Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Cho vay hợp vốn hay còn gọi là đồng tài trợ là quá trình cho vay, bảo lãnh
của mộ nhóm ngân hàng thương mại làm đầu mối phối hợp với các bên tài
trợ để thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng.
12 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 3343 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Rủi ro tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường
Tóm tắt
Rủi ro tín dụng của nhtm trong nền kinh tế thị trường
Tác giả
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh càng quyết liệt, nguy cơ rủi ro trong
kinh doanh ngân hàng càng rễ phát sinh. Mặc dù rủi ro luôn sảy ra nhưng
hoạt động của ngân hàng vẫn luôn phát triển và ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế mỗi nước.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Hoạt động của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường là một
hoạt động rất nhạy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế xã hội đèu nhanh
chóng tác động đến hoạt động ngân hàng.
Rủi ro là sự kiện xẩy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu như hoạt động nào của ngân hàng thương
mại cũng có rủi ro. Rủi ro thường dẫn đến thiệt hại và thua lỗ. Do vậy nhận
thức rõ rủi ro, đề ra những biện pháp phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp
nhất rủi ro luôn là vấn đề cấp bách của mỗi ngân hàng.
Khi xem xét rủi ro, người ta thường chú ý đến yếu tố chi phí, tổn thất và thua
lỗ. Cụ thể:
- Chi phí: Chi phí hoạt động của ngân hàng là yếu tố không thể thiếu để thực
thi các nghiệp vụ. Các chi phí cho hoạt động của ngân hàng thường bao gồm;
Chi phí trả lãi xuất cho người gửi tiền, lãi tiền vay cho các tổ chức tín dụng,
tiền lương của cán bộ ngân hàng, chi phí mua sắm các phương tiện làm việc
và chi phí nghiệp vụ khác. Rủi ro có thể xảy ra dưới các dạng như phải nâng
cao lãi xuất tiền gửi do sự biến động của thị trường tiền tệ, tăng lãi xuất cho
vay của các tổ chức tín dụng, các khoản chi phí ảnh hướng trực tiếp đến hoạt
động của ngân hàng, bắt buộc ngân hàng phải thực hiện một số biện pháp phù
hợp
- Về thua lỗ: Sự thua lỗ biểu hiện dưới hình thức không đạt được thu nhập
như dự kiến hay chi vượt dự toán mà thu nhập không thể bù đắp được.
- Về tổn thất: Sự tổn thất của ngân hàng có thể hiểu là thiệt hại về vật chất và
uy danh của ngân hàng. Tổn thất là chỉ tiêu đặc trưng cho các rủi ro của ngân
hàng nên nó được dùng để đánh giá mức độ rủi ro và chất lượng của chiến
lược trong lĩnh vực rủi ro.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh Ngân hàng
nói riêng không thể tránh khỏi rủi ro. Đối với một ngân hàng, việc kiểm soát
rủi ro là quá trình phối hợp giữa những hoạt động nghiệp vụ, giữa những
chính sách nội bộ, giữa những thoả thuận hợp đồng với các cơ quan bảo
hiểm. Cũng như tiến hành các biện pháp tự bảo hiểm và các biện pháp khác
để giảm bớt đi các chi phí, các thiệt hại bất ngờ, kể cả vào lẩn tránh sợ phá
sản của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng và hậu quả của rủi ro tín dụng
Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro do 1 hoặc một nhóm khách hàng không thực hiện
được các nghĩa vụ tài chính với ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất, thường
xuyên sảy ra và thường gây hậu quả nặng nề nhất. Rủi ro tín dụng xảy ra ở cả
hai khâu huy động vốn và cho vay vốn.
- Rủi ro ở khâu huy động vốn: ở khâu này thường xảy ra một trong hai trường
hợp, thừa hoặc thiếu vốn.
Trường hợp thừa vốn tức là vốn bị ứ đọng không cho vay và đầu tư được, vì
vậy không sinh lãi trong khi có ngân hàng vẫn phải trả lãi hàng ngày cho
người có tiền gửi vào ngân hàng.
Trường hợp rủi ro thiếu vốn sảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được các
nhu cầu do vay đầu tư, nhu cầu thanh toán của khách hàng.
