Sản xuất sạch hơn - Hướng đi mới trong phát triển công nghiệp tại Thái Nguyên theo quan điểm phát triển bền vững

KẾT LUẬN Như vậy, SXSH là công cụ giúp doanh nghiệp tìm ra các phương thức sử dụng nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng một cách tối ưu, đồng thời giúp giảm thiểu chi phí hoạt động, phế thải và ô nhiễm môi trường. Áp dụng SXSH đã giúp doanh nghiệp cải thiện hiệu suất sản xuất thông qua việc sử dụng tái sử dụng vật liệu bán thành phẩm, tạo cho các doanh nghiệp 1 hình ảnh tốt hơn trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường. Đây chính là điều kiện để các doanh nghiệp xâm nhập được các thị trường mới để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Bảo vệ môi trường trong sản xuất công nghiệp là yêu cầu cấp thiết hiện nay, bởi đây chính là cơ sở phát triển công nghiệp bền vững. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần có sự đầu tư tổng thể công nghệ sản xuất sạch, thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, xây dựng hệ thống xử lý chất thải bảo đảm đạt tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường. Vấn đề bảo vệ môi trường trong các khu, cụm công nghiệp không chỉ là thách thức với Thái Nguyên mà còn là trở ngại của nhiều địa phương trong cả nước trong việc phát triển nền công nghiệp bền vững. Vì vậy, cần có sự quan tâm và đầu tư, hỗ trợ kinh phí để sản xuất đạt hiệu quả và mang lại sự phát triển bền vững trong công nghiệp. Việc áp dụng SXSH tại một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh hiện nay đã tạo ra hướng mở hiệu quả để các doanh nghiệp triển khai áp dụng. Đó chính là một phần đáp án để giải quyết bài toán khó về môi trường hiện đang gây nhiều khó khăn, bức xúc cho các doanh nghiệp, chính quyền và nhân dân trong tỉnh hiện nay.

pdf5 trang | Chia sẻ: hoant3298 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sản xuất sạch hơn - Hướng đi mới trong phát triển công nghiệp tại Thái Nguyên theo quan điểm phát triển bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 169 - 173 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 169 SẢN XUẤT SẠCH HƠN - HƢỚNG ĐI MỚI TRONG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TẠI THÁI NGUYÊN THEO QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Nguyễn Thị Hằng*, Nguyễn Văn Huân Trường Đại học CNTT và Truyền thông – ĐH Thái Nguyen TÓM TẮT Để đảm bảo sự phát triển bền vững, sản xuất kinh tế cần phải gắn liền với các hoạt động bảo vệ môi trường. Trong những năm qua, nền kinh tế của tỉnh Thái Nguyên có sự phát triển mạnh mẽ, tạo đà tăng trưởng để trở thành tỉnh công nghiệp hiện đại trước năm 2020. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng của sản xuất, vấn nạn ô nhiễm môi trường đang đặt ra cho Thái Nguyên nhiều vấn đề cần giải quyết. Việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp thực sự trở thành công cụ quản lý hiệu quả về kinh tế, tạo ra những lợi ích xã hội và môi trường cho các doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Từ khoá: Sản xuất sạch hơn, bền vững, môi trường, công nghiệp, ô nhiễm. MỞ ĐẦU Đi đôi với phát triển kinh tế, nhiệm vụ bảo vệ môi trường đang là vấn đề đặt ra nhiều thách thức đối với cả nước nói chung và Thái Nguyên nói riêng. