Rủi ro hệ thống ngân hàng ở Việt Nam xu hướng gần đây và triển vọng diễn biến

1. MộT Hệ THốNG NGÂN HÀNG ĐANG TRONG GIAI ĐOạN CHUYểN ĐổI VÀ CÓ MứC Độ KHÔNG MINH BạCH RấT CAO .3 1.1. QUÁ TRÌNH CHUYểN ĐổI VÀ CÁC THÁCH THứC .3 1.2. RấT KHÓ ĐÁNH GIÁ Về TÌNH HÌNH TổNG KếT TÀI SảN CủA Hệ THốNG NGÂN HÀNG .5 1.2.1. Không có thông tin chắc chắn về mức độ vốn hóa .5 1.2.2. Không có thông tin chắc chắn về chất lượng tài sản và dự phòng 5 2. Hệ THốNG NGÂN HÀNG VÀ CHU TRÌNH TÀI CHÍNH .7 2.1. CÁC BƯớC TRÌNH Tự CủA KHủNG HOảNG CHÂU Á VÀ KHÁI NIệM HƯNG PHấN TÀI CHÍNH CủA F. MISHKIN .7 2.2. LUồNG VốN VÀO, CHU TRÌNH TÍN DụNG VÀ GIÁ TÀI SảN ở VIệT NAM .9 2.3. XU THế ĐÔ LA HÓA : MộT RủI RO TIềM TÀNG NHƯNG HIệN VẫN HạN CHế ĐƯợC 11 3. NHữNG DIễN BIếN CÓ THể Dự ĐOÁN 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO .16

pdf16 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2009 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rủi ro hệ thống ngân hàng ở Việt Nam xu hướng gần đây và triển vọng diễn biến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHÓA HỌP LẦN THỨ BẨY KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO Rủi ro hệ thống ngân hàng ở Việt Nam xu hướng gần đây và triển vọng diễn biến François-Xavier Béllocq Cơ quan Phát triển Pháp Đà Nẵng, ngày 26 và 27 tháng 2 năm 2008 NGHIÊN CỨU Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] Mục lục Rủi ro hệ thống ngân hàng ở Việt Nam xu hướng gần đây và triển vọng diễn biến 1. MộT Hệ THốNG NGÂN HÀNG ĐANG TRONG GIAI ĐOạN CHUYểN ĐổI VÀ CÓ MứC Độ KHÔNG MINH BạCH RấT CAO ...................................................................3 1.1. QUÁ TRÌNH CHUYểN ĐổI VÀ CÁC THÁCH THứC...........................................................3 1.2. RấT KHÓ ĐÁNH GIÁ Về TÌNH HÌNH TổNG KếT TÀI SảN CủA Hệ THốNG NGÂN HÀNG ...........5 1.2.1. Không có thông tin chắc chắn về mức độ vốn hóa .....................................5 1.2.2. Không có thông tin chắc chắn về chất lượng tài sản và dự phòng..............5 2. Hệ THốNG NGÂN HÀNG VÀ CHU TRÌNH TÀI CHÍNH...........................................7 2.1. CÁC BƯớC TRÌNH Tự CủA KHủNG HOảNG CHÂU Á VÀ KHÁI NIệM HƯNG PHấN TÀI CHÍNH CủA F. MISHKIN...........................................................................................................7 2.2. LUồNG VốN VÀO, CHU TRÌNH TÍN DụNG VÀ GIÁ TÀI SảN ở VIệT NAM .............................9 2.3. XU THế ĐÔ LA HÓA : MộT RủI RO TIềM TÀNG NHƯNG HIệN VẫN HạN CHế ĐƯợC ............11 3. NHữNG DIễN BIếN CÓ THể Dự ĐOÁN................................................................14 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................16 Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 3/16 Mục tiêu của bài viết này là giới thiệu một phân tích về rủi ro hệ thống ở Việt Nam trên cơ sở dựa trên kiến thức lý thuyết được phát triển trong lĩnh vực tài chính vĩ mô từ cuối những năm 90. Định hướng này cho phép chúng ta có cái nhìn tổng thể về các thách thức lớn mà hệ thống ngân hàng của Việt Nam phải đối mặt với tư cách là một nền kinh tế vừa trong giai đoạn chuyển đổi, vừa thu hẹp khoảng cách rất nhanh với các nền kinh tế khác và đang trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong khuôn khổ này, phần đầu của bài viết được dành để giới thiệu hai đặc tính chủ yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam : thứ nhất là quá trình từng bước tiến hành tự do hóa và thứ hai là tính chất không minh bạch của hệ thống này. Trong phần hai, chúng tôi đi vào phân tích các rủi ro xuất phát từ chu trình tài chính và tình trạng đô la hóa bảng tổng kết tài sản. Cuối cùng, phần ba sẽ đưa ra suy nghĩ về khả năng diễn biến phát triển của hệ thống ngân hàng dựa trên 3 kịch bản. 1. Một hệ thống ngân hàng đang trong giai đoạn chuyển đổi và có mức độ không minh bạch rất cao 1.1. Quá trình chuyển đổi và các thách thức Trong những năm 80, hệ thống ngân hàng của Việt Nam được tổ chức theo mô hình ngân hàng đơn cấp (one-tier system) trong đó Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng duy nhất của đất nước, đóng vai trò kiểm soát cả về khối lượng, chi phí và hoạt động phân bổ tín dụng cho các lĩnh vực. Vốn là đặc trưng của hệ thống ngân hàng hoàn toàn được đặt dưới sự chỉ huy bằng mệnh lệnh hành chính của các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, mô hình này đã bắt đầu được cải cách kể từ năm 1990 với sự hình thành của một hệ thống ngân hàng hai cấp (two- tier system). Điều này đã làm thay đổi hoàn toàn cơ cấu tổ chức của lĩnh vực ngân hàng. Theo phương thức tổ chức mới, ngân hàng trung ương có nhiệm vụ điều tiết hệ thống tài chính trong khi đó các