Từ các nghiên cứu và phân tích ở trên cho
phét rút ra một số kết luận:
- Rong nho khô bị suy giảm chất lượng
theo thời gian bảo quản và thời gian bảo quản
có tác động mạnh mẽ tới chất lượng rong nho
khô sau bảo quản. Trong vòng 9 tháng bảo
quản, sự biến đổi chất lượng của rong nho khô
khá chậm và sự suy giảm chất lượng tối đa
của rong nho sau 12 tháng bảo quản là 15%.
- Trong quá trình bảo quản ở nhiệt độ
thường và phương pháp bao gói MAP, độ
ẩm của rong nho khô sau 12 tháng bảo quản
tăng tới 27,71% so với độ ẩm rong nho ban
đầu (9,13%). Độ ẩm, chỉ số peroxid, chỉ tiêu vi
sinh vật của rong nho khô có xu hướng tăng
nhẹ theo thời gian bảo quản và hàm lượng
polyphenol, chlorophyll, caulerpin, chất lượng
cảm quan giảm chậm theo thời gian bảo quản.
- Sau 12 tháng bảo quản, sản phẩm
rong nho khô vẫn đạt chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm và vẫn có thể sử dụng làm
thực phẩm.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự biến đổi chất lượng của rong nho khô nguyên thể trong quá trình bảo quản ở nhiệt độ thường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
SỰ BIẾN ĐỔI CHẤT LƯỢNG CỦA RONG NHO KHÔ NGUYÊN THỂ
TRONG QUÁ TRÌNH BẢO QUẢN Ở NHIỆT ĐỘ THƯỜNG
THE CHANGES OF DRIED SEA GRAPE QUALITY IN THE STORAGE TIME
AT ROOM TEMPERATURE
Vũ Ngọc Bội1, Nguyễn Thị Mỹ Trang1, Nguyễn Thị Hương1
Ngày nhận bài: 02/03/2016; Ngày phản biện thông qua: 29/9/2016; Ngày duyệt đăng: 15/6/2017
TÓM TẮT
Bài báo này trình bày nghiên cứu đánh giá sự biến đổi chất lượng của rong nho sấy trong 12 tháng bảo
quản ở nhiệt độ lạnh. Các hàm mục tiêu được đánh giá trong quá trình bảo quản rong nho sấy là hàm lượng
chlorophyll, polyphenol, caulerpin, độ ẩm, chỉ số peroxit, chất lượng cảm quan và chỉ tiêu vi sinh vật. Kết quả
nghiên cứu cho thấy sau 12 tháng bảo quản ở nhiệt độ lạnh, rong nho sấy vẫn đạt chất lượng thương mại. Sau
12 tháng bảo quản, hàm lượng polyphenol, chlorophyll và caulerpin giảm tối đa là 23% so với ban đầu, chất
lượng cảm quan giảm tối đa là 7,8%, độ ẩm tăng 27,71%, chỉ số peroxit tăng 11,03% và chỉ tiêu vi sinh vật
tăng tối đa 15,5%.
Từ khóa: rong nho khô, chlorophyll, polyphenol, caulerpin, cảm quan
ABSTRACT
This paper examines quality changes of dried seagrape in storage for 12 months. The measurements
targeted at the content of chlorophyll, polyphenol, caulerpin and humidity, the index of peroxide, sensory
quality and bacteria in the storage time. The results showed that, after 12 months of cold temperature storage,
dried seagrape quality still met the trade standards. After 12 months of storage at cold temperatures, dried
seagrape contents such as polyphenol, chlorophyll, and caulerpin declined by 23% maximum), sensory
quality decreased by 7.8% minimum, humidity content and peroxide index increased by 27.71% and 11.03%
respectively, and bacteria content increased 15.5% maximum.
Keywords: caulerpin, chlorophyll, dried seagrape, polyphenol, sensory
1 Khoa Công nghệ Thực phẩm - Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, rong nho biển (Caulerpa
lentillifera J. Agardh 1837) hiện được nuôi trồng
chủ yếu ở 2 tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận.
