Sự cố gắng đáng kể nhất là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. Ngoài NAFTA, nhiều khối thýõng mại khác ðang diễn ra tại châu Mỹ ( theo Map.9.2), xuất hiện ðáng kể nhất là Adean group và MERCOSUR. Ngoài ra, nững cuộc ðàm phán ðang tiến hành ðể thành lập khu vực mậu dịch tự do châu Mỹ ( FTAA), mặc dù hiện tại chúng ðang bị trì hoãn.
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO BẮC MỸ
Chính phủ của Hoa Kỳ và Canada vào năm 1988 đã đồng ý 1 thỏa thuận thương mại tự do có hiệu lực từ tháng ngày 1 tháng 1, 1989. Mục tiêu của thỏa thuận này là loại bỏ tất cả thuế trên thýõng mại song phýõng giữa Mỹ và Canada vaò năm 1998. này đã được theo sau bởi các cuộc đàm phán giữa Mỹ, Canada và Mexico nhằm thành lập Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ giửa 3 nýớc này. Những cuộc ðàm phán kết thúc vào tháng 8 1992 với 1 thỏa thuận về nguyên tắc, và 1 nãm sau thỏa thuân này ðýợc phê duyệt bởi chính phủ của 3 nýớc. thỏa thuận này trở thành luật vào ngày 1 tháng 1 nãm 1994
Nội dung của NAFTA
bãi bỏ trong thời hạn 10 năm thuế của 99 phần trăm của hàng hóa được thương mại giữa mỹ ,Canada, mexico
dỡ bỏ hầu hết hàng rào đối với các ngành dịch vụ, các tổ chức tài chính dc phép, xuyên biên giới, ví dụ nhý sự thâm nhập o giới hạn vào thị trýờng mexico vào nãm 2000
bảo vệ quyền sỡ hữu trí tuệ
dỡ bỏ hầu hết mọi giới hạn đối với vốn đầu tư nc ngoài giữa 3 nc thanh viên, mặc dù sự can thiệp đặc biệt (bảo vệ) sẽ dc ban hành đối với ng năng lượng Mexico, cn đường sắc, máy bay Mỹ và những ng cn truyền thông sóng vô tuyến, văn hóa người Canada
áp dụng những tiêu chuẩn môi trýờng quốc gia, các tiêu chuẩn có một cõ sở khoa học. hạ thấp tiêu chuẩn ðể thu hút ðầu tý ðýợc mô tả nhý là không thích hợp
thành lập hai ủy ban với sức mạnh xử phạt và loại bỏ các đặc quyền thương mại khi các tiêu chuẩn môi trýờng hoặc pháp luật có liên quan ðến sức khỏe và an toàn, tiền lýõng tối thiểu, hoặc lao ðộng trẻ em bị bỏ qua
tranh cãi cho NAFTA
những ng đề xuất Nafta tranh cãi rằng khu vực tự do thýõng mại nên ðýợc xem là cõ hội ðể thiết lập 1 sự mở rộng và hiệu quả hõn của cõ sở sản xuất cho toàn khu vực. thừa nhận rằng một trong những ngýời ủng hộ hiệu quả của NAFTA sẽ là một số các công ty Mỹ và Canada sẽ di chuyển sản xuất ðến Mexico ðể tận dụng lợi thế chi phí lao ðộng thấp hõn ( vào nãm 2004 chi phí lao ðộng trung bình 1 giờ tại Mexico vẫn chỉ bằng 1/5 tại mỹ và Canada). Theo những ng ủng hộ, sự di chuyển việc sx sang Mexico là có thể xảy ra đối với những ngành cn sx cần nhìu lao động, có kỹ năng thấp, khi đó mexico có lợi thế cạnh tranh so sánh. Nhug n gung hộ Nafta cho rằng nhìu nc se hýởng lợi từ xu hýớng này. Mexico hýởng lợi từ nhìu sự đầu tư và thuê việc làm cần thiết vào trong quốc gia. Mỹ và Canada dc lợi vì sự tăng thu nhập của ng mexico co fep họ nhập khậu nhìu hõn hàng hóa của mỹ và Canada, bằng cách tãng nhu cầu và tạo ra sự mất việc làm tại những ng cn di chuyển việc sx sang mexico. Ng tiêu dùng mỹ và Canada hýởng lợi từ việc giá sp thấp do sx tại mexico. Hõn nữa,sự cạnh tranh quốc tế của các cty mỹ Canada mà dời việc sx sag mexico loi dụng chi phí nhân công thấp có thể tãng lên, tạo ðiều kiện cho họ cạnh tranh tốt hõn với các ðối thủ từ châu âu và á