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường đối với phát triển bền vững, trong những năm qua, Thái Nguyên đã chú trọng đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Đặc biệt là 3 năm trở lại đây, được sự hỗ trợ của hợp phần Sản xuất sạch hơn (SXSH) trong công nghiệp của CPI (Consumer Price Index: Chỉ số giá tiêu dùng), gồm các chương trình hợp tác phát triển giữa Việt Nam và Đan Mạch về bảo vệ môi trường giai đoạn 2005 - 2010, Sở Công thương Thái Nguyên đã phối hợp triển khai với các doanh nghiệp trên địa bàn và đã thu được những kết quả khả quan, tạo nền tảng vững chắc trong công tác bảo vệ môi trường theo hướng bền vững. Những mô hình đầu tiên áp dụng Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp ở Thái Nguyên có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Quan niệm về Sản xuất sạch hơn Sản xuất sạch hơn (Cleanner Production - CP) là việc cải tiến liên tục quá trình sản xuất công nghiệp, sản phẩm và dịch vụ để giảm sử dụng tài  Tel: 0987 118 078,Email: nthang100483@gmail.com nguyên thiên nhiên, phòng ngừa tại nguồn ô nhiễm không khí, nước và đất, giảm phát sinh chất thải tại nguồn, giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường. SXSH bao gồm tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc, giảm lượng và độ độc của các dòng thải trước khi đi ra khỏi quá trình sản xuất. Ðối với sản phẩm, SXSH làm giảm ảnh hưởng trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm từ khâu chế biến nguyên liệu đến khâu thải bỏ cuối cùng. Hợp phần SXSH trong công nghiệp ra đời nhằm mục đích xây dựng chiến lược Quốc gia về sản xuất sạch trong công nghiệp; tổ chức đào tạo về sản xuất sạch cho các đối tượng cán bộ quản lý, doanh nghiệp và chuyên gia tư vấn; xây dựng hướng dẫn sản xuất sạch cho các ngành công nghiệp; tiến hành các dự án trình diễn về SXSH tại các tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An, Quảng Nam, Phú Thọ và Bến Tre. Mục tiêu của SXSH là tránh ô nhiễm bằng cách sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng một cách có hiệu quả nhất. Ðiều này có nghĩa là thay vì bị thải bỏ sẽ có thêm một tỷ lệ nguyên vật liệu nữa được chuyển vào thành phẩm. Sản xuất sạch hơn chú trọng đến việc thay đổi nhận thức, cải tiến công nghệ và phương thức quản lý cũng như áp dụng các phương pháp sản xuất (know - how) để sản xuất đạt hiệu quả cao. Nguyễn Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 169 - 173 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 170 Lợi ích của việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp Áp dụng Sản xuất sạch hơn sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu các chi phí về nguyên vật liệu, năng lượng và nguồn nước, giúp họ tiết kiệm tối đa nguồn nguyên liệu đầu vào. Không những thế, nó còn giúp giảm các chi phí liên quan đến thải bỏ và xử lý rác thải. Từ đó, sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, doanh thu và chất lượng sản phẩm. Trên cơ sở đó, góp phần nâng cao năng suất lao động và cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn sức khỏe trong sản xuất. Vì vậy, uy tín của doanh nghiệp và mối quan hệ với cộng đồng xã hội được nâng cao. SXSH có thể đạt được thông qua việc quản lý nội vi tốt, thu hồi tái chế và tái sử dụng các phế phẩm tại chỗ, thay thế các nguyên vật liệu đầu vào bằng các loại thân thiện với môi trường cùng với việc thay đổi công nghệ, thiết bị nhằm giúp quy trình sản xuất có hiệu quả hơn, giảm thiểu rác thải gây ô nhiễm. Ðối với quá trình sản xuất: SXSH bảo toàn nguyên liệu và năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc hại và giảm lượng và tính độc hại của tất cả các chất thải ngay tại nguồn thải. Ðối với sản phẩm: SXSH bao gồm việc giảm các ảnh hưởng tiêu cực trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm, từ khâu thiết kế đến thải bỏ. Ðối với dịch vụ: SXSH dựa vào các yếu tố về môi trường trong thiết kế và phát triển các dịch vụ. Thực trạng môi trường nảy sinh từ hoạt động công nghiệp tại Thái Nguyên Sự phát triển của các ngành công nghiệp đã góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài, góp phần hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trên toàn tỉnh. Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp công nghiệp tại Thái Nguyên tăng lên rất nhanh, từ chỗ 200 - 300 doanh nghiệp, đến nay đã tăng lên hơn 2.000 doanh nghiệp. Việc phát triển các cơ sở sản xuất nhanh chóng đã tạo sức ép lên môi trường. Nhiều doanh nghiệp không thực hiện các biện pháp xử lý gây ô nhiễm. Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Thái Nguyên, tổng lượng nước thải của ngành luyện kim, cán thép, chế tạo thiết bị máy móc khoảng 16.000 m3/ngày. Trong đó, nước thải của khu công nghiệp (KCN) gang thép Thái Nguyên có ảnh hưởng lớn nhất tới chất lượng nước sông Cầu, bởi nước thải tại đây qua hai mương dẫn rồi chảy thẳng vào sông Cầu với lưu lượng ước tính lên tới 1,3 triệu m3/năm. Hoạt động sản xuất gang thép phát sinh nước thải có chứa nhiều chất ô nhiễm độc hại như dầu mỡ, phenol và xianua từ quá trình cốc hóa. Tại khu công nghiệp Sông Công (nằm trên thị xã Sông Công với các nhà máy sản xuất cơ khí, chế tạo máy động lực), mặc dù hoạt động từ năm 2001 nhưng đến nay mới chỉ lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường mà chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Mặt khác, trang thiết bị đầu tư vào ngành công nghiệp của tỉnh không đồng bộ, dễ xảy ra sự cố môi trường liên quan đến khí thải. Điển hình là nhà máy kẽm điện phân của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Kim loại màu Thái Nguyên: thường xuyên để rò rỉ khí lưu huỳnh dioxit ra môi trường (có nồng độ đến 1,98mg/m 3, vượt tiêu chuẩn môi trường cho phép hơn 2 lần), gây thiệt hại phần lớn diện tích cây trồng của nhân dân quanh khu vực. Ngoài ra, sự phát triển của các ngành sản xuất, việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp còn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường. Tính đến nay, theo quy hoạch, toàn tỉnh Thái Nguyên có 28 khu, cụm công nghiệp, trong đó KCN Sông Công 1 thu hút được 32 dự án đầu tư, 1 số khu, cụm công nghiệp đã kết thúc giai đoạn đầu tư và bắt đầu đi vào hoạt động. Tuy nhiên, trong tổng số các khu, cụm công nghiệp được quy hoạch chỉ có duy nhất KCN Sông Công thực hiện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, còn lại đều không có báo cáo đánh giá tác động môi trường, Nguyễn Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 169 - 173 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 171 chưa xây dựng chương trình quản lý chất thải và giám sát chất lượng môi trường. Thái Nguyên là một trong số 5 tỉnh trên toàn quốc được chọn thí điểm triển khai chương trình thúc đẩy SXSH trong công nghiệp. Đây là hợp phần thuộc Bộ Công thương. Đến nay, Thái Nguyên đã có 03 doanh nghiệp được các chuyên gia tư vấn của hợp phần hướng dẫn triển khai đánh giá và áp dụng các nhóm giải pháp SXSH trong công nghiệp. Trong vài năm trở lại đây, sáng kiến SXSH do Sở Công thương triển khai về sản xuất công nghiệp đã mang lại kết quả khả quan trong sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các doanh nghiệp, bảo vệ sức khỏe cho người lao động. Hợp phần SXSH trong công nghiệp thực hiện trên địa bàn Thái Nguyên từ năm 2006, sau khi khảo sát 9 doanh nghiệp, năm 2007 đã lựa chọn 3 doanh nghiệp để thử nghiệm mô hình này. Tổng mức vốn hỗ trợ cho 3 mô hình là 3,860 tỉ đồng, tại 3 công ty: Công ty cổ phần giấy xuất khẩu Thái Nguyên, nhà máy Xi măng Lưu Xá, Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên Kim loại màu Thái Nguyên. 