Rong nho là loài rong biển giàu các hoạt chất
sinh học, có cấu trúc mô lỏng lẻo, mềm và có
độ ẩm cao, chiếm trên 90% khối lượng tươi. Vì
thế rong nho dễ bị hư hỏng trong quá trình bảo
quản. Để kéo dài thời gian sử dụng rong nho và
mở rộng đầu ra cho nghề nuôi trồng rong nho,
chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật sấy lạnh kết hợp
sấy bức xạ hồng ngoại để sấy khô tạo ra sản
phẩm mới: rong nho khô nguyên thể. Sản phẩm
mới này có ưu điểm là có mầu xanh đặc trưng
của rong nho và có khả năng tái hydrat hóa tốt.
Tuy vậy, chất lượng của rong nho sấy có thể bị
thay đổi trong quá trình bảo quản. Do vậy, việc
nghiên cứu đánh giá để biết được quy luật biến
đổi của rong nho khô trong quá trình bảo quản
làm cơ sở cho việc xây dựng chế độ bảo quản
phù hợp giúp kéo dài thời gian bảo quản rong
nho khô là hướng nghiên cứu cần thiết.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 21
II. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Nguyên vật liệu
Rong nho tươi (Caulerpa lentillifera) từ
35 đến 40 ngày tuổi được nuôi trồng tại Cam
Ranh - Khánh Hòa. Sau khi thu hoạch loại bỏ
phần thân bò, thu thân đứng và nuôi phục hồi
trong thời gian từ 3-4 ngày. Sau khi nuôi phục
hồi, rong nho tươi được sử dụng dụng làm
nguyên liệu cho quá trình sản xuất rong nho
sấy. Rong nho sấy được sản xuất theo kỹ thuật
sấy lạnh kết hợp sấy bức xạ hồng ngoại theo
quy trình của Đề tài KC 07.08/11-15 được trình
bày ở Hình 1.
Hình 1. Sơ đồ quy trình chế biến rong nho khô
Rong được sấy theo quy trình trên đến
độ ẩm 15,25% và sử dụng rong khô thu được
trong quá trình nghiên cứu bảo quản.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Bố trí thí nghiệm
Rong nho khô được bảo quản theo
kỹ thuật bao gói MAP, sử dụng bao bì PP
(polypropylen) và lưu giữ ở nhiệt độ thường
(28±2 0C), trong thời gian bảo quản 12 tháng.
Các hàm mục tiêu được phân tích đánh giá
trong quá trình bảo quản là chất lượng cảm
quan (được thể hiện ở tổng điểm trung bình
chung cảm quan), hàm lượng chlorophyll, hàm
lượng polyphenol, hàm lượng caulerpin, chỉ số
peroxid và chỉ tiêu vi sinh vật. Hàng tháng, tiến
hành lấy mẫu rong nho khô để phân tích đánh
giá chất lượng. Rong được chia làm 72 mẫu,
mỗi mẫu 1kg rong nho khô và mỗi tháng lấy 3
mẫu rong phân tích.
2.2. Phương pháp phân tích
- Phân tích chất lượng cảm quản theo
TCVN 3215-79 [1].
- Phân tích độ ẩm theo TCVN 7520 : 2005 [2].
- Phân tích hàm lượng polyphenol theo
phương pháp của Đặng Xuân Cường và cộng
sự [3].
- Phân tích hàm lượng chlorophyll theo
phương pháp của Priscila và cộng sự (2014) [14].
- Định lượng hàm lượng caulerpin bằng
phương pháp Serena và cộng sự (2012) [16].
- Xác định chỉ số peroxid của rong nho theo
phương pháp của Santha và Decker (1994) [15].
- Phân tích chỉ tiêu vi sinh vật theo QCVN
2011 của Bộ Y tế [4].
2.3. Phân tích dữ liệu
Các thí nghiệm đều thực hiện lặp lại 3 lần.