tranh cãi chống lại NAFTA
những ng mà chống lại nafta nói rằng sự phê duyệt này sẽ kéo theo cuộc di cý việc làm từ mỹ, Canada sang mexico vì những ông chủ tìm kiếm lợi ích từ lýõng thấp, luật mt và lao dong ít chặt chẽ. Theo 1 ng kịch liệt phản ðối, Ross perot, gần 5,9 triệu việc làm có thể mất khi mexico gia nhap nafta cái mà ông mô tả “giant sucking sound”. Tuy nhiên những nhà kinh tế học ðã gạt bỏ những con số vô lý và gây hoang mang này. Họ chỉ ra rằng Mexico sẽ thực hiện một thặng dý thýõng mại song phýõng với Hoa Kỳ gần ðến 300 tỷ ðồng cho mất việc làm trên quy mô nhý vậy xảy ra - và 300 tỷ USD là kích thýớc của GDP hiện tại của Mexico. Nói cách khác, nhý 1 kịch bản là không có vẻ hợp lý
1 ýớc lýợng ðúng ðắn khác về tác ðộng của NAFTA nằm trong khoảng từ 170.000 việc làm dc tạo ra ở Hoa Kỳ (do nhu cầu của ng Mexico về hàng hoá và dịch vụ mỹ tãng) và tãng 15 tỉ ðô la mỗi nãm trong GDP chung của Mỹ và Mexico, với 490.000 việc làm thuần bị mất tại Mỹ. Ðể ðýa những con số này trong quan ðiểm, việc làm trong nền kinh tế Mỹ ðýợc dự ðoán sẽ tãng trýởng 18tr từ 1993-2003. nhý hầu hết các nhà kinh tế liên tục nhấn manh, NAFTA sẽ có tác ðộng nhỏ trên cả Canada và Hoa Kỳ. Nó khó có thể khác ðýợc , vì nền kinh tế Mexico là chỉ bằng 5 phần trăm kích thước của nền kinh tế Mỹ. tham gia NAFTA yêu cầu sự nhảy vọt lớn nhất của niềm tin kinh tế từ Mexico chứ không phải là Canada hay Hoa Kỳ. Giảm rào cản thýõng mại ðặt các công ty Mexico ðối mặt với hiệu quả cao ðối thủ cạnh tranh từ Mỹ và Canada có hiệu quả cao, khi mà so sánh với các công ty trung bình của Mexico , thì có nguồn vốn lớn hõn nhiều, tiếp cận với các lực lýợng làm việc có giáo dục cao và có kỹ nãng và công nghệ phức tạp hõn nhiều. kết quả ngắn hạn có thể là ðýợc ðau ðớn chuyển dịch cõ cấu kinh tế và thất nghiệp ở Mexico. Nhýng theo những ng ủng hộ NAFTA sẽ có những ðộng lực tãng lên trong dài hạn trong hiệu quả của các công ty Mexico khi họ ðiều chỉnh ðể thích nghi một thị trýờng cạnh tranh hõn. Trong phạm vi mà ðiều này xảy ra, tỷ lệ tãng trýởng kinh tế của Mexico sẽ tãng nhanh hõn, và Mexico có thể trở thành một thị trýờng lớn ðối với cty từ Canada và Mỹ .
Các nhà môi trýờng cũng ðã lên tiếng quan ngại về NAFTA. Họ chỉ ra bùn ở sông Rio Grande và khói trong không khí trong thành phố Mexico City và cảnh báo rằng Mexico có thể làm giảm không khí sạch và tiêu chuẩn chất thải độc hại trên khắp lục địa. Đã có, họ yêu cầu bồi thýờng, dýới Rio Grande là con sông ô nhiễm nhất ở Hoa Kỳ, ngày càng tãng trong chất thải hóa chất và nýớc thải cùng khóa học của mình từ El Paso, Texas, đến Vịnh Mexico.
