The use of proverbs helps Nguyen Khac Truong revitalize Vietnam's rural images. Ancient expressions are given in the modern life in a new form through characters’ sayings in the novels.
Nguyen Khac Truong uses proverbs by absorbing folk philosophy, way of feeling, thinking and expressing. In
general, modern Vietnamese literature has inherited folk art creation in a subtle virtuosity. Conversely, folklore proverbs in particular have been cleverly presented in modern life today. The use of a genre of folklore traditions in modern literature has increased the image of literature to enrich the prose style of the writer. Vitality of traditional proverbs have been kept and populated in a rich form. Besides independently handed over the chain of words, handed down in the press, the proverbs are lively present at the literature.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 577 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sức sống của tục ngữ trong tác phẩm ”Mảnh đất lắm người nhiều ma” của nhà văn Nguyễn Khắc Trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Thị Thanh Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
SỨC SỐNG CỦA TỤC NGỮ TRONG TÁC PHẨM ”MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI
NHIỀU MA” CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG
Ngô Thị Thanh Quý*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Việc sử dụng những câu tục ngữ đã giúp nhà văn Nguyễn Khắc Trường làm sống dậy hình ảnh
thôn quê Việt nam. Cách nói của dân gian giờ lại trở về cuộc sống hiện đại trong một hình thức
mới mẻ hơn - đó là lời của nhân vật trong tiểu thuyết.
Nguyễn Khắc Trường sử dụng tục ngữ là tiếp thu luôn cả triết lý dân gian, lối cảm, lối nghĩ, cách
nói phương pháp tư duy của dân gian. Nói chung văn xuôi Việt Nam hiện đại đã kế thừa nghệ
thuật sáng tác dân gian một cách tinh tế, điêu luyện. Nói một cách ngược lại, văn học dân gian mà
cụ thể là tục ngữ đã hiện diện trong cuộc sống hiện đại hôm nay một cách nhuần nhị. Việc sử dụng
một thể loại văn học dân gian truyền thống trong tác phẩm văn học hiện đại đã làm tăng tính hình
tượng của văn học làm nổi bật phong cách văn xuôi của các nhà văn. Sức sống của tục ngữ truyền
thống đã có một hình thức lưu truyền phong phú. Bên cạnh việc lưu truyền độc lập qua chuỗi lời
nói, lưu truyền trên báo chí thì tục ngữ còn hiện diện sinh động trên những trang văn.
Từ khóa: tục ngữ, tiểu thuyết "Mảnh đất lắm người nhiều ma”, tính hình tượng, Nguyễn Khắc
Trường
Tục ngữ biểu hiện trí tuệ của nhân dân ta trong
việc nhận thức về thế giới. Đồng thời tục ngữ
cũng phản ánh thái độ ứng xử và tình cảm của
nhân dân lao động đối với mọi vấn đề trong
cuộc sống. Mỗi câu tục ngữ đều dùng hình
ảnh sự vật, sự việc, hiện tượng cụ thể để nói
lên ý niệm trừu tượng, dùng hiện tượng cá
biệt để nói lên cái phổ biến. Vì vậy, tục ngữ
thường có hai nghĩa: nghĩa đen (nghĩa hẹp) và
nghĩa bóng (nghĩa rộng). Cái cụ thể, cá biệt sẽ
tạo nên nghĩa đen, nghĩa ban đầu vốn có, cái
trừu tượng, phổ biến tạo nên nghĩa bóng. Và
chỉ có thể hiểu rõ hơn về nghĩa bóng của câu
tục ngữ khi đặt nó trong một văn cảnh cụ thể.