ngân hàng cấp 2 có vai trò xác định khối lượng và phân bổ tín dụng cho các lĩnh vực khác nhau. Các ngân hàng thương mại được thành lập trong khuôn khổ hệ thống hai cấp bao gồm bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn và một ngân hàng thương mại Nhà nước với qui mô nhỏ hơn (State Owned Commercial Banks hay SOCB), hiện đang chiếm vị trí chủ đạo trên thị trường, ngoài ra còn có khoảng 40 ngân hàng do tư nhân nắm một phần vốn (Ngân hàng cổ phần) và rất nhiều các quỹ tín dụng nhân dân (People’s Credit Funds). Kể từ đầu những năm 2000, Hiệp định thương mại Việt Mỹ (2001) và sau đó là việc gia nhập vào WTO (bắt đầu có hiệu lực từ năm 2007) đã cho phép bước sang một giai đoạn mới trong quá trình cải cách. Thực vậy, tự do hóa hệ thống ngân hàng tới năm 2010 là một cam kết do chính phủ Việt Nam đưa ra trong khuôn khổ Hiệp định thương mại Việt Mỹ, cam kết này sau đó đã được áp dụng đối với tất cả các quốc gia thành viên của WTO theo qui định của điều khoản tối huệ quốc. Như vậy, giai đoạn cải cách mới này có thể sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng quốc tế có mức tham gia mạnh hơn trong cơ cấu vốn của các ngân hàng Việt Nam (các ngân hàng nước ngoài hiện có khả năng- theo qui định của hiệp định- mở các chi nhánh với 100% vốn do mình kiểm soát ngay từ năm 2007). Giai đoạn cải cách mới đã được văn bản hóa trong một văn kiện khung – văn kiện này còn được gọi là lộ trình – do thủ tướng Việt Nam ký ngày 24 tháng 5 năm 2006. Dự kiến sẽ còn nhiều thay đổi lớn từ nay tới năm 2010 : cải cách ngân hàng Nhà nước Việt Nam và công tác giám sát ngân hàng (với việc từng bước triển khai các tiêu chí cẩn trọng của Hiệp định Basel I và sau đó là Basel II) ; cổ phần hóa một phần ngân hàng thương mại Nhà nước SOCB (equitization) ; sau đó, mở cửa lĩnh vực ngân hàng ở một mức độ lớn hơn cho các ngân hàng nước ngoài tham gia (hiện nay ngân hàng nước ngoài được tham gia vào vốn của các ngân hàng đã được cổ phần hóa ở mức 30% đối với nhóm ngân hàng và 15% đối với một ngân hàng nước ngoài). Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 4/16 Cuộc cải cách này sẽ có những hệ quả rất lớn đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh bởi Nhà nước đang thu hút các ngân hàng quốc tế tham gia góp vốn vào các ngân hàng trên nhằm cân đối bảng tổng kết tài sản cũng như tăng cường phương pháp quản lý của các ngân hàng này (mô hình cải cách này tương đối giống với cải cách được thực hiện ỏ Trung Quốc từ vài năm nay). Trong khuôn khổ đó, Nhà nước đang nỗ lực làm sạch bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng quốc doanh nhằm tiến tới tư nhân hóa từng bước. Nhiều đợt bơm vốn đã được thực hiện từ đầu những năm 2000 trong khi đó các nghiệp vụ chuyển đổi nợ (defeasance structure) đã được sử dụng nhằm đưa ra ngoài bảng tổng kết tài sản các khoản nợ xấu. Song song với việc hình thành của một hệ thống ngân hàng hai cấp, mục tiêu là tạo điều kiện tăng vốn tư nhân trong cơ cấu vốn của khu vực ngân hàng. Việc tự do hóa lãi suất và quyết tâm phát triển thị trường tài chính cho thấy tinh thần của các cuộc cải cách được triển khai từ khoảng 15 năm nay là đoạn tuyệt với cơ chế áp chế tài chính. Áp chế tài chính là một khái niệm lý thuyết dùng để chỉ tất cả các hình thức kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp mà Nhà nước tiến hành đối với hệ thống tài chính. Các hoạt động kiểm soát này có thể được thực hiện dưới các hình thức khác nhau : tỷ trọng áp đảo của vốn Nhà nước trong cơ cấu vốn của hệ thống ngân hàng ; ấn định lãi suất theo cơ chế mệnh lệnh hành chính (điều này nhìn chung dẫn tới tình trạng lãi suất thực thường rất thấp hoặc xuống mức âm) ; qui định hạn mức tín dụng ; và trong một số trường hợp qui định duy trì dự trữ bắt buộc ở mức cao nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách Nhà nước. Về phương diện này, hướng đi của Việt Nam hiện nay cũng tương tự như xu hướng cải cách của nhiều nước đang phát triển trong những năm 80 và 90 sau nhiều lời chỉ trích rất mạnh trên phương diện lý thuyết do McKinnon và Shaw1 đưa ra đối với các nguyên tắc của cơ chế áp chế tài chính. Hai tác giả trên nhấn mạnh rằng việc tổ chức hệ thống tài chính theo mệnh lệnh hành chính sẽ làm cho hệ thống này có nhiều cấu phần không phát huy được hiệu quả tối ưu : các kênh huy động tiết kiệm thường kém phát triển và tiết kiệm có hiệu suất sinh lời thấp, thậm chí là âm ; khối lượng đầu tư giảm do nguồn vốn khả dụng không dồi dào (nói cách khác, các ngân hàng chỉ có vai trò trung gian tài chính ở mức độ rất thấp) ; chất lượng đầu tư bị ảnh hưởng do mức độ chấp nhận rủi ro thấp hơn (trong một môi trường mà nguồn