Ngoài ra còn có sự phản đối tại Mexico đối với NAFTA từ những người lo sợ mất chủ quyền quốc gia. chỉ trích của Mexico cho rằng đất nước của họ sẽ bị thống trị bởi các công ty Mỹ sẽ không thực sự góp phần vào tăng trưởng kinh tế Mexico, nhưng thay vào đó sẽ sử dụng Mexico như là một bộ phận lắp ráp chi phí thấp, trong khi vẫn giữ lýõng cao, công việc có tay nghề cao phía bắc của biên giới .
NAFTA: thập kỉ đầu tiên
Những nghiên cứu mới về tác động của NAFTA cho rằng ít nhất cho đến nay, hiệu quả của nó là cách làm im lạng tốt nhất, cả bên ủng hộ và chống đối có thể đã nói quá. Nghiên cứu toàn diện nhất cho đến nay đã được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học California, Los Angeles, và được tài trợ bởi bộ phận khác nhau của chính phủ Mỹ. nghiên cứu này tập trung vào hiệu wa của nafta trong 3,5 năm đầu tiên. Các tác giả đã kết luận rằng sự tăng trưởng thương mại giữa mexico và mỹ bắt đầu thay đổi gần như một thập kỷ trước trước khi thực hiện NAFTA khi Mexico bắt đầu tự do hóa chế độ thương mại của chính mình để phù hợp với nhug tiêu chuẩn GATT. Thời kì khởi đầu kể từ khi NAFTA
7 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3156 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hội nhập kinh tế khu vực ở châu Mỹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự hội nhập kinh tế khu vực ở châu Mỹ
Sự cố gắng đáng kể nhất là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. Ngoài NAFTA, nhiều khối thương mại khác đang diễn ra tại châu Mỹ ( theo Map.9.2), xuất hiện đáng kể nhất là Adean group và MERCOSUR. Ngoài ra, nững cuộc đàm phán đang tiến hành để thành lập khu vực mậu dịch tự do châu Mỹ ( FTAA), mặc dù hiện tại chúng đang bị trì hoãn.
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO BẮC MỸ
Chính phủ của Hoa Kỳ và Canada vào năm 1988 đã đồng ý 1 thỏa thuận thương mại tự do có hiệu lực từ tháng ngày 1 tháng 1, 1989. Mục tiêu của thỏa thuận này là loại bỏ tất cả thuế trên thương mại song phương giữa Mỹ và Canada vaò năm 1998. này đã được theo sau bởi các cuộc đàm phán giữa Mỹ, Canada và Mexico nhằm thành lập Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ giửa 3 nước này. Những cuộc đàm phán kết thúc vào tháng 8 1992 với 1 thỏa thuận về nguyên tắc, và 1 năm sau thỏa thuân này được phê duyệt bởi chính phủ của 3 nước. thỏa thuận này trở thành luật vào ngày 1 tháng 1 năm 1994
Nội dung của NAFTA
bãi bỏ trong thời hạn 10 năm thuế của 99 phần trăm của hàng hóa được thương mại giữa mỹ ,Canada, mexico
dỡ bỏ hầu hết hàng rào đối với các ngành dịch vụ, các tổ chức tài chính dc phép, xuyên biên giới, ví dụ như sự thâm nhập o giới hạn vào thị trường mexico vào năm 2000
bảo vệ quyền sỡ hữu trí tuệ
dỡ bỏ hầu hết mọi giới hạn đối với vốn đầu tư nc ngoài giữa 3 nc thanh viên, mặc dù sự can thiệp đặc biệt (bảo vệ) sẽ dc ban hành đối với ng năng lượng Mexico, cn đường sắc, máy bay Mỹ và những ng cn truyền thông sóng vô tuyến, văn hóa người Canada
áp dụng những tiêu chuẩn môi trường quốc gia, các tiêu chuẩn có một cơ sở khoa học. hạ thấp tiêu chuẩn để thu hút đầu tư được mô tả như là không thích hợp
thành lập hai ủy ban với sức mạnh xử phạt và loại bỏ các đặc quyền thương mại khi các tiêu chuẩn môi trường hoặc pháp luật có liên quan đến sức khỏe và an toàn, tiền lương tối thiểu, hoặc lao động trẻ em bị bỏ qua
tranh cãi cho NAFTA