Quá trình phát triển lịch sử của nhân loại đã
cho chúng ta thấy rằng: Tri thức được sinh ra
và chứng minh từ lao động thực tiễn. Tục ngữ
là một trong những kho tàng tri thức ấy. Nó là
kho kinh nghiệm của nhân dân lao động được
đúc kết từ thực tiễn sản xuất và quá trình chắt
lọc của thời gian. Nguồn gốc xuất phát của
tục ngữ là từ lao động sản xuất nông nghiệp
gắn chặt với sự phát triển của nền văn minh
Tel: 0989 793169
lúa nước. Quê hương Việt Nam với những
người dân quê lam lũ, nhưng chính họ lại là
người nuôi dưỡng và phát triển những câu tục
ngữ. Với cái hữu hình "trăm năm bia đá thì
mòn" và cái vô hình "ngàn năm bia miệng
vẫn còn trơ trơ", tục ngữ được truyền từ đời
này qua đời khác trong môi trường giao tiếp
mộc mạc và giản dị của làng quê Việt Nam. Ở
đấy ta luôn tìm thấy lối ví von, vận dụng tục
ngữ để "đốp, chát" để "đối đáp". Những câu
tục ngữ ấy được sử dụng một cách linh hoạt,
khéo léo tài tình. Có thể xem đây là một bản
chất đặc trưng cơ bản của con người Việt
Nam thích nói tục ngữ trong giao tiếp.
Nếu như việc tìm hiểu ảnh hưởng của tục ngữ
truyền thống trong thơ ca trung đại, hiện đại
đã từng thu hút nhiều nhà nghiên cứu, thì
trong lĩnh vực văn xuôi lại chưa có nhiều
công trình. Chúng ta có một nền văn xuôi
hiện đại với nhiều tác phẩm có giá trị nhưng
công việc tìm tòi, nghiên cứu về vai trò của
sáng tác dân gian trong các tác phẩm đó chưa
có mấy thành tựu. Đây là một hướng mới gợi
mở cho chúng tôi rất nhiều suy nghĩ khi tìm
hiểu ảnh hưởng của tục ngữ trong xã hội hiện
đại thông qua các tác phẩm văn chương.
Ngô Thị Thanh Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Trong văn xuôi hiện đại Việt Nam có một bộ
phận lớn các tác phẩm viết về đề tài nông
thôn. Tục ngữ là lời ăn tiếng nói của người
dân lao động, nó gắn với tầng lớp nông dân.
Ở đâu có nông dân ở đó có tri thức tục ngữ.
Tinh hoa tri thức trong những câu tục ngữ
càng trở nên rõ nét hơn khi được các nhà văn
hiện đại đưa vào trong tác phẩm, chính từ đó
mà tác phẩm đã có được những dấu ấn riêng.
Trong số các nhà văn hiện đại viết về nông
thôn Việt Nam thì Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Nam Cao, Đào Vũ, Lê Lựu, là
những nhà văn tiêu biểu. Trong bài viết này
chúng tôi đề cập đến cách sử dụng tục ngữ
trong tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma
của nhà văn Nguyễn Khắc Trường.
Tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma
được nhà văn Nguyễn Khắc Trường sáng tác
năm 1990, đây là tác phẩm xuất sắc viết về đề
tài nông thôn thời kỳ đổi mới. Sau này, nhà
văn Khuất Quang Thụy đã dàn dựng thành
kịch bản phim Đất và Người. Không gian của
truyện là địa bàn nông thôn ven sông Công
Thái Nguyên, thời điểm năm 1988 xã hội Việt
Nam đang bắt đầu bước vào một thời kỳ mới.