vốn bị hạn chế và do không có khả năng chấp nhận đầy đủ chi phí rủi ro, các ngân hàng thường ưu tiên cho các doanh nghiệp chắc chắn nhất vay vốn). Trái lại, các mô hình của McKinnon và Shaw đã chỉ ra rằng tự do hóa tài chính sẽ cho phép tăng tiết kiệm nội địa và lượng tín dụng trên cơ sở đa dạng hóa các dự án được vay vốn. Trên thực tế, cải cách ngân hàng ở Việt Nam hiện dẫn tới tình hình tín dụng ngân hàng phát triển rất nhanh (xem phần 2 của bài viết). Tình hình trên cho thấy những thách thức mà hệ thống ngân hàng phải đối mặt : đó là duy trì được khả năng kiểm soát cải cách khi tiến hành tự do hóa tài chính, đồng thời xây dựng các cơ chế công cụ chính cho công tác điều tiết quá trình huy động tài chính cho một nền kinh tế thị trường, trong khi tín dụng lại có tốc độ tăng trưởng cực kỳ nhanh. Trong trường hợp này, rủi ro tiềm tàng sẽ là tự do hóa sẽ làm cơ cấu tài chính thay đổi nhanh hơn khả năng thích ứng của chính sách công về vấn đề cẩn trọng, cả trên cấp độ thông qua các văn bản có tính ràng buộc hơn lẫn việc triển khai các văn bản đó trên thực tế. Xét từ kinh nghiệm lịch sử tài chính của các nước đang phát triển, đó thực sự là một rủi ro lớn. Thực vậy, quá trình quá độ từ cơ chế áp chế sang tự do hóa tài chính là một giai đoạn có nhiều nguy cơ tiềm tàng và đôi khi dẫn tới khủng hoảng tài chính tại một số nước đang phát triển kể từ những năm 802. Nói cách khác, sự phát triển nhanh của hệ thống ngân hàng vốn có phương thức tổ chức đang trong quá trình chuyển đổi đòi hỏi ta càng phải 1 R. McKinnon (1973), Money and capital in economic development, The Brookings Institution, Washington. E. Shaw (1973), Financial deepening in economic development, Oxford University Press, New York. 2 C. Diaz-Alejandro (1985), “Good-bye financial repression, hello financial crash”, trong Journal of Development Economics, 19. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 5/16 xây dựng một hệ thống điều tiết phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng mạnh và đang trong quá trình hội nhập từng bước vào nền tài chính thế giới. Chúng tôi sẽ quay lại điểm quan trọng này trong phần 2 của bài viết này. 1.2. Rất khó đánh giá về tình hình tổng kết tài sản của hệ thống ngân hàng Di sản của cơ chế áp chế tài chính mà lộ trình đang tiến hành cải cách, tính minh bạch của hệ thống tài chính Việt Nam hiện còn rất nhiều hạn chế. Thực vậy, hiện không thể đánh giá đầy đủ về tình hình tài sản của khu vực ngân hàng do thiếu thông tin về các chỉ số cho phép phân tích được rủi ro hệ thống như : mức độ vốn hóa, chất lượng tài sản có, dự phòng, thanh khoản, cân bằng bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ, tỷ suất sinh lời. Việc thiếu thông tin chắc chắn về mức độ vốn hóa và chất lượng của tài sản hiện là một trở ngại cho việc tiến hành đánh giá tình hình một cách đầy đủ do hai yếu tố phân tích trên cho phép đánh giá được tình hình căng thẳng có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng của các nước mới nổi, 1.2.1. Không có thông tin chắc chắn về mức độ vốn hóa Các thông tin hiện có không cho phép đánh giá chính xác hệ số đủ vốn của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, các chuyên gia đều nhất trí cho rằng các ngân hàng Việt Nam nhìn chung hiện chưa đủ vốn, bản thân Ngân hàng Nhà nước cũng có mục tiêu tăng lượng vốn tối thiểu. Năm 2004, bộ phận chuyên môn của IMF đã đánh giá rằng nhu cầu vốn của khu vực ngân hàng sẽ vào khoảng từ 15% tới 25% GDP3. Việc Nhà nước tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh, nhằm tiến tới tư nhân hóa một phần (cổ phần hóa) các ngân hàng này, cũng như việc vốn nước ngoài tăng mạnh trong một số ngân hàng cổ phần có thể đã cho phép nâng cao mức độ vốn hóa của khu vực ngân hàng song mức độ vốn hóa này hiện vẫn còn thấp nếu xét tới tốc độ tăng trưởng nhanh của tín dụng và nguy cơ mất ổn định gắn liền với các nền kinh tế đang nổi có tốc độ tăng trưởng cao. Theo đánh giá do Fitch thực hiện vào năm 20064, hệ số đủ vốn (Capital Adequacy Ratio) của Việt Nam ở mức trung bình khoảng 5%, mức này thấp hơn rất nhiều so với mức của các nước châu Á mới nổi khác (14% ở Thái Lan, 13% ở Malaixia, 22% ở Inđônêxia5). Do vẫn còn chịu tác động của chính sách tín dụng theo mệnh lệnh hành chính và cơ chế áp chế tài chính trước đây, kể từ những năm 90, các ngân hàng thương mại quốc doanh đã trải qua nhiều giai đoạn căng thẳng vì thiếu vốn và điều này buộc chính phủ Việt Nam phải nhiều lần tái cấp vốn. Tình hình của các ngân hàng thương mại quốc doanh, vốn chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống ngân hàng khi kiểm soát tới 75% tài sản, như vậy là rất mâu thuẫn. 