Sàn giao dịch về chứng khoán
Những nghiên cứu gần đây của các giáo sư tài chính SMUCox Kumar
Venkataraman và Hendrik Bessembinder đưa ra những hiểu biết sâu sắc và
đáng tin cậy vào những khả năng mới.
10 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sàn giao dịch về chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sàn giao dịch
chứng khoán
Lịch sử sàn giao dịch chứng khoán
Trong thế kỷ 12 ở nước Pháp, các courratiers de change lo lắng về việc quản
lý và điều chỉnh các khoản nợ của các phường hội nông nghiệp với ngân
hàng. Bởi vì những người đó giao dịch nợ, nên có thể coi họ là những người
môi giới buôn bán đầu tiên.
Một số nguồn khác cho rằng nguồn gốc của thuật ngữ “bourse” (“thị trường
chứng khoán” trong tiếng Pháp) bắt nguồn từ chữ bursa trong tiếng La tinh,
có nghĩa là một cái túi bởi vì ở thế kỷ 13 tại Bruges, dấu hiệu một cái túi tiền
(hay có lẽ ba cái túi tiền), được treo trước cửa ngôi nhà nơi những nhà buôn
thường tụ họp.
Tuy nhiên, có lẽ giả thuyết chính xác hơn là ở cuối thế kỷ 13, những nhà
buôn hàng hoá ở Bruges đã tụ tập tại ngôi nhà của một người đàn ông tên là
Van der Burse, và năm 1309 họ đã chính thức hoá việc gặp gỡ không nghi
thức đó cho tới tận ngày nay và trở thành "Bruges Bourse". Ý tưởng này
nhanh chóng lan ra quanh vùng Flanders và các tỉnh xung quanh và
"Bourses" nhanh chóng được mở tại Ghent và Amsterdam.
Vào giữa thế kỷ 13, những ông chủ ngân hàng tại Venice bắt đầu mua bán
chứng khoán chính phủ. Năm 1351, Chính phủ Venice đặt ra ngoài vòng
pháp luật những lời đồn thổi với chủ ý làm hạ giá quỹ công trái chính phủ.
Trong thế kỷ 14, người dân ở Pisa, Verona, Genoa và Florence cũng bắt đầu
buôn bán các trái phiếu chính phủ. Điều này chỉ là có thể bởi vì có các thành
bang độc lập không bị cai trị bởi một công tước mà bởi một hội đồng những
công dân có uy tín.
Hà Lan sau này bắt đầu có các công ty cổ phần, cho phép những người giữ cổ
phần đầu tư vào doanh nghiệp kinh doanh và thu được một phần chia từ lợi
nhuận của nó – hay một phần thua lỗ. Năm 1602, Công ty Đông Ấn Hà Lan
phát hành những cổ phần đầu tiên trên Sàn giao dịch chứng khoán
Amsterdam. Đây là công ty đầu tiên phát hành cổ phần và khế ước nợ.
Vai trò của sàn giao dịch chứng khoán
Sàn giao dịch chứng khoán New York
Sàn giao dịch chứng khoán Bombay
Sàn giao dịch chứng khoán Frankfurt
Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo
Sàn giao dịch chứng khoán São Paulo
Huy động các khoản tiết kiệm để đầu tư
Khi mọi người đưa ra những khoản tiết kiệm của mình và đầu tư vào các cổ
phần, việc này dẫn tới sự phân chia hợp lý hơn các nguồn tài nguyên bởi vì
vốn, có thể dùng để tiêu dùng, hay gửi trong các ngân hàng, được huy động
và tái định hướng để thúc đẩy hoạt động kinh doanh mang lại lợi ích cho
nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp, thương mại và công nghiệp,
dẫn tới một sự tăng trưởng kinh tế cao hơn và sức sản xuất ở mức độ lớn hơn.
Tạo thuận lợi cho phát triển công ty
Các công ty coi nguồn vốn thu được là một cơ hội để mở rộng các dây
chuyền sản xuất, tăng thêm các kênh phân phối, ngăn chặn tính bất ổn, tăng
thị phần, hay mua sắm thêm các tài sản khác cần thiết cho kinh doanh. Một
sự bỏ thầu mua lại hay một thoả thuận kết hợp thông qua thị trường chứng
khoán là cách đơn giản nhất để phát triển công ty bằng cách mua lại hay kết
hợp.
Tái phân phối của cải
Bằng cách trao cho mọi người một cơ hội để mua các cổ phần và nhờ đó trở
thành người đồng sở hữu (những người nắm giữ cổ phần) của doanh nghiệp
có thể sinh lời, thị trường chứng khoán giúp làm giảm bất bình đẳng trong thu
nhập. Cả nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và nghiệp dư thông qua sự
tăng trưởng của giá chứng khoán và phân chia cổ tức đều có cơ hội nhận
được phần chia lợi nhận từ công việc kinh doanh đầy hứa hẹn do người khác
lập ra.