Nội dung chính của truyện là sự đấu đá cá
nhân giữa hai dòng họ, họ Vũ và họ Trịnh ở
làng Giếng Chùa, mà đại diện là Vũ Đình
Phúc (trưởng họ Vũ) và anh em Trịnh Bá
Hàm (trưởng họ Trịnh), Trịnh Bá Thủ (em
của Hàm, bí thư Đảng ủy của xã). Câu chuyện
xoay quanh giữa ân oán của hai họ, và những
tranh cạnh nơi làng quê bị nâng lên thành
quan điểm. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là việc
ông Hàm âm mưu đào mộ bố Phúc (mới mất)
để yểm bùa nhằm ám hại dòng họ Phúc
nhưng bị phát hiện, sau đó bị bắt giam. Thủ
dùng chị dâu mình là bà Son lừa cho ông
Phúc rơi vào bẫy, vu oan cho hai người có
tình ý, viết biên bản và bắt ép Phúc phải hòa
giải để cứu ông Hàm. Sau đó lại dùng biên
bản này để ép bà Son phải giả mạo đơn tố cáo
Phúc có ý định cưỡng hiếp mình. Mâu thuẫn
càng gay gắt khi bà Son bị cưỡng bức cao độ,
xấu hổ và không còn lối thoát đã nhảy xuống
sông tự vẫn và Phúc là người đầu tiên vớt xác
bà. Tiểu thuyết đã mô tả những chuyện rắc rối
"quanh lũy tre làng", những thuận lý và
nghịch lý, giằng xé đan chéo phức tạp của
định kiến làng xã. Lấy đề tài là con người
cuộc sống trên mảnh đất nông nghiệp nông
thôn, nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã làm
hồi sinh những câu tục ngữ truyền thống và
ngược lại những câu tục ngữ mà nhà văn đặt
trong lời nói của các nhân vật cũng khiến cho
nhân vật "Sống" hơn bao giờ hết. Tác giả đã
đặt vào lời nhân vật rất nhiều câu tục ngữ trọn
vẹn về nghĩa như: Theo voi ăn bã mía; Thả
con săn sắt, bắt con cá rô; Trâu tơ ngứa sừng;
Tháng năm chưa nằm đã sáng; Chim nhớ tổ,
cá nhớ đàn; Trăm dâu đổ đầu tằm; Đánh nhau
như trâu đực nhốt chuồng; Ôm rơm rặm
bụng... Điều đó càng khẳng định tục ngữ vẫn
tiếp tục tồn tại sống động trong đời sống
đương đại.
Nguyễn Khắc Trường đã tinh tế trong sử dụng
ngôn từ với phương châm "Quý hồ tinh bất
quý hồ đa” chỉ với một câu tục ngữ ông có thể
miêu tả được tính cách nhân vật. Trong câu
văn "Thằng Tùng con bà Sang được chúng nó
thí cho chân xã đội, thế là nhảy cỡn lên theo
voi ăn bã mía. Tác giả mượn câu tục ngữ để
cho nhân vật chửi thằng cháu khờ dại của
mình "chúng nó lừa mà cứ ngỡ mình là đức
cao vọng trọng lắm kia”. Sự khôn ngoan của
nhân vật được lộ rõ khi, nhà văn Nguyễn
Khắc Trường dùng câu tục ngữ Thả con săn
sắt, bắt con cá rô để miêu tả việc làm của ông
Hàm đối với tay Thủ khi cho hắn ít thóc, cái
lợi thu về là dùng vào việc làm nhục dòng họ
Vũ sau này: "Về mặt tính toán sít sao ở nhà
này thì bà phải chịu ông. Nên cái việc cho
Thủ vay nồi thóc không lấy lãi, bà biết
chắc là ông không hớ. Thả con săn sắt, bắt
con cá rô, ông không được lãi thóc thì phải
lãi cái khác...”.
Trong quá trình miêu tả bữa cỗ cưới của bà
Son và ông Hàm ngày trước, nhà văn đã
viết:"... Ngày cưới, cỗ bàn ràn rạt từ trong nhà
ra tít ngoài sân. Người ăn hết lớp này đến lớp
Ngô Thị Thanh Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
khác rào rào từ sáng đến chiều tà như tằm ăn
rỗi...”. Khi thì trực tiếp nhà văn dùng tục ngữ,
cũng có khi ông đặt vào lời của nhân vật: "Bà
Son đưa cái nhìn nhoè ướt sang ông Lang,
người hiền lành chân chính hơn cả trong số
anh chị em ở nhà chồng. Bà kể lể: - Đấy chú
xem, cái thân tôi trăm dâu đổ đầu tằm. Từ cha
sinh mẹ đẻ đến giờ chưa dám hại ai, chưa ăn
bớt của ai một xu một xèng, thế mà giờ ra
đường bị người ta chửi là điêu toa, về nhà thì
hết chồng đến anh em giày vò xui khiến...”.
Rõ ràng câu tục ngữ trên đây là lời than thân,
trách phận của người phụ nữ đáng thương.