3 dự án trình diễn nói trên đã đưa vào vận hành, khai thác sử dụng từ tháng 6 năm 2008 và thu được hiệu quả thiết thực. Công ty cổ phần giấy xuất khẩu Thái Nguyên: Công ty đi vào hoạt động từ năm 1993 với công suất 4000 tấn/năm, sản xuất mặt hàng chính là giấy vàng mã xuất khẩu sang Hồng Kông, Đài Loan. 2 vấn đề lớn về môi trường của Công ty trước đây là nước thải do dây chuyền sản xuất thải ra, gây ảnh hưởng lớn đến năng suất và điều kiện làm việc của công nhân và các hộ dân cư lân cận. Công ty đã áp dụng các quy trình SXSH trong sản xuất. Các chuyên gia CPI đã hỗ trợ, tư vấn và cùng với doanh nghiệp đưa ra 21 giải pháp sát với tiêu chí của CPI. Đến nay, hai giải pháp chính được sử dụng ở công ty là thu hồi bột giấy, tuần hoàn nước sau xeo và hệ thống hút bụi khử mùi ở các phân xưởng sản xuất. Trong quá trình thực hiện các dự án, công ty đã lắp đặt hệ thống tuần hoàn để tái sử dụng nước thải và thu hồi bột giấy trong nước lắng cặn. Nước thải qua dây chuyền sản xuất sẽ được đưa vào bể chứa có dung tích 150m 3. Sử dụng biện pháp lắng cơ học, bột giấy sẽ thu hồi khoảng 80%, sau đó nước thải ở bể số 1 sẽ được đưa sang bể số 2 với dung tích 60m 3, kết hợp với nước trợ lắng sẽ thu được toàn bộ số bột giấy còn sót lại. Do đó, số lượng bột giấy thu được trong nước thải 1 năm của công ty lên tới 200 tấn, tương đương với 300 triệu đồng/năm. Vì thế, vừa tiết kiệm nguyên liệu, vừa giảm thiểu được ô nhiễm nước thải - vấn đề mà bấy lâu nay công ty phải băn khoăn, trăn trở và hầu như bế tắc trong hướng giải quyết. Đây là ví dụ điển hình về tính thực tế của sáng kiến sản xuất sạch. Công ty triển khai dự án từ cuối tháng 12/2007 - tháng 6/2008 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Sau 1 năm áp dụng mô hình sản xuất sạch, sản phẩm xuất khẩu tăng từ 3000 - 4000 tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 2 triệu USD, mức lương của công nhân được cải thiện đáng kể, đạt trên 1500000 đồng/người/năm. Tình trạng ô nhiễm môi trường cũng từ đó được giảm thiểu, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, giảm được 50% các bệnh tật của công nhân liên quan đến hô hấp,.. Nhà máy Xi măng Luu Xá: công suất 100.000 tấn/năm. Trước đây, nhà máy phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do nước thải, khí thải rắn và chất thải trong quá trình sản xuất gây ra. Sau khi tham gia các hội thảo về SXSH, nhà máy đã thấy được lợi ích kinh tế của việc áp dụng mô hình này và đã tiến hành các giải pháp với tổng mức kinh phí trên 1,5 tỷ đồng. Sau 1 năm thực hiện các dự án, nhà máy đã thực hiện việc tối ưu hóa khâu nung xi măng thay thế hệ thống dập vụn nước bằng hệ thống lọc bụi thay áo có hiệu suất cao. Vì thế, nhà máy đã thu về 1 năm trên 400 triệu đồng do việc giảm sử dụng tài nguyên, giảm xả thải, từ đó cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân. Từ năm 2008 - nay, nhà máy tiếp tục triển khai dự án giai đoạn 2, tập trung chủ yếu vào cải tiến hệ thống sấy nguyên liệu với mục tiêu nâng cao hiệu quả công suất của quá trình sấy, xử lý triệt để bụi, bùn thải, không để phát tán ra môi trường. Cùng nằm trong mục tiêu giảm ô nhiễm môi trường, nhà máy đã Nguyễn Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 169 - 173 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 172 tiến hành đầu tư hệ thống lọc bụi khói lò với giá trị đầu tư 3,43 tỷ đồng. Sau khi đi vào sản xuất, hệ thống lọc bụi khói lò nung clanhke đã giảm từ 305 mg/m 3 xuống còn 42 mg/m3, tiêu hao than giảm từ 0,241 kg clanhke xuống còn 0,233 kg, tiết kiệm 390 triệu đồng tiền điện/năm. Sau 3 năm đầu tư cho các hoạt động sản xuất sạch hơn, nhà máy đã