những ng đề xuất Nafta tranh cãi rằng khu vực tự do thương mại nên được xem là cơ hội để thiết lập 1 sự mở rộng và hiệu quả hơn của cơ sở sản xuất cho toàn khu vực. thừa nhận rằng một trong những người ủng hộ hiệu quả của NAFTA sẽ là một số các công ty Mỹ và Canada sẽ di chuyển sản xuất đến Mexico để tận dụng lợi thế chi phí lao động thấp hơn ( vào năm 2004 chi phí lao động trung bình 1 giờ tại Mexico vẫn chỉ bằng 1/5 tại mỹ và Canada). Theo những ng ủng hộ, sự di chuyển việc sx sang Mexico là có thể xảy ra đối với những ngành cn sx cần nhìu lao động, có kỹ năng thấp, khi đó mexico có lợi thế cạnh tranh so sánh. Nhug n gung hộ Nafta cho rằng nhìu nc se hưởng lợi từ xu hướng này. Mexico hưởng lợi từ nhìu sự đầu tư và thuê việc làm cần thiết vào trong quốc gia. Mỹ và Canada dc lợi vì sự tăng thu nhập của ng mexico co fep họ nhập khậu nhìu hơn hàng hóa của mỹ và Canada, bằng cách tăng nhu cầu và tạo ra sự mất việc làm tại những ng cn di chuyển việc sx sang mexico. Ng tiêu dùng mỹ và Canada hưởng lợi từ việc giá sp thấp do sx tại mexico. Hơn nữa,sự cạnh tranh quốc tế của các cty mỹ Canada mà dời việc sx sag mexico loi dụng chi phí nhân công thấp có thể tăng lên, tạo điều kiện cho họ cạnh tranh tốt hơn với các đối thủ từ châu âu và á
tranh cãi chống lại NAFTA
những ng mà chống lại nafta nói rằng sự phê duyệt này sẽ kéo theo cuộc di cư việc làm từ mỹ, Canada sang mexico vì những ông chủ tìm kiếm lợi ích từ lương thấp, luật mt và lao dong ít chặt chẽ. Theo 1 ng kịch liệt phản đối, Ross perot, gần 5,9 triệu việc làm có thể mất khi mexico gia nhap nafta cái mà ông mô tả “giant sucking sound”. Tuy nhiên những nhà kinh tế học đã gạt bỏ những con số vô lý và gây hoang mang này. Họ chỉ ra rằng Mexico sẽ thực hiện một thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ gần đến 300 tỷ đồng cho mất việc làm trên quy mô như vậy xảy ra - và 300 tỷ USD là kích thước của GDP hiện tại của Mexico. Nói cách khác, như 1 kịch bản là không có vẻ hợp lý
1 ước lượng đúng đắn khác về tác động của NAFTA nằm trong khoảng từ 170.000 việc làm dc tạo ra ở Hoa Kỳ (do nhu cầu của ng Mexico về hàng hoá và dịch vụ mỹ tăng) và tăng 15 tỉ đô la mỗi năm trong GDP chung của Mỹ và Mexico, với 490.000 việc làm thuần bị mất tại Mỹ. Để đưa những con số này trong quan điểm, việc làm trong nền kinh tế Mỹ được dự đoán sẽ tăng trưởng 18tr từ 1993-2003. như hầu hết các nhà kinh tế liên tục nhấn manh, NAFTA sẽ có tác động nhỏ trên cả Canada và Hoa Kỳ. Nó khó có thể khác được , vì nền kinh tế Mexico là chỉ bằng 5 phần trăm kích thước của nền kinh tế Mỹ. tham gia NAFTA yêu cầu sự nhảy vọt lớn nhất của niềm tin kinh tế từ Mexico chứ không phải là Canada hay Hoa Kỳ. Giảm rào cản thương mại đặt các công ty Mexico đối mặt với hiệu quả cao đối thủ cạnh tranh từ Mỹ và Canada có hiệu quả cao, khi mà so sánh với các công ty trung bình của Mexico , thì có nguồn vốn lớn hơn nhiều, tiếp cận với các lực lượng làm việc có giáo dục cao và có kỹ năng và công nghệ phức tạp hơn nhiều. kết quả ngắn hạn có thể là được đau đớn chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thất nghiệp ở Mexico. Nhưng theo những ng ủng hộ NAFTA sẽ có những động lực tăng lên trong dài hạn trong hiệu quả của các công ty Mexico khi họ điều chỉnh để thích nghi một thị trường cạnh tranh hơn. Trong phạm vi mà điều này xảy ra, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Mexico sẽ tăng nhanh hơn, và Mexico có thể trở thành một thị trường lớn đối với cty từ Canada và Mỹ .