Đặc trưng của ngôn ngữ luôn mang hai nghĩa:
Một nghĩa khởi đầu cụ thể "mắt thấy, tai
nghe”, nhưng nghĩa thứ hai khi nhà văn sử
dụng trong văn cảnh thực tế của các sáng tác
thì lại mang một ý nghĩa hoàn toàn theo chủ ý
và ý đồ của nhà văn, nghĩa là mượn câu tục
ngữ để nói lên những ý niệm trừu tượng, câu
tục ngữ ấy luôn gắn chặt với nhân vật, tình
tiết và cốt truyện của tác phẩm. Trong Mảnh
đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc
Trường đã lựa chọn một văn cảnh cụ thể để
đưa ra những câu tục ngữ như thế:
"... Bà có nghe người ta bảo giữa hai cậu cháu
– ông Phúc và thằng Tùng nhà bà có chuyện
mâu thuẫn mâu thọt gì đấy. Một lần bà vừa
hỏi thì Tùng gạt đi, U hỏi làm gì những
chuyện ấy mặc con!”. Thôi thì đành con dại
cái mang. Một bên em ruột, cùng một gốc,
một cành, một bên con đẻ, hạt máu của mình,
bà còn biết trọng ai, khinh ai!”.Đọc câu tục
ngữ đó lên, ta thấy được tâm hồn và tấm lòng
người mẹ luôn yêu chiều con hết mực. Thánh
thiện và nhân từ biết bao khi nghe vang lên
câu con dại cái mang từ trong tâm khảm của bà
Sang mẹ Tùng. Bà chẳng dám trách ai kể cả
con mình, chỉ biết lấy tấm thân tàn tạ vì tuổi
tác mà che đỡ cho lỗi lầm, sai trái của người
con. Nhận toàn bộ trách nhiệm về mình... Có lẽ
đọc Mảnh đất lắm người nhiều ma người ta sẽ
ấn tượng bà Sang từ cách nói ấy.
Tất cả những câu tục ngữ khi được đặt vào tác
phẩm thì mỗi câu đều mang hàm ẩn và ý
nghĩa khác nhau, nhưng cùng làm cho chi tiết,
các nhân vật trong tác phẩm gắn bó với nhau
hơn. Đồng thời qua những câu tục ngữ được
sử dụng, tác giả đã nói lên tính cách đặc trưng
của nhân vật trong tác phẩm và mỗi câu tục
ngữ giống như một điểm nhấn cho hình tượng
nhân vật làm cho nhân vật dần hiện lên rõ hơn
qua từng trang sách. Mỗi câu tục ngữ được
dùng ở khía cạnh này, hay khía cạnh khác đều
mang một nghĩa nhất định. Có thể đó là sự
miêu tả mang tính hình tượng, hay cũng có
thể để cụ thể hoá diễn đạt cho được ý tưởng
của tác giả. Với những câu tục ngữ, độc giả
như hiểu rõ hơn bức tranh làng quê Việt Nam,
con người Việt với những phong tục tập quán
qua lời ăn tiếng nói của chính họ. Đó là
những phong tục có từ xa xưa được truyền
đời qua nhiều thế hệ: “Tất cả đều phải sinh có
nhà, tử có mồ”, không thể bất di, bất dịch
được, và cũng không bao giờ được khác.
Tác giả Nguyễn Khắc Trường với việc sử
dụng tục ngữ như đã chứng minh cho một
chân lý: Con người Việt Nam sống tình nghĩa
yêu thương, lúc khó khăn thiếu thốn họ đều
giúp nhau và ngay cả khi họ vĩnh viễn rời xa
cuộc sống, nằm xuống buông xuôi mọi lo
toan bề bộn hằng ngày họ cũng nhận được ở
nhau những tình cảm chân thành: "Ông thợ
đấu cao tuổi nói lầm bầm như khấn: - Tạ vong
linh bác Quềnh, sinh có nhà, tử có mồ. Hôm
nay chúng tôi sửa sang lại chỗ ở cho bác đây.
