp
với lượng mưa lớn, diện tích úng của đồng
bằng sông Hồng có thể đạt tới 650.000 ha nếu
mực nước biển dâng cao 1 mét. Mực nước
của các con sông sẽ tăng cao so với bình
thường khoảng từ 0,5 - 1,0 m. Tình trạng xâm
nhập mặn lấn sâu vào đất liền ở đồng bằng
sông Hồng cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất nông nghiệp của cả nước.
Đồng bằng duyên hải miền Trung
Vùng duyên hải miền Trung được cấu tạo bởi
một dải đất nằm giữa dãy Trường Sơn về phía
Bắc, vùng cao Nguyên Nam Trung Bộ về
phía Nam, và Biển Đông. Dải đất bị chia cắt
bởi nhiều nhánh núi Trường Sơn vươn ra đến
tận biển nên diện tích đồng bằng ở miền
Trung khá hạn hẹp. Bờ biển vùng duyên hải
miền Trung dài 1200 km, gồm các tỉnh từ
Thanh Hoá đến Bình Thuận. Đây cũng là
vùng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của BĐKH.
Trong những năm gần đây, do chịu ảnh
hưởng của BĐKH, những cơn bão và những
trận mưa xảy ra ở vùng duyên hải miền Trung
ngày càng mạnh và phức tạp, như các cơn bão
lớn vào năm 1999, 2006, 2007
Do các sông ở miền Trung hầu hết chưa có hệ
thống đê bao, nên khi nước biển dâng cao sẽ
kéo theo xâm nhập mặn lấn sâu vào nội địa.
Với kịch bản mực nước biển dâng 1 mét sẽ có
khoảng 400.000 ha diện tích bị ngập hoàn
toàn và bán ngập.[6]
CÁC GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ VỚI BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU
Các giải pháp ứng phó với BĐKH hiện nay
bao gồm hạn chế phát thải (mitigation) và
thích nghi (adaptation)
Hạn chế phát thải
Trong việc ứng phó với BĐKH nhằm hạn chế
sự tác động tiêu cực đến ngành nông nghiệp,
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là cần có giải
pháp giảm nhẹ BĐKH, cụ thể là giải pháp hạn
chế phát thải khí nhà kính. Để đạt được mục
tiêu này cần có sự đồng thuận và phối hợp
của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hiện nay,
Việt Nam là một trong những quốc gia tích
cực tham gia vào việc giảm nhẹ BĐKH như
đã tham gia ký Nghị định thư Kioto vào tháng
12/1998 cam kết cắt giảm lượng khí thải gây
hiệu ứng nhà kính; đưa ra Chương trình mục
tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH vào tháng
12/2008 Việt Nam có thể tham khảo một số
chính sách để tạo ra động lực hạn chế phát
thải khí nhà kính như:
- Lồng ghép các chính sách về khí hậu vào
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
- Đưa ra tiêu chuẩn phát thải cho các ngành
kinh tế.
- Đưa ra mức thuế phát thải
Lê Thị Nguyệt Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 51 - 54
54
- Hỗ trợ tài chính (trợ cấp hoặc giảm thuế)
- Các thỏa ước tự nguyện giữa Chính phủ và
doanh nghiệp.
- Phát triển công cụ thông tin
- Chính sách về áp dụng công nghệ, sử dụng
năng lượng hiệu quả, tiết kiệm.
- Hợp tác quốc tế
- Tăng cường nghiên cứu khoa học.
Thích nghi
Xuất phát từ thực tế, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực
cần có giải pháp phù hợp nhằm thích ứng với
BĐKH. Đối với ngành nông nghiệp, để thích
ứng với BĐKH nước ta cần có những giải
pháp như:
- Xây dựng cơ cấu cây trồng phù hợp với
BĐKH, phát triển các giống cây có khả
năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh
khắc nghiệt như tìm ra các giống lúa thích
nghi với điều kiện úng ngập, chịu phèn,
chịu hạn, chịu mặn
- Tăng cường sử dụng có hiệu quả và quy
hoạch nguồn nước tưới như đẩy mạnh triển
khai xây dựng, nâng cấp hồ chứa, các công
trình tiêu úng.
- Các biện pháp chống xâm nhập mặn như
xây dựng, nâng cấp hệ thống đê biển, đê
sông; phát triển rừng ngập mặn.
- Phát triển khoa học công nghệ phòng tránh,
khắc phục hậu quả thiên tai.
- Xây dựng các biện pháp kỹ thuật canh tác
phù hợp với biến đổi khí hậu.
- Tăng cường công tác tuyên truyền và đào
tạo nguồn nhân lực nhằm nâng cao nhận thức
của cán bộ và người dân về thích ứng với
BĐKH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường
(2003), Báo cáo tổng hợp nghiên cứu xây dựng
quy hoạch môi trường đất vùng đồng bằng sông
Hồng giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội.
[2]. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
(2008), Khung chương trình hành động thích ứng
với biến đổi khí hậu.
[3]. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (2008), Chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với biến đổi khí hậu.
[4]. Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Đình Kỳ, Nguyễn
Lập Dân (1998), Quan điểm tổng hợp trong
nghiên cứu hoang mạc hoá và lũ lụt Nam Trung
Bộ, Báo cáo Hội nghị NCKH và MT vùng Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên.
[5]. Dasgupta, S.Laplante, B.Meisner, Wheeler,
D.Yan (2007), The impact of Sea Level Rise on
Developing Countries: a comparative analysis,
World Bank Policy Research Working.
[6]. Đào Xuân Học (2009), Kế hoạch thích ứng
với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Hội thảo Việt Nam thích ứng
với biến đổi khí hậu.
[7]. Nguyễn Ngọc Trân (2010), Đồng bằng sông
Cửu Long đối mặt với thách thức kép của biến đổi
khí hậu, Tài liệu nghiên cứu của Trung tâm nghiên
cứu phát triển đồng bằng sông Cửu Long.
[8]. Viện Quy hoạch thuỷ lợi (2008), Báo cáo về
ảnh hưởng của nước biển dâng đến ngập lụt và
xâm nhập mặn đối với đồng bằng sông Hồng, khu
vực ven biển miền Trung.
SUMMARY
THE IMPACT OF CLIMATE CHANGE TO
THE INDUSTRY VIETNAM'S AGRICULTURE
Le Thi Nguyet*
College of Education - TNU
Climate change poses great challenges for humanity by the impact does not stop at one nation but
on a global scale, it impacts significantly on the nature and the social and economic development
human. Vietnam is one of five countries seriously affected by climate change. Among the
economic activities, regions affected earliest and most powerful of climate change is agriculture.
This article gives some effects of climate change to agriculture of Vietnam and a number of
vulnerable regions, and offers some solutions to cope with climate change, including mitigation
measures climate change (emissions limits) and adapted solutions.
Keywords: Change, Climate, Vietnam's agricultural industry, to cope with, adaptation
*
Tel: 0973 880 523; Email: minhnguyet2104@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33213_37039_308201215510tap80so04_nam2011_split_10_246_2052414.pdf