1.2.2. Không có thông tin chắc chắn về chất lượng tài sản và dự phòng Tính chất mệnh lệnh trong quan hệ tín dụng trước đây (đặc biệt là hoạt động cho vay chính sách) đã cản trở sự phát triển của văn hóa rủi ro trong các tổ chức tín dụng và đặc biệt là trong các ngân hàng quốc doanh. Kết quả là, các ngân hàng quốc doanh hiện tập trung phần lớn các khoản nợ xấu theo thông tin của Ngân hàng Nhà nước. Có lẽ tình hình này đang 3 B. Aitken (2004), “Can Vietnam outgrow its banking sector problems ?”, trong IMF Selected Issues, SM/04/379. 4 I. Tan và P. Tebbutt (2006), “The Vietnam banking system”, trong Fitch Country Report, 24/3.. 5 Dữ liệu lấy từ : IMF (2007), Global Financial Stability Report, tháng 9. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 6/16 từng bước được khắc phục ở cấp độ toàn hệ thống vì hai lý do sau : các ngân hàng cổ phần đang phát triển mạnh trong cơ cấu ngân hàng với một phương thức quản trị gần với các tiêu chuẩn quốc tế hơn nếu ta so sánh các ngân hàng cổ phần với các ngân hàng quốc doanh và kể từ năm 2004, hoạt động cho vay chính sách của các ngân hàng quốc doanh được chuyển cho các định chế tài chính chuyên biệt (Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng chính sách xã hội). Dù có thế nào, văn hóa rủi ro vẫn còn trong thời kỳ đầu phát triển của mình trong khi đó tín dụng vẫn phát với một tốc độ rất cao. Trong bối cảnh đó, việc không thể có được một hình ảnh rõ ràng về chất lượng danh mục nợ và dự phòng khiến ta không thể đưa ra một đánh giá đầy đủ về chất lượng tài sản ngân hàng : nếu tính theo chuẩn kế toán trong nước, tỷ lệ nợ xấu vào khoảng 3% theo ngân hàng Nhà nước ; và con số này sẽ vào khoảng 15% theo đánh giá của Fitch trên cơ sở chuẩn mực IAS (International Accounting Standards)6. 6 I. Tan và P. Tebbutt (2006), “The Vietnam banking system”, trong Fitch Country Report, 24/3. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 7/16 2. Hệ thống ngân hàng và chu trình tài chính 2.1. Các bước trình tự của khủng hoảng châu Á và khái niệm hưng phấn tài chính của F. Mishkin Nhiều mô hình nghiên cứu về căng thẳng tài chính đã được xây dựng kể từ cuối những năm 90 nhằm thuật lại các động thái nối tiếp nhau dẫn tới khủng hoảng tại các nước mới nổi7. Các mô hình này kết hợp tính động năng của các luồng luân chuyển vốn quốc tế với diễn biến thay đổi của các cơ cấu tài chính trong nước, đặc biệt ở cấp kinh tế vi mô. Chính vì vậy, các bước trình tự dẫn tới khủng hoảng thường tương đối độc lập với diễn biến của các chỉ số cơ bản về kinh tế vĩ mô (quan hệ phụ thuộc giữa tình trạng các chỉ số kinh tế vĩ mô xấu đi và khủng hoảng trong trường hợp này không mạnh bằng trong trường hợp các mô hình được xây dựng trong những năm 80 để mô phỏng về các cuộc khủng hoảng nợ). Xét trên góc độ thực nghiệm, các mô hình này có tính chính xác cao đối với trường hợp của các nền kinh tế mới nổi đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đang từng bước hội nhập vào nền tài chính quốc tế. Như vậy, có thể sử dụng các mô hình này nhằm xác định các rủi ro mà hệ thống ngân hàng của Việt Nam hiện đang phải đối mặt. Trong loại mô hình này, tình trạng rủi ro tài chính vi mô tăng cao bắt nguồn từ hiện tượng các nguồn vốn đầu vào tăng tốc đổ vào hệ thống tài chính trong nước vốn đã có nhiều bất cập về mặt thông tin và cẩn trọng. Trong giai đoạn đầu, ngay cả khi cho phép củng cố đà tăng trưởng, các nguồn vốn nước ngoài đầu vào vẫn là một trong những yếu tố gây ra tình trạng mất cân đối cho bảng tổng kết tài sản. Điều này đặc biệt đúng với các hệ thống ngân hàng mà ở đó sự tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn nước ngoài đã tạo điều kiện cho vay nợ bằng ngoại tệ nhằm tài trợ cho các khoản tín dụng bằng nội tệ (do lãi suất đi vay bằng ngoại tệ thấp hơn so với lãi suất cho vay bằng đồng nội tệ, nên biên độ trung gian chênh lệch là lớn). Trong giai đoạn đầu này, tăng trưởng đi kèm với tình trạng mất cân đối về tài chính và thị trường chỉ nhìn nhận được một cách hết sức phiến diện trước tác động của không khí « hưng phấn »8 nói chung. Trong giai đoạn thứ hai, ngược lại đó lại là trạng thái « trầm uất » : thực vậy, trong một bầu không khí ngày càng mất lòng tin khiến các nhà đầu tư và đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài giảm dần thời gian đáo hạn của các các khoản cho vay, tình trạng mất cân đối của bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ (tài sản có bằng đồng bản tệ được tài trợ bởi các tài sản nợ bằng ngoại tệ) sẽ đi liền với tình trạng mất cân đối về kỳ hạn (tài sản có tức là các khoản cho vay thì mang tính dài hạn trong khi đó các khoản này lại được