Hợp tác quản lý
Bằng cách có được nhiều người sở hữu ở nhiều tầng lớp khác nhau, các công
ty nói chung có khuynh hướng cải thiện các tiêu chuẩn quản lý và hiệu năng
của mình nhằm thoả mãn các yêu cầu của những người nắm giữ cổ phần đó
và việc hợp tác quản lý của mọi người trên thị trường chứng khoán cũng như
của chính phủ càng chặt chẽ hơn. Nhờ vậy, mọi người cho rằng các công ty
công chúng (các công ty được sở hữu bởi các nhà đầu tư nắm giữ cổ phần và
là thành viên tham gia vào các sàn giao dịch chứng khoán công cộng) thường
được quản lý tốt hơn so với các công ty tư nhân (các công ty này không có cổ
phần được giao dịch trên các sàn công cộng, thông thường thuộc sở hữu của
người sáng lập và/hay gia đình hay người thừa kế của họ, hay là bởi một
nhóm các nhà đầu tư nhỏ). Tuy nhiên, một số trường hợp đã cho thấy có lẽ có
những sự chệch hướng lớn trong kiểu hợp tác quản lý tại một số công ty
thuộc sở hữu công cộng (ví dụ Enron Corporation, MCI WorldCom,
Pets.com, Webvan, hay Parmalat).
Tạo các cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư nhỏ
Đối lập với những công việc kinh doanh đòi hỏi tiêu tốn những khoản vốn
lớn, đầu tư vào các cổ phần là cơ hội mở cho cả những nhà đầu tư chứng
khoán lớn và nhỏ bởi vì một người chỉ mua một số cổ phần mà anh ta có khả
năng. Vì thế Sàn giao dịch chứng khoán cung cấp một nguồn thu nhập khác
cho những người có tiền tiết kiệm ở mức độ thấp.
Chính phủ tăng vốn cho những dự án phát triển
Chính phủ hay thậm chí cả các chính quyền địa phương như các chính quyền
thành phố có thể quyết định vay tiền để hỗ trợ tài chính cho những dự án hạ
tầng to lớn như thoát nước và xử lý nước thải hay cung cấp nhà ở bằng cách
bán một kiểu chứng khoán khác được gọi là khế ước nợ. Những khế ước nợ
đó có thể tăng giá thông qua Sàn giao dịch chứng khoán khi các thành viên
công chúng mua nó, nhờ vậy không cần phải đánh thuế quá cao đối với người
dân để có tiền đầu tư phát triển.
Thước đo của nền kinh tế
Tại sàn giao dịch chứng khoán, giá cổ phần lên và xuống phụ thuộc phần lớn
vào thị trường. Giá cổ phần tăng lên hay giữ ổn định khi các công ty và nền
kinh tế nói chung cho thấy những dấu hiệu của sự ổn định. Vì thế sự chuyển
động của giá cổ phần có thể là một đồng hồ báo khuynh hướng chung của
nền kinh tế.
Những yêu cầu niêm yết
Các công ty cần thiết phải đáp ứng được các yêu cầu của sàn giao dịch để có
thể niêm yết và giao dịch cổ phần của mình tại đó. Ví dụ, để được niêm yết
trên Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE), một công ty phải phát
hành ít nhất một triệu cổ phần trị giá tương đương $100 triệu và phải kiếm
được hơn $10 triệu trong vòng 3 năm vừa qua lai ).
Quyền sở hữu
Các sàn giao dịch chứng khoán có nguồn gốc là những tổ chức đa bên, do
chính các thành viên mua bán chứng khoán của nó sở hữu. Gần đây có
khuynh hướng “bỏ đa bên”, các thành viên sẽ bán các cổ phần của họ tại một
đợt phát hành đầu tiên. Theo cách này tổ chức đa bên trở thành một phường
hội, với các cổ phần được niêm yết trên một sàn giao dịch chứng khoán. Các
ví dụ về việc này là Sàn giao dịch chứng khoán Australia (1998), Euronext
(2000), NASDAQ (2002) và Sàn giao dịch chứng khoán New York (2005).
Các kiểu giao dịch khác
Trong thế kỷ 19, các sàn giao dịch cho phép mua bán theo các hợp đồng
trước theo mặt hàng. Giao dịch mua bán qua các hợp đồng trước được gọi là
các hợp đồng tương lai. Những giao dịch hàng hoá này sau này bắt đầu được
thực hiện trên các sản phẩm khác, như các tỷ lệ lãi suất và cổ phần, cũng như
các hợp đồng lựa chọn. Hiện chúng được gọi chung là các hợp đồng tương
lai.
Tương lai của sàn giao dịch chứng khoán
Tương lai của sàn giao dịch chứng khoán là điện tử, hệ thống các chuyên gia
của Sàn giao dịch chứng khoán New York dường như đang chống lại những
kiểu giao dịch mới, Các mạng lưới thông tin điện tử, hay ECNs. ECNs ca
ngợi tốc độ xử lý những khối lượng trao đổi lớn của họ, trong khi hệ thống
các chuyên gia đề xướng vai trò của các chuyên gia trong việc giữ trật tự của
các thị trường, đặc biệt ở các điều kiện lạ thường hay các kiểu lệnh đặc biệt.