Kết quả được thể hiện dưới dạng giá trị trung
bình ± độ lệch chuẩn. Phân tích ANOVA và hồi
quy trên phần mềm Microsoft Excel 2010.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Sự thay đổi chất lượng cảm quan của
rong nho khô
Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng
cảm quan của rong nho khô giảm theo thời gian
22 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
bảo quản thể hiện qua sự suy giảm tổng điểm
trung bình cảm quan (ĐTBCQ). Khi bắt đầu
bảo quản, tổng điểm trung bình cảm quan của
rong nho khô là 19,2 điểm; Sau thời gian bảo
quản 12 tháng, ĐTBCQ của rong nho khô giảm
1,5 điểm (Hình 2) và mức điểm này vẫn cao
hơn 5,7 điểm so với mức không chấp nhận
được trong TCVN 3215-79. Kết quả phân
tích cũng cho thấy chất lượng cảm quan của
rong nho khô có mối tương quan chặt chẽ với
thời gian bảo quản (R2=0,95) và bị tác động
bởi thời gian bảo quản (p<0,05). ĐTB CQ có
xu thế giảm khi tăng thời gian bảo quản. Sự
suy giảm chất lượng cảm quan của rong khô
trong quá trình bảo quản ở nhiệt độ thường
có thể được giải thích là do những tác động
nội sinh. Kết quả này cũng phù hợp với kết
qủa nghiên cứu về quá trình bảo quản rau
bina được Naoki Yamauchi và Alley E. Watada
công bố năm 1991 [13].
Hình 2. Sự biến đổi chất lượng cảm quan và hàm lượng chlorophyll của rong nho khô theo thời gian bảo quản
2. Hàm lượng chlorophyll
Hàm lượng chlorophyll của rong nho khô
ban đầu là 695,71 ± 4,958 µg/g DW và sau 12
tháng bảo quản ở nhiệt độ thường hàm lượng
chlorophyll của rong nho khô chỉ còn 622,375 ±
3,872 µg/g DW. Như vậy, tỷ lệ phần trăm của
hàm lượng chlorophyll bị phá hủy so với ban
đầu là 10,54% (Hình 2). Hàm lượng chlorophyll
(đặc trưng cho màu xanh của rong nho khô)
và chất lượng cảm quan của rong nho khô có
mối tương quan chặt chẽ với nhau (R2=0,9).
Theo Naoki và cộng sự, (1991), sự biến đổi
dẫn tới suy giảm hàm lượng chlorophyll diễn
ra khi phân tử chlorophyll mở vòng porpyrin
và kết quả nghiên cứu ở trên chứng tỏ trong
nghiên cứu này sự mở vòng của chlorophyll ít
xảy ra [10]. Hàm lượng chlorophyll biến động
theo xu thế giảm dần theo thời gian bảo quản
cho đến khi cắt trục hoành và bị tác động bởi
thời gian bảo quản (p<0,05). Trong rong nho
khô, sự suy giảm hàm lượng chlorophyll trong
quá trình bảo quản thấp hơn so với sự suy
giảm của polyphenol. Kết qảu này có thể lý
giải là do kỹ thuật bảo quản rong nho khô là kỹ
thuật bao gói MAP trong điều kiện có điều chỉnh
không khí có sử dụng CO2, polyphenol không
bền trong môi trường acid [10], trong điều kiện
bổ sung CO2- sẽ tạo môi trường acid yếu và
polyphenol của rong nho lại không bền trong
môi trường này nên hàm lượng polyphenol bị
suy giảm mạnh hơn hàm lượng chlorophyll.
3. Hàm lượng polyphenol
Tương tự như hàm lượng chlorophyll, hàm
lượng polyphenol của rong nho khô cũng giảm
theo thời gian bảo quản. Sau 12 tháng bảo
quản ở nhiệt độ phòng, hàm lượng polyphenol
của rong nho giảm 11,16 ± 0,23 mg acid gallic/g
DW so với thời điểm bắt đầu bảo quản (48,89
± 0,97 mg acid gallic/g DW). Trong thời gian
bảo quản từ 4-6 tháng, sự biến đổi hàm lượng
polyphenol của rong nho không có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê (p<0,05) (Hình 3).