tài trợ bởi các khoản đi vay tức tài sản nợ với thời hạn đáo nợ ngày càng bị rút ngắn). Tình trạng ngày càng căng thẳng đối với tính thanh khoản của hệ thống tài chính cũng chính là tình trạng nợ nước ngoài ngắn hạn ở mức rất cao (hệ số nợ nước ngoài ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối tăng). Thanh khoản ngân hàng như vậy nằm ở vị trí trung tâm trong các bước trình tự do loại mô hình này miêu tả. Như vậy khủng hoảng xảy ra do một cú sốc ngoại sinh hoặc do sự cạn kiệt nội sinh của chu trình tài chính : i. Các mô hình có sử dụng cú sốc ngoại sinh nhấn mạnh tới tác động của kỳ vọng9. Đối với các chủ nợ quốc tế, do tình hình bảng tổng kết tài sản ngày một xấu đi, chỉ cần một sự kiện tương đối nhỏ là đủ để làm thay đổi đột ngột về dự báo đối với tính bền vững của việc huy 7 P. Pesenti và C. Tille (2000), « The economics of currency crises and contagion: an introduction », trong Federal Reserve Bank of New York Economic Policy Review, tháng 9 . P. Krugman (2001), « Crisis : the next generation ? », Razin Conference, Tel Aviv University, 25-26/3. Tổng hợp : A. Cartapanis (2004), « Les crises de change : qu’avons-nous appris depuis 10 ans ? » , trong Economie Internationale, Vol. 7, số 1. 8 F. Mishkin (1998), «Lessons from the Asian crisis », trong Journal of International Money and Finance, 18 (4). 9 P. Artus (2000), Crises de pays émergents. Faits et modèles explicatifs, Economica, Paris. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 8/16 động tài chính phục vụ nền kinh tế. Một cú sốc như vậy có thể làm khủng hoảng xảy ra nhanh hơn : các ngân hàng trong nước không còn khả năng đáo nợ bằng ngoại tệ dễ dàng như trước đây, điều này dẫn tới việc các luồng vốn thuần nước ngoài bị rút khi thời hạn trả nợ đến. Tình trạng căng thẳng về thanh khoản ngoại tệ làm sụt giảm tỷ giá hối đoái và yếu tố này đến lượt mình lại làm cho các ngân hàng mất khả năng thanh toán do hiện tượng chênh lệch tiền tệ (currency mismatch). Thu nhập từ tài sản có bằng đồng nội tệ không còn đủ để chi trả cho các khoản nợ bằng đồng ngoại tệ đã đến kỳ thanh toán khi tỷ giá hối đoái sụt giảm gây mất giá đối với đồng bản tệ. Tình trạng mất khả năng thanh toán càng nghiêm trọng hơn khi khủng hoảng lan sang các lĩnh vực của nền kinh tế thực, làm giảm sút chất lượng của tài sản ngân hàng do tình trạng nợ xấu tăng và do sự sụt giảm của giá chứng khoán và bất động sản. ii. Các mô hình mô phỏng tình trạng cạn kiệt nội sinh được xây dựng trên cơ sở lý thuyết của Mishkin về chu trình tài chính. Theo chúng tôi, các mô hình này cho phép ta biết được một cách rất hoàn chỉnh về tình hình căng thẳng tài chính có thể xảy ra trong một nền kinh tế mới nổi năng động và có sức hấp dẫn cao trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài10. Tăng trưởng GDP mạnh trong một thời gian dài sẽ thu hút vốn nước ngoài và điều này đẩy giá chứng khoán lên cao. Như vậy, các doanh nghiệp sẽ thuận lợi khi huy động vốn, cả từ thị trường (tăng vốn, phát hành trái phiếu) và từ các ngân hàng (giá trị chứng khoán của các nguồn vốn tự có của các ngân hàng tăng là một tác động). Tuy nhiên, giá chứng khoán tăng mạnh, khi thổi phồng giá trị thị trường của tài sản vốn tự có của doanh nghiệp, dần dần có thể dẫn tới tình trạng chênh giữa khu vực tài chính và khu vực thực : hệ số nợ/vốn tự có có xu hướng giảm trong khi đó hệ số nợ/thu nhập lại tăng. Điều này được giải thích bằng việc song song với việc khắc phục hạn chế về thanh khoản và tăng đầu tư về khối lượng, tín dụng tăng trưởng cộng với hiện tượng vốn nước ngoài ồ ạt đổ váo dần dần sẽ dẫn tới tình trạng khả năng sinh lời của đồng vốn dần dần giảm (tăng tích trữ vốn sẽ làm giảm năng suất biên). Xét về mặt thực nghiệm, có thể có ba giai đoạn : trong giai đoạn đầu, chỉ số cổ phiếu và tín dụng ngân hàng tăng nhanh hơn cả giá trị gia tăng song giá trị gia tăng vẫn tiếp tục có xu hướng tăng đều. Giai đoạn này tương ứng với tình trạng « hưng phấn » trên thị trường, điều này làm công tác đánh giá đúng rủi ro trở nên phức tạp. Tuy nhiên, chính trong giai đoạn tăng trưởng này tình hình có nguy cơ dần dần xấu đi ; trong giai đoạn thứ hai, hiệu ứng của việc đầu tư quá mức bắt đầu có tác động rõ rệt trong một số lĩnh vực (bất động sản, xây dựng) và tăng trưởng GDP bị chậm lại. Chất lượng tài sản ngân hàng bị suy giảm (tỷ lệ nợ xấu tăng). Song song với đó, tình trạng nghi ngờ gia tăng của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, sẽ gây sức ép đối với thanh khoản bằng ngoại tệ. Tình trạng kinh tế tăng trưởng chậm lại sẽ làm tăng áp lực nợ ; trong giai đoạn thứ 3, tình trạng mất lòng tin ngày càng lan rộng gây ra tình