Bác sống hiền thác lành, phù hộ độ trì cho
anh em liền khúc ruột, cho hàng xóm láng
giềng chúng tôi...”. Nhân nghĩa biết bao, cao
cả biết bao, những người nông dân ấy vẫn đối
xử với nhau thật đáng trân trọng. Tuy nhiên ở
mỗi nơi, mỗi khác bởi đất có thổ công, sông
có hà bá mỗi chỗ sẽ có những luật lệ, phép tắc
riêng mà đến cả phép vua cũng phải thua.”...
Chỉ bên ngoài dân chúng mới có lời bắn tin:
Đất có thổ công, sông có hà bá, thành hoàng
vùng này chưa đến nỗi mạt vận phải chuyển
bài vị sang dân ngụ cư xóm trại!...”. Những
phép tắc ấy, luật lệ ấy gắn liền với lòng tự hào
và đức tin của người nông dân bao đời sống
Ngô Thị Thanh Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
chết theo nó. Họ như những con chiên ngoan
đạo luôn tin và đấu tranh cho sự bền vững của
phong tục, tập quán ấy. Trong văn cảnh, tác
phẩm đã nói lên niềm tự hào, sự bất tử của
phong tục tập quán nông thôn, chẳng bao giờ
người dân ngụ cư có được thứ truyền thống
sâu đậm như thế. Đồng thời cũng là lời cảnh
báo rằng: Mỗi nơi, mỗi không gian sống đều
có những người chủ, những người thi hành
công lý chung cho cộng đồng của mình, đừng
bao giờ được phép xâm phạm vào. Hãy tự
mình suy nghĩ và hành động sao cho phù hợp,
bởi đất lề, quê thói, người nông dân Việt Nam
coi đó là di sản, là truyền thống mà lớp người
sau phải kế thừa và gìn giữ nó như một cam
kết bất thành văn.
Nhờ những câu tục ngữ mà nhà văn đã khắc
họa thật rõ nét các chân dung nhân vật. Nếu
như câu tục ngữ nước lã mà vã lên hồ thường
được dùng để nói đến những người chăm chỉ,
chí thú làm ăn, khôn khéo, tài ba đi lên từ hai
bàn tay trắng thì Nguyễn Khắc Trường đã đưa
câu tục ngữ đó vào tác phẩm của mình như
một sự chứng minh cho chân lý ấy: "... Ông
Quản Ngư, người vẫn được cả làng khen là
chí lớn gan to, nước lã mà vã nên hồ. Bởi
trong lúc khối anh có của nhưng chỉ ru rú bám
váy vợ ở xó nhà, thì ông Quản Ngư với hai
bàn tay trắng đã từng chu du đến nửa vòng
trái đất... Khi về ông đã diện oách một bộ đồ
dạ màu đất sét từ chân tới đầu... Rồi lại thêm
bộ răng vàng đến sáng choé cả mồm". Nhưng
tất cả mọi thứ đâu phải tự nhiên mà có được,
tất cả không phải là cổ tích, ước gì được nấy
mà phải do con người, do chính bàn tay con
người "muốn có" làm nên. ”Muốn ăn phải lăn
vào bếp, thể hiện một triết lý không bao giờ
thay đổi được "tay làm hàm nhai"... "Hễ bên
ấy động đũa động bát là biết ngay. Muốn ăn
thì lăn vào bếp. Mà có lăn vào thì cũng là ăn
của dân của xã chứ chẳng phải của mấy
ông...". Đó là hoàn cảnh của Quềnh trong
xóm Giếng Chùa, thiếu thốn, khó khăn của
cuộc sống khiến hắn đã trở thành con người
trọng miếng ăn hơn tình nghĩa. Ý thức về sự
sống trong hắn mạnh mẽ biết bao. Và cùng
một tầng lớp, một hoàn cảnh như Quềnh, Thó
cũng vậy... bất chấp tất cả mọi giá trị đạo đức,
hắn đã cố gắng để đuổi đi cái đói khỏi đeo
bám mình. Qua câu tục ngữ, người đọc có thể
cảm thông cho hai con người ấy. Họ cũng có
bản chất tốt đẹp nhưng do dòng đời xô đẩy,
con tạo xoay vần đã đẩy họ đến bước đường
cùng và thế là "túng cũng phải tính" như ý
nghĩ của họ.