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 23
Từ tháng thứ 9 trở đi, hàm lượng
polyphenol của rong khô có xu thế giảm mạnh.
Sự tác động của thời gian bảo quản đến hàm
lượng polyphenol của rong nho khô ở mức
nhẹ, biến thiên đều đặn theo mô hình bậc 1
với sự tương quan (R2=0,9) và đường biểu
diễn sự suy giảm hàm lượng polyphenol có xu
thế cắt trục hoành nếu rong nho sấy khô tiếp
tục được bảo quản trong thời gian dài hơn. Sự
suy giảm hàm lượng polyphenol của rong nho
khô theo thời gian bảo quản phù hợp với các
nghiên về sự biến động hàm lượng polyphenol
ở các loài rong nâu theo thời gian bảo quản
đã được công bố trước đây [6]. Theo Dang và
cộng sự, (2015), hàm lượng polyphenol của
rong mơ giảm theo thời gian bảo quản là do tác
động của enzym, nhiệt độ,.. [6]. Do vậy chúng
ta cũng cần có những nghiên cứu sâu hơn ảnh
hưởng của các điều kiện bảo quản khác nhau
tới hàm lượng polyphenol của rong nho khô.
4. Hàm lượng caulerpin
Hàm lượng caulerpin của rong nho khô biến
đổi theo môi hình tuyến tính bậc 2 với sự tương
quan mạnh (R2 = 0,92). Dự báo xu hướng biến
đổi hàm lượng caulerpin theo thời gian bảo
quản theo hướng giảm đều và chậm từ khi bắt
đầu bảo quản đến tháng thứ 10. Sự suy giảm
hàm lượng caulerpin theo thời gian bảo quản
tối đa là 11,13% (Hình 3) và tương đương với
sự sụt giảm hàm lượng polyphenol theo thời
gian bảo quản. Thời gian bảo quản tác động có
ý nghĩa lên hàm lượng caulerpin của rong nho
khô (p<0,05). Hàm lượng caulerpin trong rong
nho khô bị sụt giảm có thể là do các phản ứng
sinh hóa nội sinh vẫn diễn ra trong rong nho
khô theo thời gian bảo quản dưới tác động của
nhiệt độ phòng. Kết quả nghiên cứu này cũng
phù hợp với công bố của Mudau F. N. và W.
Ngezimana về sự biến đổi các chất có trong trà
khi bảo quản ở nhiệt độ phòng [8]. Theo nhiều
nghiên cứu của nước ngoài cho thấy caulerpin
có khả năng chống lại virus herpes loại 1 [11].
Do vậy, để tăng giá trị của rong nho khô cần
nghiên cứu bảo quản để giữ được caulerpin,
giúp tăng cường khả năng kháng virus herpes 1
ở người sử dụng rong nho khô. Đối với hoạt
chất caulerpin ở rong nho, các nghiên cứu
trước đây chủ yếu công bố về cấu trúc, hoạt
tính, hàm lượng,... Công bố khoa học về hàm
lượng caulerpin biến đổi theo thời gian bảo
quản hay các tác động của điều kiện bảo quản
đến hàm lượng caulerpin chưa được công bố.
Do vậy, hướng nghiên cứu này cần được tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn.
5. Chỉ số peroxid
Chỉ số peroxid của rong nho khô cũng
bị tác động bởi thời gian bảo quản (p<0,05).