trạng rút vốn thuần, làm giảm giá chứng khoán và sụt tỷ giá. Đây chính là giai đoạn trong đó chu trình tài chính sau một giai đoạn đỉnh cao bắt đầu đi vào giai đoạn tụt dốc trước sức ép của tình trạng nợ của nền kinh tế thực. Trước đây, tình trạng này đã bị che dấu khi thanh khoản còn dư thừa : tình trạng tăng của hệ số nợ/thu nhập đã bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn trước sẽ ngày càng gia tăng và hệ số nợ/vốn tự có cũng tăng theo do giá giảm trên thị trường tài chính. Căng thẳng về thanh khoản sẽ gây căng thẳng về khả năng thanh toán và tình hình này sẽ gây khan hiếm thanh khoản theo cơ chế « chu trình tương tác ». Nền kinh tế sẽ lâm vào khủng hoảng tài chính vĩ mô. Trong bất cứ trường hợp nào (cú sốc ngoại sinh hay cạn kiệt nội sinh), các luồng vốn đầu vào sẽ đột ngột giảm (« sudden stop ») và kéo theo tính trạng mất khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng và tiếp đó, một cuộc khủng hoảng ngoại hối sẽ dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng. Tình hình trên có thể được đánh giá là một 10 M. Aglietta (2005), Macroéconomie financière, La découverte, Paris. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 9/16 cuộc khủng hoảng kép. Nếu như các chỉ số cơ bản về kinh tế vĩ mô không phải là nguyên nhân gây khủng hoảng, thì cuộc khủng hoảng này cũng gây ra mất cân đối kinh tế vĩ mô ở mức độ nghiêm trọng (tỷ giá sụt giảm, lạm phát tăng cao, bùng nổ nợ chính phủ và đặc biệt là GDP giảm). Một số yếu tố mất cân bằng có thể ảnh hưởng lâu dài tới tính hiệu quả của chính sách kinh tế vĩ mô : công tác thực hiện ngân sách sẽ gặp khó khăn do tình trạng nợ công tăng cao vì Nhà nước phải tái cấp vốn cho các ngân hàng và do tỷ giá hối đoái bị mất giá ; chính sách tiền tệ sẽ được thắt chặt nhằm thiết lập lại tình trạng cân bằng với bên ngoài và kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, khả năng tăng trưởng có thể chịu tác động tiêu cực từ kiểu khủng hoảng này. Đó cũng là trường hợp của Inđônêxia sau thời gian 1998, thời điểm mà khủng hoảng tài chính đã để lại hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Mô hình thế hệ 3 : bùng phát khủng hoảng do cạn kiệt nội sinh của chu trình tài chính Giai Đoạn 1 : Hệ số (Nợ/Vốn tự có theo giá thị trường) giảm do giá tăng Giai Đoạn 2 : Hệ số (Nợ/Thu nhập) bắt đầu tăng, tương tự như vậy với hệ số (chi phí tài chính/Thu nhập) Giai Đoạn 3: Hệ số (Nợ/Vốn tự có) tăng và các hệ số (Nợ /Thu nhập) và (Chi phí tài chính/Thu nhập) cũng tăng theo. Khủng hoảng ở đây là khủng hoảng bảng tổng kết tài sản. 2.2. Luồng vốn vào, chu trình tín dụng và giá tài sản ở Việt Nam Phải chăng ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay đang có được sự năng động tài chính tương tự như ở các giai đoạn hưng phấn tài chính mà chúng tôi vừa mô tả trong các mô hình trên đây ? Trên thực tế, những năm vừa qua đã chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng của các luồng vốn đổ vào hệ thống tài chính Việt Nam. Nguyên nhân là do sức hấp dẫn mạnh mẽ của thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO và liên tục đạt mức tăng trưởng cao qua nhiều năm. Lấy ví dụ năm 2007, mặc dù mức thâm hụt vãng lai là khá lớn nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn thu hút được một lượng ngoại tệ ròng lên đến 9 tỷ USD, tức khoảng 13 đến 14% GDP (xem sơ đồ 1 và 2). Luồng vốn quốc tế ồ ạt đổ vào Đầu tư thái quá/Dư thừa năng lực sản xuất Các nhà đầu tư quốc tế mất long tin trước tình tr hệ số nợ/thu nhập tăng cao Chênh lệch tiền tệ trong bảng tổng kết tài sản Giá tài sản tài chính tăng Tăng trưởng tín dụng > tăng trưởng GDP khả năng sinh lời của vốn giảm trong khu vực thực GDP tăng trưởng chậm lại Hệ số nợ ngắn hạn/dự trữ ngoại hối tăng Rút vốn Giá tài sản giảm GDP giảm + mất khả năng chi trả các cam kết với bên ngoài Ng hàng khủng hoảng khả năng thanh toán làm giảm lượng tín dụng cấp cho doanh ng Mất cân đối về kỳ hạn trong ngân hàng Dự trữ và tỷ giá sụt giảm Ngân hàng bị kh hoảng thanh khoản ngoại tệ ồ ố Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 10/16 Sơ đồ 1 : Cơ cấu cán cân chung (Tỷ USD) Sơ đồ 2 : Cơ cấu cán cân chung (theo tỷ lệ % của GDP) -5 -3 -1 1 3 5 7 9 11 13 15 2002 2003 2004 2005 2006 2007 (est.) balance des capitaux balance courante balance globale -10% -5% 0% 5% 10% 15% 20% 25% 2002 2003 2004 2005 2006 2007 (est.) -10% -5% 0% 5% 10% 15% 20% 25% balance des capitaux (g) balance courante (g) balance globale (d) Chú thích: balance des capitaux = cán cân vốn; balance courante: cán cân vãng lai ; balance globale = cán cân chung Nguồn : IMF và AFD/RCH (A. Silve) Các luồng vốn đổ vào nhiều đã tạo tiền đề