Hoàn cảnh của nhân vật được hé mở nhờ
những câu tục ngữ : "Chị Bé người nông dân
khốn khổ cũng lâm vào hoàn cảnh như bao
người nông dân khác. Chị đã phải đi lang
thang, để lẩn tránh, chạy trốn khỏi cái đói
"tháng ba, ngày tám"; "... Ai gồng gánh gì thế
này? - Thủ lùi lại hỏi như gắt, thì một giọng
phụ nữ lại rất xởi lởi:
- Ối giời chú Thủ đấy à? Con mẹ Đủ đây! Cha
mẹ đặt tên thế, nhưng quanh năm vắt mũi đút
miệng. Vay nồi thóc cứu đói của bà Son tháng
trước, giờ phải giả ngay đây...".
Nhà văn vận dụng tục ngữ để nói về những
vấn đề nhân sinh, nói về mối quan hệ giữa
người và người trong một gia đình, trong một
cộng đồng làng xã một cách sâu sắc và mang
ý nghĩa nhân văn cao cả. Những câu tục ngữ
được sử dụng trong tác phẩm rất khéo léo,
phù hợp với những tính cách đại diện cho
từng nhân vật cụ thể, tiêu biểu cho một lớp
người trong xã hội. Nhờ tục ngữ, nhà văn đã
nêu lên quan điểm nhân vật. Theo truyền
thống Việt Nam mối quan hệ huyết thống là
một trong những giá trị nhân văn tiêu biểu
nhất. Những giá trị ấy luôn làm giàu có thêm
những truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân
dân. Ở nơi đó, con cái luôn vị nể cha mẹ, tôn
trọng bậc tiền bối, không bao giờ có những
hành vi vô đạo đức đối với cha mẹ. Với cha
mẹ có những đứa con như thế là một niềm
hạnh phúc lớn lao đáng tự hào: "... Phía sau
ông bố nén cười, đã bảo mà! Cứ tưởng cậu cả
khù khờ, thế mà khá! "Con hơn cha là nhà có
phúc...". Nguyễn Khắc Trường đã dùng
nguyên nghĩa của câu tục ngữ mà miêu tả
Ngô Thị Thanh Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
niềm hạnh phúc, lòng tự hào của bố Quềnh.
Không tự hào làm sao cho được khi con mình
dám làm những cái mà ông bố không thể làm.
Đấy là một sự bù đắp, cũng là một hệ quả bởi
giỏ nhà ai quai nhà nấy. Đó là một lẽ hiển
nhiên bởi con nào chẳng mang ít nhiều dáng
dấp và phong cách sống của cha mẹ. Cũng vì
thế mà trong quan hệ xã hội người Việt Nam
bao giờ cũng đặt vấn đề máu mủ, ruột thịt lên
hàng đầu. Việc nào tốt, miếng nào ngon bao
giờ cũng giành cho "người gia đình" trước
hết, sau đó mới hậu xét đến người ngoài, dẫu
sao cũng một giọt máu đào, hơn ao nước lã:
"... Tùng lại được vào Đảng uỷ. Dù hai cậu
cháu còn trục trặc, nhưng chẳng bao giờ anh
em họ lại bỏ nhau. Một giọt máu đào hơn ao
nước lã. Bên Trịnh Bá định lấy âm trị dương
cho êm ả sạch sẽ, nhưng không ngờ gậy ông
lại đập lưng ông rồi...". Bằng một hình ảnh so
sánh độc đáo - "một giọt máu đào" (số ít)
nhưng vẫn hơn cả "ao nước lã" (số nhiều).
Coi gia đình là tất cả, đồng thời đòi hỏi mỗi
cá nhân trong đại gia đình ấy phải làm hết sức
mình cống hiến cho hạnh phúc chung. Trong
gia đình, người phụ nữ cũng là người đầu tiên
được nói tới. Và hình ảnh người phụ nữ tần tảo,
long đong vất vả vì gia đình, vì con đã được tục
ngữ cụ thể hoá bằng hình tượng cá chuối đắm
đuối vì con ; "... Ông Phúc hỏi rụt rè:
- Bà còn định nói với tôi chuyện gì nữa?