- Rủi ro ở khâu cho vay: Hoạt động cho vay là hoạt động lớn nhất và chủ yếu
của ngân hàng thương mại, thông thường ở các nghiệp vụ này mang lại 2 / 3
thu nhập cho ngân hàng còn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thu nhập từ
hoạt động tín dụng mang lại thường chiếm 90% tổng thu nhập của mỗi ngân
hàng. Nhưng trong lĩnh vực này cũng chứa nhiều rủi ro bởi các khoản tiền
vay bao giờ cũng có xác xuất vỡ nợ cao hơn với những tài sản có khác.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa nó rất khó
khăn, nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Rủi ro tín dụng nếu không
được phát hiện và sử lý kịp thời sẽ nảy sinh các rủi ro khác.
Hậu quả của rủi ro tín dụng.
Từ khái niệm về rủi ro tín dụng ta thấy rằng rủi ro tín dụng là kết quả của mối
quan hệ tín dụng không hoàn hảo, vi phạm các đặc trưng cơ bản của tín dụng
là sự hoàn trả và tính thời hạn, gây nên sự đổ vỡ lòng tin của người cấp tín
dụng với người nhận tín dụng. Về bản chất, đây là loại rủi ro đa dạng và phức
tạp, rất khó quản lý và thường xuyên là nguyên nhân dẫn đến rủi ro khác, rủi
ro tín dụng của một ngân hàng thể hiện ra bên ngoài chính là khối lượng nợ
quá hạn mà ngân hàng đó phải gánh chịu.
Khi rủi ro tín dụng nảy sinh, tuỳ theo mức độ mà nó gây ra những tác hại
nghiêm trọng không chỉ với hệ thống ngân hàng, với người vay và còn cả với
nền kinh tế và xã hội.
Trước hết, đối với ngân hàng thương mại. ở mức độ thấp rủi ro tín dụng là
mất đi cơ hội, khả năng tích luỹ vốn, làm giảm sức mạnh của ngân hàng.
Đối với người đi vay. Thông thường rủi ro tín dụng là hệ quả của rủi ro kinh
doanh của khách hàng. Với nợ quá hạn người đi vay hoàn toàn mất nguồn tài
trợ từ các ngân hàng, cơ hội kinh doanh sẽ tuột mất, tài sản sẽ bị tịch thu hoặc
phát mại, người đi vay sẽ đứng trước nguy cơ phá sản.
Đối với nền kinh tế xã hội. Rủi ro tín dụng chứng tỏ người vay vốn đã không
thực hiện được hiệu quả đầu tư như đặt ra khi vay vốn tín dụng từ ngân hàng
thương mại. Do đó lợi ích kinh tế xã hội dự kiến nhận được đã không có. sản
xuất và lưu thông hàng hoá sẽ đình trệ, chức năng làm công cụ điều tiết nền
kinh tế sẽ bị suy yếu. Quyền lợi của người gửi tiền sẽ không được đảm bảo.
Lịch sử hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thế giới đã chứng kiến
không ít các Ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không giới
hạn trong một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực thậm chí là
cả châu lục.
Biểu hiện của rủi ro tín dụng và nguyên nhân của nó
Biểu hiện của rủi ro tín dụng
Khi tiến hành cấp tín dụng các ngân hàng thương mại đều mong muốn khoản
tín dụng được hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn như đã thoả thuận. Chính vì
thế, sau khi cấp tín dụng cho khách hàng NHTM thực hiện theo dõi, giám sát
việc sử dụng vốn vay của họ. Nếu thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích
hoặc có sự khác thường có thể dán đến việc không hoàn trả được vốn vay của
khách hàng, NHTM phải tìm biện pháp ngăn ngừa, can thiệp kịp thời. Các
biểu hiện thường gặp là:
- Khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính hoặc không cung cấp được
những thông tin mà ngân hàng yêu cầu.
- Sử dụng tín dụng sai mục đích ban đầu
- Số tiền gửi giảm sút.
Lưỡng lự chậm chễ khi dàn xếp những cuộc viếng thăm cơ sở sản xuất kinh
doanh của cán bộ ngân hàng, có sự suy giảm trong bầu không khí tin cậy và
hợp tác, có sự lạnh nhạt với ngân hàng ngay sau khi nhận được vốn vay.