cho sự tăng trưởng rất mạnh mẽ của tín dụng ngân hàng trong những năm vừa qua: tổng dư nợ tín dụng đã tăng từ 30% lên 70% GDP kể từ cuối những năm 1990. Ngoài ra, kể từ năm 2006, lượng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam cũng tương quan với mức tăng của chỉ số trên sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (chỉ số VNI – Viet Nam Index tăng 280% trong khoảng thời gian từ đầu năm 2006 đến tháng 3 năm 2007) và tính bất ổn đáng kể của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, trong tình hình bất ổn chung của các thị trường tài chính thế giới, chỉ số VN Index đã giảm mạnh từ cuối năm vừa qua. Sự sụt giảm này cho thấy rằng giá tài sản ở Việt Nam ngày càng nhạy cảm hơn trước diễn biến của tình hình kinh tế thế giới. Sơ đồ 3 : Tín dụng ngân hang Chỉ số 4 : Chỉ số chứng khoán (% GDP) 0 200 400 600 800 1000 1200 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Nguồn : IMF Ecowin, tính toán của AFD (dữ liệu được sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu của tháng 3) Trong giai đoạn phát triển nóng của VNI, hoạt động tài chính của các ngân hàng Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào sự gia tăng của các chỉ số chứng khoán. Để đối phó với tình hình này, các cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ đã tìm cách điều tiết những thái quá của chu trình tài chính trên đà mất kiểm soát. Theo quy định mới ban hành vào tháng 1, trong năm nay các ngân hàng có nghĩa vụ ngừng cấp vốn cho các quỹ đầu tư của họ, đồng thời nâng mức đối trọng rủi ro đối với các khoản tín dụng cấp cho các quỹ đầu tư đó từ 100 lên 150%11. Tiếp đến, kể từ tháng 6, các ngân hàng có nghĩa vụ giới hạn lượng tín dụng cấp cho các quỹ đầu tư ở mức 3% trên tổng dư nợ. Cuối cùng, các ngân hàng có nghĩa vụ báo cáo hàng tháng cho Ngân hàng Nhà nước về tình hình tín dụng dành cho các quỹ đầu tư. Hiện tại, các danh mục đầu tư chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong các bảng tài sản dường như chủ yếu 11 IMF (2007), Vietnam – Staff Report for the 2007 article IV consultation, août. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 11/16 tập trung tại các ngân hàng cổ phần nhỏ, trong khi đó các ngân hàng thương mại nhà nước nhìn chung đều cho vay đầu tư chứng khoán ở mức thấp hơn nhiều so với mức trần 3%. Tình hình phát triển nóng của các thị trường vốn Việt Nam trong giai đoạn từ đầu năm 2006 đến giữa năm 2007 đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ hơn một thị trường tài chính còn non trẻ và đang phát triển trong bối cảnh tính thanh khoản tăng mạnh. Chính vì vậy, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (State Securities Commission) đã tìm cách tăng cường sự minh bạch tài chính của các công ty niêm yết. Đây là một việc làm vô cùng cần thiết khi số lượng công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đã tăng mạnh trong những năm vừa qua (đặc biệt là trong tháng 12 năm 2006 để tranh thủ ưu đãi về thuế trước khi các ưu đãi này chấm dứt). Nhìn chung, quá trình tăng độ sâu cho hệ thống tài chính (có thể xác định được thông qua sự gia tăng tỷ lệ tín dụng/GDP) đương nhiên là một chiều hướng tích cực bởi vì xu hướng này phù hợp với sự phát triển của hoạt động liên ngân hàng, tức là phù hợp với xu hướng phát triển năng lực huy động vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến chất lượng thể chế, vốn khó đong đếm, khi đánh giá tính bền vững của quá trình tăng trưởng tín dụng ngân hàng. Sở dĩ như vậy là bởi về mặt lý thuyết, các luồng vốn nước ngoài có thể làm tăng tính thanh khoản của một hệ thống tài chính chưa được giám sát tốt, non yếu về quản lý rủi ro và tính minh bạch của chủ thể đi vay. Mặc dù sự tăng trưởng tín dụng cho phép đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và giảm lãi suất của các khoản vay ngắn hạn, nhưng sự gia tăng nguồn vốn có thể gây bất lợi ở chỗ nó làm tăng tính dễ bị tổn thương tài chính trong các bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng và doanh nghiệp. Về mặt kinh tế vĩ mô, những khả năng dễ bị tổn thương đó – đặc biệt là mức độ đòn bẩy nợ quá cao và sự phụ thuộc quá nhiều vào ngoại tệ - chính là một yếu tố quan trọng gây ra rủi ro hệ thống thường gặp trong giai đoạn kinh tế cất cánh với tốc độ cao và có thể làm trầm trọng thêm những căng thẳng tài chính trong trường hợp có sốc (đặc biệt là sụt giảm tỷ giá hối đoái và tăng lãi suất). 