Các nhà môi trường cũng đã lên tiếng quan ngại về NAFTA. Họ chỉ ra bùn ở sông Rio Grande và khói trong không khí trong thành phố Mexico City và cảnh báo rằng Mexico có thể làm giảm không khí sạch và tiêu chuẩn chất thải độc hại trên khắp lục địa. Đã có, họ yêu cầu bồi thường, dưới Rio Grande là con sông ô nhiễm nhất ở Hoa Kỳ, ngày càng tăng trong chất thải hóa chất và nước thải cùng khóa học của mình từ El Paso, Texas, đến Vịnh Mexico.
Ngoài ra còn có sự phản đối tại Mexico đối với NAFTA từ những người lo sợ mất chủ quyền quốc gia. chỉ trích của Mexico cho rằng đất nước của họ sẽ bị thống trị bởi các công ty Mỹ sẽ không thực sự góp phần vào tăng trưởng kinh tế Mexico, nhưng thay vào đó sẽ sử dụng Mexico như là một bộ phận lắp ráp chi phí thấp, trong khi vẫn giữ lương cao, công việc có tay nghề cao phía bắc của biên giới .
NAFTA: thập kỉ đầu tiên
Những nghiên cứu mới về tác động của NAFTA cho rằng ít nhất cho đến nay, hiệu quả của nó là cách làm im lạng tốt nhất, cả bên ủng hộ và chống đối có thể đã nói quá. Nghiên cứu toàn diện nhất cho đến nay đã được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học California, Los Angeles, và được tài trợ bởi bộ phận khác nhau của chính phủ Mỹ. nghiên cứu này tập trung vào hiệu wa của nafta trong 3,5 năm đầu tiên. Các tác giả đã kết luận rằng sự tăng trưởng thương mại giữa mexico và mỹ bắt đầu thay đổi gần như một thập kỷ trước trước khi thực hiện NAFTA khi Mexico bắt đầu tự do hóa chế độ thương mại của chính mình để phù hợp với nhug tiêu chuẩn GATT. Thời kì khởi đầu kể từ khi NAFTA có hiệu lực đã có ít tác động tới khuynh hướng đã định. Các nghiên cứu cho thấy rằng thương mại tăng trưởng trong những lĩnh vực đã trải qua tự do hóa thuế quan trong hai năm rưỡi đầu tiên của NAFTA đã được chỉ nhỉnh hơn so với tăng trưởng thương mại trong các lĩnh vực chưa được tự do hóa. Ví dụ, từ năm 1993 đến năm 1996, xuất khẩu của Mỹ sang Mexico trong các lĩnh vực tự do hóa theo NAFTA tăng 5,83 phần trăm mỗi năm, trong khi xuất khẩu trong các lĩnh vực không phải tự do hóa theo NAFTA tăng 5,35 phần trăm. Trong ngắn hạn, các tgiả cho rằng NAFTA đã cho đến nay chỉ có một tác động nhỏ vào mức độ thương mại giữa Hoa Kỳ và Mexico.
Đối với tác động nhiều gây nhìu tranh luận của NAFTA về việc làm tại Hoa Kỳ, nghiên cứu kết luận rằng tác động là tích cực nhưng rất nhỏ. Các nghiên cứu cho thấy rằng trong khi NAFTA tạo ra 31.158 việc làm mới ở Hoa Kỳ, 28.168 công ăn việc làm cũng mất do nhập khẩu từ Mexico, cho một công việc được thực của khoảng 3.000 trong hai năm đầu của chế độ NAFTA. Tuy nhiên, như các tác giả của báo cáo chỉ ra, dòng chảy thương mại và việc làm năm 1995 và 1996 đã bị ảnh hưởng bởi những hậu quả của sự mất giá đồng peso và khủng hoảng kinh tế sau đó bị thắt chặt Mexico vào đầu năm 1995. Vì điều này, có lẽ là quá sớm để rút ra kết luận về tác động thực sự của NAFTA vào dòng chảy thương mại và việc làm.