- Khách hàng có ý xin hoãn nợ hoặc khất nợ, gia hạn nợ, chậm chễ trong việc
thanh toán lãi hàng kỳ, hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá kỳ hạn,
không được trả như cam kết.
Các dấu hiệu trên đây là biểu hiện của những khó khăn về mặt tài chính từ
phía người đi này, các dấu hiệu này xuất hiện là có khả năng khách hàng khó
hoàn trả các món vay. Vì vậy, chúng là cơ sở để ngân hàng tìm hiểu biện
pháp điều chỉnh và ngăn chặn kịp thời, tránh những khoản nợ quá hạn có thể
gây rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Nguyên nhân gây ra rủi ro trong kinh doanh tín dụng có rất nhiều, rất đa
dạng, muôn hình muôn vẻ, song nhìn chung chúng được xếp vào các loại
chính như sau:
Nguyên nhân chung
Rủi ro bất khả kháng. Do sự biến động về kinh tế, do thiên tai bão lụt, chiến
tranh ...
Do sự không cân xứng về thông tin, ngân hàng không được cung cấp các
thông tin cần thiết về khách hàng dẫn đến:
- Sự lựa chọn đối nghịch: Tức ngân hàng quyết định cho vay với khách hàng
không đủ khả năng trả nợ.
- Rủi ro đạo đức. Khách hàng có những hành động vi phạm những thoả
thuận với ngân hàng như khách hàng sử dụng tiền vay sai mục đích.
- Do sự thay đổi về chính sách của Nhà nước. Các chính sách về ngoại tệ,
xuất nhập khẩu, ngoại hối.
- Do sự thay đổi về chính trị.
- Môi trường pháp lý. Không đồng bộ, không đầy đủ, việc thực thi pháp luật
còn chưa nghiêm.
Nguyên nhân từ phía khách hàng
- Đối với khách hàng là cá nhân:
Người vay bị thất nghiệp (có thể tạm thời hay kéo dài) dẫn đến không có thu
nhập và không đảm bảo được khả năng trả nợ.
Do những biến cố bất thường trong cuộc sống gây khó khăn cho khách hàng
như: ốm đau, tai nạn, chết, li dị...
Do người vay hoạch định ngân quỹ không chính xác
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp thì trong hoạt động của doanh nghiệp
có nhiều mối quan hệ như quan hệ với người cung cấp, với người tiêu thụ,
với ngân hàng ...
Rủi ro do thị trường cung cấp:
Do thị trường cung cấp không có khả năng cung cấp đủ số lượng nguyên vật
liệu mà doanh nghiệp yêu cầu.
Thiệt hại về giá cả, khi giá cả nguyên vật liệu cung cấp cho doanh nghiệp
không đáp ứng về các yêu cầu, phẩm chất, quy cách.
Rủi ro do thị trường tiêu thụ:
Sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra có số lượng quá lớn vượt nhu cầu thị
trường (Do khâu nghiên cứu thị trường thực hiện chưa tốt) nên số lượng
hàng hoá lớn làm ứ đọng sản phẩm trong kho...;
Thiệt hại về giá: Doanh nghiệp buộc phải giảm giá bán sản phẩm hàng hoá
thấp hơn mức giá dự kiến ban đầu.
Thiệt hại về chất lượng sản phẩm hàng hoá do doanh nghiệp cung cấp không
đáp ứng được yêu cầu thị trường. Do công nghệ không phù hợp, do khâu bảo
quản không tốt, do hao mòn vô hình, do người tiêu dùng thay đổi thị hiếu làm
cho sản phẩm không bán được, hoặc khó bán. Vì thế doanh nghiệp khó có
khả năng trả nợ.
+ Rủi ro do yếu kém về tài chính: thể hiện doanh nghiệp không thể đối phó
với các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi tiền vay cho chủ nợ.
c. Nguyên nhân rủi ro do bản thân ngân hàng.
Do chính sách vay của ngân hàng không hợp lý, quá chú trọng về mục tiêu
lợi nhuận nên bỏ qua những khoản cho vay lành mạnh.
Do ngân hàng không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không chính xác việc
phân tích đánh giá khả năng tín dụng của người vay. Do cán bộ tín dụng
thiếu trình độ chuyên môn cần thiết, do cán bộ tín dụng thiếu tinh thần trách
nhiệm.