tiết kiệm được chi phí sản xuất trên 1 tỷ đồng, giảm phát thải 178,5 tấn bụi/năm. Từ đó, tiêu hao nguyên liệu giảm, giảm các sự cố phát sinh, thời gian hoạt động của máy tốt hơn, cải thiện điều kiện làm việc, điều kiện mội trường. Công ty trách nhiệm 1 thành viên Kim loại màu Thái Nguyên: có dây chuyền chế biến sâu các loại quặng, thiếc, chì, kẽm. Bụi, nước thải của nhà máy kẽm điện phân chưa được xử lý hết, ảnh hưởng đến điều kiện làm việc của công nhân và môi trường làm việc xung quanh. Sau khi áp dụng chương trình SXSH, công ty đã đề xuất các giải pháp: cải tạo, nâng cấp lò quay số 1, thay đổi công nghệ, thu hồi sản phẩm của lò này, thay đổi hệ thống khói bụi thủ công bằng cơ khí, đầu tư nâng cấp khu vực chứa nhiên liệu như quặng, than, đá vôi, cải tiến thiết bị xử lý, chuẩn bị nguyên liệu trước khi đưa vào lò. Theo đó, xí nghiệp có 3 dây chuyền sản xuất, 3 lò quay này có đặc điểm tương tự nhau, với 15 giải pháp sản xuất sạch được thực hiện, chi phí đầu tư trên 3 tỷ đồng. Nhờ đó, mỗi năm nhà máy đã tiết kiệm được 925 triệu đồng, chỉ sau gần 4 năm là thu hồi được vốn đầu tư. Thêm vào đó, dự án đã nâng cao chất lượng môi trường làm việc cho người lao động, lao động không phải tiếp xúc trực tiếp với nóng, bụi, giảm được đáng kể bụi thải ra môi trường, giảm được lao động thủ công và góp phần đáng kể trong công tác bảo vệ môi trường. Nhờ vậy, công ty đã giảm chi phí sản xuất xuống 5%, tiêu thụ điện và than giảm khoảng 7%, giảm tiêu thụ quặng cho 1 tấn sản phẩm từ 4 - 5%, mỗi năm công ty tiết kiệm được 15% quặng bôxit kẽm, 160.000 kw/h điện, công suất được cải tạo tăng từ 3000 - 4000 tấn/năm. Không những thế, việc áp dụng SXSH còn là giải pháp quan trọng để công ty tận thu triệt để tài nguyên khoáng sản, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hạn chế Việc triển khai chương trình SXSH vẫn còn gặp nhiều khó khăn, do nhận thức về SXSH của các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Điều đáng nói đó là sự hỗ trợ về vốn đầu tư thực hiện giải pháp của chương trình này ít hơn rất nhiều so với sự đầu tư của doanh nghiệp. Hiện nay, ở Thái Nguyên, các doanh nghiệp sản xuất thép, vật liệu chịu lửa... cũng đang triển khai các dự án SXSH như Công ty cổ phần (CP) Cơ điện Luyện kim, Công ty CP Vật liệu chịu lửa Thái Nguyên, Công ty CP Luyện cán thép Gia Sàng, Nhà máy luyện Gang, Nhà máy luyện Thép Lưu Xá (Công ty Gang thép Thái Nguyên)... Các doanh nghiệp này đã có nhiều cố gắng trong quá trình triển khai nhưng một phần do nguồn vốn đến với doanh nghiệp chậm nên các đơn vị vẫn chưa hoàn thiện dự án. Vì vậy, bên cạnh sự cố gắng triển khai Hợp phần SXSH của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Thái Nguyên, doanh nghiệp rất cần chính sách hỗ trợ của Nhà nước về vốn vay mà cụ thể là hỗ trợ của dự án cho các doanh nghiệp. Có như vậy, các giải pháp SXSH mới được thực hiện đồng bộ và việc bảo vệ môi trường sẽ đạt được mục tiêu đề ra. Để SXSH trở nên có hiệu quả và bền vững, cần phải xây dựng và đưa vào áp dụng một tiếp cận có hệ thống. Ban đầu, khi làm việc với một số phần cơ bản có thể sẽ hấp dẫn vì nó đem lại ngay các lợi ích. Dù sao, mối quan tâm này cũng sẽ nhanh chóng giảm đi nếu như không có các lợi ích bền vững, lâu dài. Chính vì vậy, cần phải có thêm thời gian và nỗ lực để đảm bảo tiếp cận được thực hiện là có hệ thống và có tổ chức. KẾT LUẬN Như vậy, SXSH là công cụ giúp doanh nghiệp tìm ra các phương thức sử dụng nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng một cách tối ưu, đồng thời giúp giảm thiểu chi phí hoạt động, phế thải và ô nhiễm môi trường. Áp dụng SXSH đã giúp