Bà Son như sực tỉnh. Bà ngồi thẳng lên, lấy
ống tay che mặt, nói rì rầm:
- Thôi thì dù sao tôi cũng chẳng phải lo cái
phận tôi, lo cho mấy đứa con tôi. Cá chuối
đắm đuối vì con. Tôi cắn rơm, cắn cỏ xin ông
một lần này cũng là vì mấy đứa con tôi!
Chúng nó chẳng làm gì nên tội. Ông hãy bỏ
qua cái vụ này. Ông rút đơn kiện về! Rồi tôi
sẽ nói để anh em họ Trịnh có lời xin ông. Thế
là ông được ra ơn cho cả một chi họ, còn mẹ
con tôi cũng được ông làm phúc...". Người
phụ nữ ấy là bà Son - người phụ nữ mà tại số
kiếp hay tại nhà văn cố tình chứng minh cho
chân lý xưa nay hồng nhan – đa truân. Người
đàn bà ấy tài sắc, đảm đang mà chẳng được
hưởng lấy một giây phút thanh thản trong khi
những người phụ nữ khác họ luôn được coi
trọng , vị nể : nhất vợ nhì giời và ngay cả sau
này khi về già họ vẫn có vai trò riêng biệt độc
lập mà không thể phủ nhận con nuôi cha
không bằng bà nuôi ông, còn bà Son thì
không: chẳng danh, chẳng phận.
Với việc sử dụng tục ngữ trong lời nói của
các nhân vật, nhà văn Nguyễn Khắc Trường
đã làm tăng lên những hiệu quả của việc miêu
tả tích cách, chân dung nhân vật, khiến cho
nhân vật sinh động, thật hơn bao giờ hết.
Đồng thời tác giả cũng đã thể hiện được chủ
nghĩa nhân văn sâu sắc và cách ứng xử xã hội
của nhân dân lao động quanh những câu tục
ngữ. Sử dụng tục ngữ trong lời nói của nhân
vật, nhà văn đã nâng ý nghĩa của những vấn
đề được đề cập mang một tầm khái quát cao
hơn. Trong "Khối tự sự lớn”, tác giả đã sử
dụng những câu tục ngữ để hướng đến một
giá trị văn hóa, ở đó con người ứng xử với
nhau theo cách của những nông dân, làng xã,
vừa có cái cao cả, vừa có cái thấp hèn rất cần
phải thay đổi. Với một khuôn khổ rộng, một
dung lượng ngôn ngữ lớn, chi tiết và nhân vật
đa dạng tính cách, cùng sự bao la vô tận của
không gian và thời gian, Nguyễn Khắc Trường
đã khai thác được bản chất nhân vật một cách
tỉ mỉ và sâu sắc thông qua ngôn ngữ nhân vật
trong những xung đột mang tính xã hội.
Có thể nói nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã
làm sống dậy hình ảnh thôn quê Việt nam qua
những câu tục ngữ. Những phát ngôn của
người bình dân, giờ lại trở về vẹn nguyên với
những người sinh ra nó, nhưng trong một
hình thức mới mẻ hơn - Đó là lời của nhân vật
trong tiểu thuyết. Điều đó cũng đủ để thấy tục
ngữ truyền thống đã được lưu truyền trong xã
hội hiện đại một cách khá phổ biến và bằng
một hình thức độc đáo thông qua ngôn ngữ
nhân vật trong tiểu thuyết.
Sử dụng tục ngữ trong tác phẩm văn học vốn
đã có truyền thống trong văn học Trung đại từ
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...