Chỉ số peroxid của rong nho khô ban đầu là
5,485 ± 0,136 mg KOH/100g DW. Sau 12 tháng
bảo quản, chỉ số peroxid của rong nho khô
tăng lên ở mức 6,201 ± 0,142 mg KOH/100g
DW (Hình 3). Như vậy, sau 12 tháng bảo quản,
chỉ số peroxid của rong khô đã tăng 13,03%
so với ban đầu. Kết quả này phù hợp với
những công bố trước đây của chúng tôi về
hàm lượng lipid trong rong nho. Hàm lượng
lipid và phương thức bảo quản tác động mạnh
tới chỉ số peroxid. Các công bố trước đây
Hình 3. Sự biến đổi hàm lượng polyphenol của rong nho khô theo thời gian bảo quản
24 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
cho thấy hàm lượng lipid trong rong nho ở mức
rất thấp. Do đó chỉ số peroxid của rong nho sau 12
tháng bảo quản vẫn ở mức rất thấp. Sự gia tăng
chậm của chỉ số peroxid trong nghiên cứu này
có thể là do chúng tôi sử dụng kỹ thuật bao gói
MAP, sử dụng CO2 để bảo quản rong nho dẫn
đến ức chế quá trình chuyển hóa lipid trong
rong nho.
Hình 4. Sự biến đổi chỉ số peroxid của rong nho khô theo thời gian bảo quản
Sự tương quan giữa sự gia tăng chỉ
số peroxid với mô hình tuyến tính khá cao
(R2=0,97). Từ mô hình tuyến tính này có thể
dự đoán chỉ số peroxid sẽ tiếp tục tăng nếu
thời gian bảo quản tiếp tục kéo dài. Sự oxy hóa
lipid xảy ra do sản phẩm: tiếp xúc với nhiệt và
ánh sáng, độ ẩm,... [6]. Ngoài ra sự oxy hóa
lipid còn do tác động của vi khuẩn, enzym xúc
tác cho quá trình oxy hóa, [7]. Tuy vậy, rong
nho khô có độ ẩm thấp (15,25%) và đã được
xử lý để vô hoạt enzym trước khi sấy nên các
yếu tố này ít ảnh hưởng tới phản ứng oxy hóa
lipid. Do vậy, sự gia tăng chỉ số peroxid ở rong
nho khô có thể là do nguyên nhân vi sinh vật,
ánh sáng và nhiệt độ.
6. Độ ẩm
Độ ẩm của rong nho khô tăng theo thời
gian bảo quản tương tự như sự gia tăng
chỉ số peroxid đã phân tích và luận giải ở
trên. Sự gia tăng này tuân theo mô hình tuyến
tính bậc 1 trong khoảng thời gian từ lúc bắt
đầu bảo quản đến 12 tháng và độ ẩm của
rong khô tăng chậm, đều trong quá trình bảo
quản. Kết quả phân tích cũng cho thấy độ ẩm
tương quan chặt chẽ với thời gian bảo quản
(R2=0,96) và bị tác động bởi thời gian bảo
quản (p<0,05). Sau 12 tháng bảo quản, độ ẩm
rong nho khô là 11,66 ± 1,12%, tăng 27,71%
so với độ ẩm của rong nho sấy khô khi bắt
đầu bảo quản (Hình 5). Từ các phân tích ở
trên cho thấy độ ẩm, chỉ số peroxid là có xu
hướng tăng theo thời gian bảo quản nhưng
hàm lượng polyphenol, chlorophyll, caulerpin
và chất lượng cảm quan lại giảm theo thời
gian bảo quản.
Hình 5. Sự biến đổi độ ẩm và chỉ tiêu vi sinh vật của rong nho khô theo thời gian bảo quản
Sự biến đổi độ ẩm đã nghiên cứu ở trên
phù hợp với các nghiên cứu trước đây về sự
biến đổi độ ẩm của sản phẩm nông sản sau
thu hoạch theo thời gian bảo quản [6]. Sự gia
tăng độ ẩm của sản phẩm trong quá trình bảo
quản phụ thuộc vào điều kiện bảo quản và
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 25
độ ẩm ban đầu của sản phẩm được bảo quản [6].