Những khảo sát gần đây hơn chỉ ra rằng tất cả tác động của Nafta là nhỏ nhưng tích cực. từ 1993 đến 2004, thương mại giữa các đối tác của Nafta tăng 250%. Canada và mexic o bây jo là đối tác số 1 và 2 của hoa kỳ, cho thấy rằng kte của 3 quốc gia thuộc Nafta này trở nên hòa nhập hơn. Năm 1990, thương mại giữa mỹ với Canada và mexico chỉ bằng ¼ tổng thương mại của mỹ. đến 2004, con số này là 1/3. Thương mại của Canada với những đối tác của nafta tăng từ 70 đến hơn 80% trong tổng số thương mại quốc tế của Canada từ 1993 đến 2004, trong khi thương mại của mexico với nafta tăng từ 66% lên 80% trong cùng thập kỉ. tại mexico, năng suất lao động tăng khoảng 50% từ 1993,và sự chuyển sag nafta có thể đóng góp vào đó.tuy nhiên , ước lượng rằng hiệu quả việc làm của nafta là nhỏ. Cái ước lượng bi quan nhất là mỹ mất 110000 việc làm mỗi năm bởi vì Nafta từ 1994 đến 2000-nhìu nhà kte ban cãi về con số này vì nó là quá nhỏ so với 2 triệu việc làm dc tạo nên tại mỹ trong suốt thập kỉ đó.có lẽ ảnh hưởng đáng kể nhất của nafta o phải là kte mà ctri.nhìu nhà qsat công nhận rằng nafta tạo nên 1 nền căn bản cho việc tăng sự vững chắc ctri tại mexico. Mexico bây giờ dc xem là 1 quốc gia dân chủ vững chắc với tăng trưởng kte bền vững, một vài lợi ích từ mỹ , nước chia sẻ đường biên giới 2000 dậm .
Sự mở rộng
1 vấn đề Nafta đang đối mặt là mở rộng nó. Một số nước Mỹ Latinh khác đã cho thấy mong muốn của họ gia nhập NAFTA. chính phủ của cả Canada và Hoa Kỳ đang áp dụng một thái độ chờ-và-xem đối với hầu hết các nước. khiến NAFTA phê duyệt là một vết bầm kinh nghiệm chính trị, và chính phủ không phải là mong muốn lặp lại quá trình sớm. Tuy nhiên, chính phủ Canada, Mexico, và Hoa Kỳ bắt đầu các cuộc đàm phán Tháng Năm 1995 xem xét khả năng gia nhập của Chile vào NAFTA. tuy nhiên cho đến nay, những cuộc đàm phán đã đạt được tiến bộ rất ít, chủ yếu là do phe đối lập chính trị trong Quốc hội Mỹ trong việc mở rộng nafta. Tuy nhiên vào thag 12/2002,mỹ và chile đã kí hiệp ước tự do thương mại song phương.
Cộng đồng Andean
Bolivia, Chile, Ecuador, Colombia, và Peru đã ký thành lập Hiệp ước Andean vào năm 1969. Hiệp ước Andean chủ yếu dựa trên mô hình EU, nhưng nó đã được ít thành công trong việc đạt được các mục tiêu đã nêu của nó. Các bước hội nhập bắt đầu vào năm 1969 bao gồm một chương trình giảm thuế quan nội bộ, thuế quan chung đối với bên ngoài, chính sách vận chuyển, chính sách công nghiệp chung, và nhượng bộ đặc biệt cho các thành viên nhỏ nhất, Bolivia và Ecuador.
Đến giữa những năm 1980, Hiệp ước Andean đã có tất cả nhưng bị sụp đổ, và đã không đạt được bất cứ mục tiêu đã nêu của nó. Không có thương mại tự do thuế quan giữa các nước thành viên, không có thuế quan chung đối với bên ngoài, và o có sự hài hòa các chính sách kinh tế. Các nỗ lực để đạt được sự hợp tác giữa các nước thành viên dường như đã bị cản trở bởi vấn đề chính trị và kinh tế. Các nước trong khối Hiệp ước Andean đã có để đối phó với tăng trưởng kinh tế thấp, siêu lạm phát, thất nghiệp cao, tình trạng bất ổn chính trị, và gánh nặng vỡ nợ. Ngoài ra, hệ tư tưởng chi phối chính trị trong nhiều quốc gia Andean trong thời kỳ này có xu hướng cấp tiến / xã hội chủ nghĩa – sự kết thúc của chuỗi quang phổ chính trị. Từ đó hệ tư tưởng thù địch với các nguyên tắc thị trường tự do kinh tế mà Hiệp ước Andean dựa vào, tiến tới hội nhập sâu hơn có thể không được mong đợi.