Các mạng lưới thông tin điện tử gồm một mạng lưới lợi nhuận quyền lợi đặc
biệt với chi phí của các nhà đầu tư từ thậm chí là những giao dịch thương mại
trao đổi trực tiếp nhỏ nhất. Mặt khác, các hệ thống dựa trên máy móc được
cho là hiệu quả hơn và cải thiện được bộ máy thừa hành truyền thống và hạn
chế yêu cầu đàm phán qua trung gian.
Về lịch sử, 'thị trường' (như đã được ghi chú, gồm toàn bộ mua bán cổ phần
trên mọi giao dịch) đã chậm chạp trong việc phản ứng với cuộc cách mạng
công nghệ. Sự thay đổi sang thương mại hoàn toàn điện tử có thể làm xói
mòn/hạn chế lợi nhuận thương mại của những sàn giao dịch bằng chuyên gia
và những “thương nhân trên tầng” của NYSE.
"Tôi sẽ nói rõ ràng rằng các mạng lưới thông tin điện tử (ECNs) đang chiến
thắng," William Lupien người sáng lập Instinet hệ thống giao dịch và
OptiMark hệ thống đã tuyên bố. "Mọi thứ đang diễn ra một cách tồi tệ thật
nhanh chóng khi bạn đạt tới điểm chóp."
Quốc hội đã uỷ nhiệm việc thành lập một hệ thống thị trường multiple chứng
khoán quốc gia năm 1975. Từ đó, ‘các hệ thống thông tin điện tử’ đã phát
triển nhanh chóng.
Khi thực hiện các giao dịch lớn với tốc độ ánh sáng, các hệ thống điện tử làm
giảm khả năng chạy trước (front running), hay trao đổi trước khi có lệnh của
khách hàng, một hành vi bất hợp pháp mà nhiều nhà môi giới trên sàn NYSE
đã bị điều tra và phạt nặng trong những năm gần đây. Khi hoạt động dưới hệ
thống giám sát của các chuyên gia, nếu trên thị trường có một trao đổi lớn
dưới một cái tên, những người mua khác ngay lập tức có thể kiểm tra để biết
nhà giao dịch dưới cái tên đó ở tầm cỡ nào, và dự đoán ra nguyên nhân tại
sao anh/chị ta lại ra quyết định mua hay bán. Đó là cách Thị trường dự đoán
hoạt động của giá.
ECNs đã thay đổi quá trình giao dịch chứng khoán thông thường (giống như
những dịch vụ môi giới trước chúng) thành một hình thức kinh doanh kiểu
hàng hoá (commodity-type business). ECNs có thể điều chỉnh sự công bằng
của initial public offerings (IPOs), giám sát Hambrecht's OpenIPO process,
hay đánh giá hiệu quả của nghiên cứu chứng khoán và sử dụng phí giao dịch
để trợ cấp cho những cuộc nghiên cứu mức độ nhỏ và vừa.
Tuy nhiên, một số người tin rằng cách tốt nhất là phối hợp ưu điểm của công
nghệ và con người – nói cách khác một kiểu lai.
Trao đổi 25.000 cổ phiếu trong cổ phần của Lucent (định giá gần đây: $2.80;
số lượng gần đây: 49.069.700) là một giao dịch khá đơn giản đối với thương
mại điện tử; trao đổi 100 cổ phiếu thuộc cổ phần Hạng A của Berkshire
Hathaway (định giá gần đây: $88.710,00; số lượng gần đây: 450) thì có lẽ
không được như vậy. Sự lựa chọn hệ thống cần phải rõ ràng (nhưng luôn
thuộc quyền của người giao dịch), dựa trên những đặc trưng riêng của loại
chứng khoán được trao đổi.
Thậm chí khi ECNs đang trở nên một phần trọng yếu của hệ thống thị trường
quốc gia, các cơ hội kiếm lời có lẽ vẫn là ở sự chênh lệch giữa giá đặt và giá
chào. Điều này đặc biệt chính xác đối với những giám đốc đầu tư điều hành
các khoản giao dịch lớn, và sở hữu một số tiền góp vốn trong một ECN hay
một công ty chuyên nghiệp. Ví dụ, trong các tài khoản môi giới chứng khoán
của mình, “Các khoản đầu tư chính xác chiếm tới 29% các lệnh hữu danh
trong các cổ phần được niêm yết ở NYSE, và 37% trong số các lệnh hữu
danh trên Sàn giao dịch chứng khoán Boston, nơi có sự giám sát chung của
các chuyên gia.
Nói một cách chính xác, những giao dịch đó được quản lý bởi những đội môi
giới “quản lý dòng lệnh” riêng biệt, những người tìm cách có được khả năng
thực hiện tốt nhất có thể cho khách hàng và việc thực hiện phải có tỷ suất lợi
nhuận cao.
Thị trường thứ cấp
Những nghiên cứu gần đây của các giáo sư tài chính SMUCox Kumar
Venkataraman và Hendrik Bessembinder đưa ra những hiểu biết sâu sắc và
đáng tin cậy vào những khả năng mới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quantri_kidoanh_53__8315.pdf