Nguyên nhân sự gia tăng độ ẩm chắc chắn có
thể là do sự hút ẩm theo thời gian bảo quản
sản phẩm. Sản phẩm rong nho khô được bảo
quản theo công nghệ MAP sử dụng bao bì PP
có thể thấm khí. Do vậy, cần tiếp tục nghiên
cứu thêm về loại bao bì cũng như độ dày của
bao bì sử dụng trong bảo quản rong nho khô.
7. Vi sinh vật
Chỉ tiêu vi sinh vật tổng số của rong nho
khô tăng theo thời gian bảo quản và các vi sinh
vật khác được kiểm định theo Quy chuẩn năm
2011 của Bộ Y tế không thấy xuất hiện. Chỉ số
peroxid, độ ẩm và lượng vi sinh vật hiếu khí
tổng số có mối liên hệ mật thiết tác động qua
lại với nhau với độ tương quan cao (R2=0,93).
Sau 12 tháng bảo quản, tổng số vi sinh vật hiếu
khí là 0,31 x 102 Kl/ 100g DW, tăng gấp 15,5
lần so với tổng số vi sinh vật hiếu khí (0,02 x
102 Kl/ 100g DW) của rong nho khô ban đầu
(Hình 5). Tổng số vi sinh vật hiếu khí của rong
nho tăng theo thời gian bảo quản là phù hợp
với lý thuyết và thực nghiệm (p<0,05). Kết quả
này cũng được nhiều nghiên cứu trước đây
công bố: mặc dù sản phẩm được bảo quản ở
nhiệt độ thấp hoặc được bảo quản ở nhiệt độ
thường thì vi sinh vật vẫn gia tăng theo thời
gian bảo quản [8]. Tuy vậy, sau 12 tháng bảo
quản, sản phẩm rong nho sấy khô vẫn đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và vẫn đạt tiêu
chuẩn vi sinh theo quy định hiện hành của Bộ Y
tế. Do vậy có thể nói rằng sản phẩm rong nho
khô bảo quản trong bao bì PP sau 12 tháng
bảo quản ở nhiệt độ thường vẫn đủ điều kiện
sử dụng trong thực phẩm.
IV. KẾT LUẬN
Từ các nghiên cứu và phân tích ở trên cho
phét rút ra một số kết luận:
- Rong nho khô bị suy giảm chất lượng
theo thời gian bảo quản và thời gian bảo quản
có tác động mạnh mẽ tới chất lượng rong nho
khô sau bảo quản. Trong vòng 9 tháng bảo
quản, sự biến đổi chất lượng của rong nho khô
khá chậm và sự suy giảm chất lượng tối đa
của rong nho sau 12 tháng bảo quản là 15%.
- Trong quá trình bảo quản ở nhiệt độ
thường và phương pháp bao gói MAP, độ
ẩm của rong nho khô sau 12 tháng bảo quản
tăng tới 27,71% so với độ ẩm rong nho ban
đầu (9,13%). Độ ẩm, chỉ số peroxid, chỉ tiêu vi
sinh vật của rong nho khô có xu hướng tăng
nhẹ theo thời gian bảo quản và hàm lượng
polyphenol, chlorophyll, caulerpin, chất lượng
cảm quan giảm chậm theo thời gian bảo quản.
- Sau 12 tháng bảo quản, sản phẩm
rong nho khô vẫn đạt chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm và vẫn có thể sử dụng làm
thực phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. TCVN 3215-79 - Phân tích cảm quản.
2. TCVN 7520 : 2005 - Phân tích độ ẩm.
3. Đặng Xuân Cường, Vũ Ngọc Bội, Trần Thị Thanh Vân và Ngô Đăng Nghĩa, 2013. Sàng lọc hoạt tính kháng oxy
hóa của một số loài rong nâu Sargassum Ở Khánh Hòa, Việt Nam. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ,
Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học, 25: 36-42.
4. Đặng Xuân Cường, Vũ Ngọc Bội, Trần Thị Thanh Vân, Đào Trọng Hiếu, 2015. Độ ổn định màu sắc, hoạt chất
(polyphenol, diệp lục) với hoạt tính chống ô xy hóa của đồ uống có nguồn gốc từ cây ngô. Tạp chí Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, Số 3+4: 55-61.