Làn sóng này bắt đầu nổi lên trong cuối những năm 1980 khi, sau nhiều năm suy giảm kinh tế, chính phủ Mỹ Latinh đã bắt đầu có chính sách thị trường tự do kinh tế. Năm 1990, Thủ trưởng trong năm thành viên hiện tại của Khối hiệp ước Andean - Bolivia, Ecuador, Peru, Colombia, và Venezuela - đã gặp nhau tại quần đảo Galápagos. Kết quả Galápagos lại hiệu quả Tuyên bố ra mắt Hiệp ước Andean, dc đổi tên thành cộng đồng Andean vào năm 1997. Các mục tiêu của tờ khai bao gồm việc thành lập một khu vực thương mại tự do năm 1992, một liên minh hải quan của năm 1994, và một thị trường chung của năm 1995. Vào tháng 12/2003, kí thỏa thuận với MECOSUR để khởi động lại những đàm phán bị trì trệ về việc tạo nên khu vực tự do thương mại giữa 2 khối này. Những đàm phán đó hiện tại vẫn tiếp diện với tốc độ chậm.
MECOSUR
Mercosur ra đời 1988 là hiệp ước tự do thương mại giữa brazil và argentina. Top of FormViệc giảm vừa phải về hạn ngạch và thuế quan theo hiệp ước này được báo cáo đã giúp tăng 80 phần trăm trong thương mại giữa hai nước vào cuối những năm 1980s.dc cổ vũ bởi thành công này, hiệp ước đã được mở rộng Tháng 3 năm 1990 để bao gồm Paraguay và Uruguay. Mục đích ban đầu là thiết lập một khu vực tự do thương mại hoàn toàn vào cuối năm 1994 và một thị trường chung đôi khi sau đó. Bốn quốc gia của MERCOSUR có tổng dân số 200 triệu . Với một thị trường có kích thước này, MERCOSUR có thể có một tác động đáng kể về tốc độ tăng trưởng kinh tế của bốn nền kinh tế.Trong tháng mười hai năm 1995, MERCOSUR của các thành viên đã nhất trí một chương trình năm năm, theo đó họ hy vọng sẽ hoàn thiện khu vực thương mại tự do của họ và tiến tới một liên minh thuế quan đầy đủ. Ngoài ra, bốn quốc gia thành viên của MERCOSUR hiện đã chính thức cam kết thành lập một khu vực thương mại tự do rộng lớn hơn, Khu vực Thương mại Tự do Nam Mỹ (SAFTA). Mục đích là để mang lại cho các quốc gia khác ở Nam Mỹ vào thỏa thuận này, bao gồm cả các quốc gia trong khối Hiệp ước Andean, và có nội thương mại tự do không ít trong số 80 phần trăm của hàng hóa sản xuất trong khu vực vào năm 2005.
MERCOSUR có vẻ là cách đóng góp tích cực vào mức tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thành viên. Thương mại giữa 4 thành viên nòng cốt của MERCOSUR đã tăng gấp 4 từ 1990 tới 1998. Hơn nữa, GDP kết hợp của bốn nước thành viên tăng với một tốc độ trung bình hàng năm là 3,5 phần trăm từ năm 1990 đến năm 1996, hiệu suất tốt hơn đáng kể so với những gì 4 nc này đạt được trong những năm 1980
Tuy nhiên, MERCOSUR đã bị chỉ trích, bao gồm Alexander Yeats, một kinh tế gia cao cấp của Ngân hàng Thế giới, người đã viết một bài phê bình chua cay về MERCOSUR đã "rò rỉ" với báo chí vào tháng 10/1996 Theo Yeats, tác động đi chênh hướng thương mại của MERCOSUR lớn hơn tác động thiết lập thương mại của nó.Yeats chỉ ra rằng các mặt hàng tăng trưởng nhanh nhất trong thương mại nội khối MERCOSUR là xe ô tô, xe buýt, thiết bị nông nghiệp, hàng hóa nhiều vốn khác được sản xuất tương đối o hiệu quả trong 4 quốc gia thành viên. Nói cách khác, các nước MERCOSUR, cách ly với sự cạnh tranh từ bên ngoài bằng cách đánh thuế cao như 70 phần trăm giá trị trên xe cơ giới, họ đang đầu tư vào nhà máy xây dựng sx sản phẩm mà quá đắt tiền để bán cho bất cứ ai, ngoài trừ bản thân họ. Kết quả theo Yeats, là các nước MERCOSUR có thể không có khả năng cạnh tranh toàn cầu khi mà rào cản thương mại bên ngoài của nhóm gỡ bỏ. Trong khi đó, vốn đang được rút ra khỏi nhiều doanh nghiệp hiệu quả hơn. Trong tương lai gần, các nước với các doanh nghiệp sản xuất hiệu quả hơn sẽ thất bại vì rào cản thương mại bên ngoài của MERCOSUR khiến họ đứng ngoài thị trường.