doanh nghiệp cải thiện hiệu suất sản xuất thông Nguyễn Thị Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 169 - 173 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 173 qua việc sử dụng tái sử dụng vật liệu bán thành phẩm, tạo cho các doanh nghiệp 1 hình ảnh tốt hơn trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường. Đây chính là điều kiện để các doanh nghiệp xâm nhập được các thị trường mới để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Bảo vệ môi trường trong sản xuất công nghiệp là yêu cầu cấp thiết hiện nay, bởi đây chính là cơ sở phát triển công nghiệp bền vững. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần có sự đầu tư tổng thể công nghệ sản xuất sạch, thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, xây dựng hệ thống xử lý chất thải bảo đảm đạt tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường. Vấn đề bảo vệ môi trường trong các khu, cụm công nghiệp không chỉ là thách thức với Thái Nguyên mà còn là trở ngại của nhiều địa phương trong cả nước trong việc phát triển nền công nghiệp bền vững. Vì vậy, cần có sự quan tâm và đầu tư, hỗ trợ kinh phí để sản xuất đạt hiệu quả và mang lại sự phát triển bền vững trong công nghiệp. Việc áp dụng SXSH tại một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh hiện nay đã tạo ra hướng mở hiệu quả để các doanh nghiệp triển khai áp dụng. Đó chính là một phần đáp án để giải quyết bài toán khó về môi trường hiện đang gây nhiều khó khăn, bức xúc cho các doanh nghiệp, chính quyền và nhân dân trong tỉnh hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Anton Blazej (1998), Nguyên lý và sự thực hiện sản xuất sạch hơn, Brastislava-Oslo. [2]. Võ Đại Lược (1998), Chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học - xã hội. [3]. Kenichi Ohno, Nguyễn Văn Thường (2005), Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. [4]. Tran Van Nhan, Heinz Leuenberger(2003), SXSH và kiểm soát ô nhiễm ở Việt Nam, àm xanh hóa các nền kinh tế đang chuyển đổi ở châu Á, Arthur P.J. Mol & Joost C.L. van Buuren, Lexington Books. [5]. Prasad Modak, V. Visvanathan, Mandar Parasnis, Kiểm toán sản xuất sạch hơn, Environmental Reviews, ENSIC, AIT. [6]. Trần Đình Thiên (2002), CNH, HĐH ở Việt Nam, phác thảo lộ trình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7]. Nguyễn Minh Tú, Vũ Xuân Nguyệt Hồng (2001), Chính sách công nghiệp và các công cụ chính 2. UNEP, Sản xuất sạch hơn trên thế giới, Tập II, 1995 [8]. UNEP/NIEM (1998), Các vấn đề sản xuất sạch hơn cho ngành công nghiệp giấy, bột giấy. SUMMARY CLEANER PRODUCTION – A NEW DIRECTION OF INDUSTRY SECTOR IN THAI NGUYEN TOWARD SUSTAINABLE DEVELOPMENT Nguyen Thi Hang  , Nguyen Van Huan College of Information and Communication Technology - TNU To ensure sustainable development, production should be associated with the environment protection cectivities. In the past years, the economy of thainguyen province has developed strongly, it makes Thainguyen to become the modern industrial province before 2020. Along with the increasing of production processes, environmental pollution is the big issue for Thainguyen to resolve. The application of CP (Cleanner Production) in industries already becomes an efficient management tool; and creates the social and environment benefit for industrial firms/ enterprises which are operating in Thainguyen. Key words: Cleaner Production, Sustainability, Environment, Industrial, Pollution.  Tel: 0987 118 078,Email: nthang100483@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_32973_36803_2782012104720sanxuatsachhon_0897_2052594.pdf
Tài liệu liên quan