5. QCVN 2011 - Bộ Y tế - Giới hạn ô nhiễm vi sinh vật và kim loại nặng ở thực phẩm.
26 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
Tiếng Anh
6. Dang Xuan Cuong, Vu Ngoc Boi, Tran Thi Thanh Van, Le Nhu Hau, 2015. Effects of storage time on phlorotannin
content and antioxidant activity of six Sargassum species from Nhatrang Bay, Vietnam. Journal of Applied
Phycology, Springer, Springer, Published online: 23 May 2015, ISSN 0921-8971.
7. Jany M. N. H., Sarker C., Mazumder M. A. R. and Shikder. M. F. H., 2008. Effect of storage conditions on
quality and shelf life of selected winter vegetables. J. Bangladesh Agril. Univ., 6(2), 391-400, ISSN 1810-3030.
8. Mudau F. N. and W. Ngezimana, 2014. Effect of different drying methods on chemical composition and antimicrobial
activity of bush tea (Athrixia phylicoides). Int. J. Agric. Biol., 16: 1011-1014.
9. Natasha Valerie Wilfred Chong, Wolyna Pindi, Fook-Yee Chye, Sharifudin Md Shaarani, Jau-Shya Lee, 2015.
Novelty journals effects of drying methods on the quality of dried sea cucumbers from sabah. A Review,
International Journal of Novel Research in Life Sciences, 2(4), 49-64.
10. Nathália Regina Porto Vieira Macedo, Michele S. Ribeiro, Roberto C. Villaça, Wilton Ferreira, Ana Maria Pinto,
Valéria L. Teixeira, Claudio Cirne Santos, Izabel C. N. P. Paixão, Viveca Giongo, 2012. Caulerpin as a potential
antiviral drug against herpes simplex virus type 1. Revista Brasileira de Farmacognosia. Brazilian Journal of
Pharmacognosy, 22(4): 861-867.
11. Naoki Yamauchi and Alley E. Watada., 1991. Regulated Chlorophyll Degradation in Spinach Leaves during
Storage. J. Amer. So C. Hort. Sci., 116(1): 58-62.
12. Nirmal Sinha,Y. H. Hui, E. Özgül, 2011. Handbook of Vegetables and Vegetable Processing, Wiley - Black well.
John Wiley & Sons, Ltd, Publication.
13. Priscila Bezerra Torres, Fungyi Chow, Cláudia Maria Furlan, Fernanda Mandelli, Adriana Mercadante and
Déborah Yara Alves Cursino dos Santos, 2014. Standardization of a protocol to extract and analyze chlorophyll
a and carotenoids in Gracilaria tenuistipitata var. Liui Zhang and Xia (Rhodophyta). Brazilian Journal of
Oceanography, 62(1): 57 - 63.
14. Santha N. C. & Decker E. A., 1994. Rapid, sensitive, iron-based spectrophotometric methods for determination
of peroxide values of food lipids. Association of Offi cial Analytical Chemists International, 77 421-424.
15. Serena Felline, Roberto Caricato, Adele Cutignano, Stefania Gorbi, Maria Giulia Lionetto, Ernesto Mollo,
Francesco Regoli, Antonio Terlizzi, 2012. Subtle effects of biological invasions: Cellular and physiological
responses of fi sh eating the exotic pest Caulerpa racemosa, Plos One, 7(6), e38763.
16. Zoran Zorić, Sandra Pedisić, Danijela Bursać Kovačević, Damir Ježek, Verica Dragović-Uzelac, 2015. Impact
of packaging material and storage conditions on polyphenol stability, colour and sensory characteristics of
freeze-dried sour cherry (prunus cerasus var. Marasca). Journal of Food Science and Technology, 1-12. DOI
10.1007/s13197-015-2097-4.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_bien_doi_chat_luong_cua_rong_nho_kho_nguyen_the_trong_qua.pdf