Ngân hàng đã quyết định cho vay chỉ dựa trên cơ sở quy mô hoạt động của
doanh nghiệp mà không căn cứ vào khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Do ngân hàng không thường xuyên thực hiện việc kiểm tra giám sát khách
hàng trong quá trình sử dụng tiền vay.
Cán bộ tín dụng có tư cách phẩm chất không tốt cố tình làm sai nguyên tắc
trong quá trình thực hiện cho vay.
Nguyên nhân rủi ro trong việc thực hiện các đảm bảo tín dụng:
- Do ngân hàng thực hiện không tốt việc đánh giá, đảm bảo tín dụng, thực
hiện không đầy đủ theo các quy định của pháp luật (tài sản có đủ điều kiện
pháp lý, phải có tính thị trường, có giá trị ổn định)
- Do giá trị của tài sản biến động giảm quá mức dựkiến của ngân hàng.
Các nghiệp vụ phòng chống rủi ro tín dụng
Phân tích khách hàng:
Đây là biện pháp tích cực nhất nhằm hạnc hế và phòng chống rủi ro. Bởi có
đánh giá đúng khách hàng thì mới biết được khả năng hàon trả nợ của họ.
Đánh giá khách hàng thường dựa vào các mặt sau:
- Đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.
- Đánh giá tư cách, năng lực và trình độ hiểu biết của người đứng đầu doanh
nghiệp.
- Đánh giá tính khả thi của phương án xin vay
- Phân tích khả năng trả nợ của khách hàng
- Thực hiện các biện pháp đảm bảo tiền vay
- Trình độ cán bộ tín dụng và khả năng kiểm tra, kiểm soát khách hàng trong
việc sử dụng vốn vay.
Phân tán rủi ro:
Trong cơ chế thị trường , ngân hàng thương mại không nên dồn vốn đầu tư
vào một hoặc vài khách hàng, cho dù khách hàng đó kinh doanh có hiệu quả,
Bởi vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động của NHTM. Vì vậy cần phải tổng trọng giới hạn an toàn,
ở khắp các nước người ta đều quy định giới hạn an toàn ở Việt Nam, căn cứ
vào luật ở các tổ chứcc tín dụng từ 01/10/1998 quy định: "Dư nợ một khách
hàng không được vượt quá 15% vốn của ngân hàng". "Tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu được xác định bằng tỷ lệ giữa vốn tự có với tài sản có, kể cả các cam
kết ngoại bang được điều chỉnh theo mức độ rủi ro"
Cho vay hợp vốn hay còn gọi là đồng tài trợ là quá trình cho vay, bảo lãnh
của mộ nhóm ngân hàng thương mại làm đầu mối phối hợp với các bên tài
trợ để thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng.
Bảo hiểm tín dụng.
Bảo hiểm tín dụng là biện pháp quan trọng nhằm san sẻ rủi ro. Bảo hiểu tín
dụng có thể thực hiện dưới các loại như: Bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay. ở các nước, bảo hiểm tín dụng thường được
thực hiện dưới dạng khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm
cho ngành nghề mà họ kinh doanh.
Trích lập dự phòng rủi ro.
Trích lập dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng
để phòng chống rủi ro. ở hầu hết các nước trong hoạt động của ngân hàng
đều thành lập quỹ dự phòng bù đắp các khoản cho vay bị rủi ro và quỹ dự
phòng rủi ro trong hoạt động của ngân hàng.
Quỹ dự phòng rủi ro được sử dụng để bù đắp các khoản rủi ro khi ngân hàng
làm ăn thua lỗ do nguyên nhân khách quan mang lại.
Luật các tổ chức tín dụng (điều 82. Dự phòng rủi ro) có quy định: "tổ chức
tín dụng phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng; Khoản dự phòng
rủi ro này phải được hoạch toán vào chi phí hoạt động; Việc phân loại tài
sản có mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng và sử dụng khoản dự
phòng để sử lý các rủi ro do thống đốc ngân hàng Nhà nước quy định sau khi
thống nhất với bộ trưởng tài chính".
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- rui_ro_tin_dung_cua_nhtm_trong_nen_kinh_te_thi_truong_1868.pdf