Các bị rò rỉ của báo cáo của Yeats gây ra một cơn bão tại Ngân hàng Thế giới, mà thường không phát hành các báo cáo phê bình các quốc gia thành viên (các nước MERCOSUR là thành viên của Ngân hàng Thế giới). Nó cũng đã thu hút phản đối mạnh mẽ từ Brazil, đó là một trong những mục tiêu phê bình chính của của Yeats.tuy nhiên, trog sự thú nhập ngầm rằng ít nhất 1 vài tranh luận là có gtri, 1 nhà ngoại giao cấp cao của MERCOSUR cho bít rằng các rào cản thương mại đối với bngoai sẽ dần dần dc giảm, bắt buộc các quốc gia thành viên fai cạnh tranh toàn cầu. Nhiều loại thuế đối ngoại của MERCOSUR , rung bình thấp hơn 14 phần trăm so với trước khi sáng lập của nhóm, và có kế hoạch cho một khu vực Thương mại tự do bán cầu châu Mỹ sẽ được thành lập vào năm 2005 (sẽ kết hợp MERCOSUR, NAFTA, và các quốc gia Mỹ khác ). Nếu điều đó xảy ra, MERCOSUR sẽ không có lựa chọn, nhưng để giảm thuế quan bên ngoài của mình hơn nữa.
MERCOSUR đã đánh bật 1 sự cản chở đáng kể vào 1998 khi mà các quốc gia thành viên sa vào suy thoái và thương mại trong nội khối bị trì trệ.thương mại sụt hơn nữa vào 1999 theo sau là khùng hoảng tài chính tại brazil dẫn tới sự mất giá bất động sạn tạo brazil, ngay lập tức làm cho hàng hóa của các thành viên mercosur khác đắt hơn 40% tại brazil- thị trường lớn 1 của họ. vào thời điểm này, tiến trướng hướng đến thành lập 1 liên minh thuế wan hoàn toàn dừng lại. nhìu thứ còn xấu đi vào năm 2001 khii argentina bị bao vây bởi những căng thẳng kinh tế khiến lien minh thuế quan tạm thời bị đình trỉ. Argentina mún đình chỉ cs thuế của Mercosur để hủy bỏ nhiệm vụ nhập khảu tài sản cố định trong khi tăng nhập hàng hóa tiêu dùng lên 35% ( mercosur đã thiết lập 14% thuế nhập khẩu trên cả 2 loại hàng hóa trên).brazil đồng ý với yêu cầu này, sự điều tra của 1 mercosur lưỡng lự 1 cách hiệu quả trở thành 1 liên minh thuế quan vận hành hoàn chỉnh. Hy vọng cho sự phục hồi xuất hiện năm 2003 khi tổng thống mới của brazil là lula da silva thông báo sự ủng hộ vào việc phục hồi và mở rộng mercosur theo hih mẫu của EU với số hội viên lớn hơn, 1 đồng tiền chung và bầu cử dân chủ quốc hội Mercosur.tuy nhiên đến 2005, o có tiến triển rõ rang nào dc thực hiện để đưa mercosur theo lộ trình, và những ng chỉ trích cảm thấy là lm thuế quan nếu bất cứ thứ gì trở nên o hoàn hảo theo thời gian.
Bottom of Form
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sự hội nhập kinh tế khu vực ở châu Mỹ.docx