Văn xuôi hiện đại vẫn tiếp tục truyền thống
Ngô Thị Thanh Quý Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 3 - 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
tốt đẹp đó. Có thể nói đây là thế mạnh của các
nhà văn trong việc tiếp thu và sử dụng sáng tác
dân gian. Bởi tục ngữ là "những phán đoán,
những kết luận của nhân dân rút từ nhân tình thế
thái có tính triết lý và giáo huấn. Nó khái quát
cuộc sống dưới dạng ngắn gọn và sinh động. Đó
là kiểu tư duy phổ biến và truyền thống, giàu
tính văn nghệ tự nhiên của nhân dân. Vì vậy nó
hay được lồng vào truyện kể như là một lối bình
luận, đánh giá giải thích các sự kiện, các tính
cách. Có khi nó trở thành ngôn ngữ đối thoại rất
là tự nhiên của nhân vật” (2)
Khảo sát lời văn trong tác phẩm của tác giả
Nguyễn Khắc Trường, chúng ta thấy được phần
nào mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa văn học
- văn học dân gian, trong đó có tục ngữ - một thể
loại văn học dân gian truyền thống đã trở thành
ngọn nguồn làm phong phú thêm nội dung và
hình thức ngôn ngữ của tác phẩm văn học.
Nguyễn Khắc Trường sử dụng tục ngữ dân gian
là tiếp thu luôn cả triết lý dân gian, lối cảm, lối
nghĩ, cách nói phương pháp tư duy của dân gian.
Nói chung văn xuôi Việt nam hiện đại đã tiếp
thu nghệ thuật sáng tác dân gian một cách tinh
tế, điêu luyện. Nói một cách ngược lại, văn học
dân gian mà cụ thể là tục ngữ đã hiện diện trong
cuộc sống hiện đại hôm nay một cách nhuần nhị,
với những cải biến phong phú da dạng. Việc sử
dụng một thể loại văn học dân gian truyền thống
trong tác phẩm văn học hiện đại đã làm tăng tính
hình tượng của văn học làm nổi bật phong cách
văn xuôi của các nhà văn. Những câu tục ngữ
ngắn gọn và hàm súc nằm đan xen vào mạch văn
chi phối cách viết của tác giả làm cho toàn bộ
tác phẩm thành một bản hoà âm sinh động mang
đậm sắc màu truyền thống, gần gũi với cội
nguồn, người đọc dễ dàng tiếp nhận. Sức sống
của tục ngữ truyền thống xuất phát từ chỗ
truyền miệng đã có một đời sống mới sinh
động trên những trang văn. "Tục ngữ là lời nói
có cánh, tách ra khỏi lời nói thông thường, bay
lên và bay đi thành lời nói nghệ thuật, thành
tác phẩm văn chương, lưu hành và lưu truyền
một cách tương đối độc lập trong cuộc đời,
trong xã hội " (3).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Khắc Trường (1999), Mảnh đất lắm
người nhiều ma, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh
[2]. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn
học dân gian Việt Nam, Hà Nội, Nxb KHXH, năm
1976 in lần thứ 2
[3]. Trần Thanh Đạm (1989), "Tục ngữ dân gian và
vấn đề nguồn gốc văn chương", Tạp chí Văn hóa
Dân gian Hà Nội, Tr.3-10.
SUMMARY
VITALITY OF PROVERBS IN "MANH DAT LAM NGUOI NHIEU MA"
BY NGUYEN KHAC TRUONG
Ngo Thi Thanh Quy
College of Education - TNU
The use of proverbs helps Nguyen Khac Truong revitalize Vietnam's rural images. Ancient expressions are given
in the modern life in a new form through characters’ sayings in the novels.
Nguyen Khac Truong uses proverbs by absorbing folk philosophy, way of feeling, thinking and expressing. In
general, modern Vietnamese literature has inherited folk art creation in a subtle virtuosity. Conversely, folklore
proverbs in particular have been cleverly presented in modern life today. The use of a genre of folklore traditions
in modern literature has increased the image of literature to enrich the prose style of the writer. Vitality of
traditional proverbs have been kept and populated in a rich form. Besides independently handed over the chain of
words, handed down in the press, the proverbs are lively present at the literature.
Key words: proverbs, novel “Manh dat lam nguoi nhieu ma”, iconology, Nguyen Khac Truong
Tel: 0989 793169
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32974_36804_2782012104917sucsongcuatucngu_3184_2052595.pdf