2.3. Xu thế đô la hóa : một rủi ro tiềm tàng nhưng hiện vẫn hạn chế được Xu hướng đô la hóa là một yếu tố gắn liền với hệ thống tài chính Việt Nam. Xu hướng này cần phải được tính đến khi đánh giá về rủi ro hệ thống. Do tỷ lệ đô la hóa tiền gửi khá cao – cho dù có chiều hướng giảm (hiện này là 25%, trong khi năm 2000 là 40%), nên một phần hoạt động trung gian ngân hàng đã làm phát sinh các khoản tín dụng bằng ngoại tệ (chủ yếu là đô la). Kết quả là 22% tín dụng hiện nay đã bị đô la hóa, nhưng quá trình đô la hóa này đã trải qua hai giai đoạn trong những năm vừa qua: ‰ trong giai đoạn từ 2000 đến 2004, tín dụng bằng đồng đô la đã gia tăng cùng với sự nới rộng khoảng cách chênh lệch về lãi suất tiền đồng và lãi suất đô la – khoảng chênh lệch này đã tăng từ 240 lên 710 pdb, mà nguyên nhân là sự đối lập giữa hai xu hướng : xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ của Mỹ và xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ của Việt Nam ; ‰ trong giai đoạn từ 2004 đến 2007, mức độ đô la hóa đã giảm đi, có thể là do việc Hoa Kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 12/16 Sơ đồ 5 : Tỷ trọng tín dụng bằng ngoại tệ trên tổng lượng tín dụng ( %) 0 5 10 15 20 25 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Nguồn : IMF, Statistical Appendix, tính toán của tác giả (dữ liệu sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu thu thập vào tháng 3) Bảng 1 : Lãi suất và khoảng cách giữa tín dụng bằng đồng Việt Nam và tín dụng bằng đô la ( %) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Ngắn hạn, tiền đồng 9,8 8,8 9,9 10 10,7 12 11,8 11,8 Trung hạn, tiền đồng 10,4 9,9 10,8 10,7 11,7 13,6 13,7 13,7 Ngắn hạn, ngoại tệ 7 4,6 4,3 3,1 3,6 5,5 5,5 5,7 Spread giữa tín dụng tiền đồng và tín dụng ngoại tệ 280 420 560 690 710 650 630 610 Nguồn : IMF, Statistical Appendix, tính toán của tác giả (dữ liệu sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu thu thập vào tháng 3) ‰ Việc mở tín dụng bằng ngoại tệ đã cho phép các ngân hàng cân đối được bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ của họ và hạn chế rủi ro ngoại hối trong một môi trường thiếu vắng các công cụ bảo hiểm trước những dao động về tỷ giá của đồng Việt Nam. Tỷ lệ bù đắp của lượng tiền gửi bằng ngoại tệ đối với các khoản cho vay bằng đô la đã tăng nhanh trong những năm vừa qua : từ 40% năm 2001 lên 80% đầu năm 2007 (sơ đồ 6). Nhìn từ góc độ này, lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam có được một bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ tương đối cân bằng: các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 3 đến 4 % của GDP đầu năm 2007, trong khi năm 2001 là 11%. Nếu tính cả các tài sản bằng ngoại tệ khác ngoài các khoản nợ thì bảng tổng kết bằng ngoại tệ có lẽ gần đạt mức cân bằng. Xét trên khía cạnh này thì có thể kết luận rằng lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam khác biệt rất lớn so với hệ thống ngân hàng châu Á khác trước cuộc khủng hoảng 1997-98, xét trên phương diện cơ cấu của bảng tổng kết tài sản. Sơ đồ 6 : Tín dụng và tiền gửi bằng ngoại tệ (% GDP) Và tỷ lệ bù đắp 0,0 2,0 4,0 6,0 8,0 10,0 12,0 14,0 16,0 18,0 20,0 22,0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 0,0 0,1 0,2 0,3 0,4 0,5 0,6 0,7 0,8 0,9 Crédit en devises - échelle de gauche Dépots en devises - échelle de gauche Crédit en fx/Dépots en fx - échelle de droite Nguồn : IMF, Statistical Appendix, tính toán của tác giả (dữ liệu sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu thu thập vào tháng 3) Chú thích : tín dụng bằng ngoại tệ (các cột bên trái – số liệu bên tung trái ) ; tiền gửi bằng ngoại tệ (cột bên phải, số liệu bên tung trái) Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 13/16 Mặc dù lĩnh vực ngân hàng có được bảng tổng kết tài sản bằng ngoại tệ tương đối cân bằng nhưng không vì vậy mà xóa bỏ được hết các rủi ro của tình trạng đô la hóa hệ thống tài chính: ‰ chế độ hối đoái Việt Nam gắn với đô la, do vậy có thể được người đi vay nhìn nhận như một sự bảo hiểm ngầm trước những rủi ro về hối đoái, tương tự như trường hợp của các nước Đông Nam Á trước khủng hoảng 1997-98. Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực hàng hóa không trao đổi được (tức là những doanh nghiệp không xuất khẩu và không có nguồn thu bằng ngoại tệ), sự nhìn nhận sai lệch về rủi ro hối đoái có thể là một yếu tố rủi ro lớn. Nhìn từ góc độ này, như Ngân hàng thanh toán quốc tế đã nhấn mạnh nhiều lần trong những năm qua, việc mở tín dụng bằng ngoại tệ sẽ cho phép các ngân hàng hạn chế được rủi ro hối đoái nhưng có thể làm tăng rủi ro tín dụng nếu như phương thức tài trợ này làm phát sinh rủi ro hối đoái đối với các các bảng tổng kết của các đối tác của họ ; ‰ ngoài ra, sẽ có sự mất cân đối về kỳ hạn khá lớn giữa các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ (thường tương đối ngắn hạn) và các khoản cho vay bằng ngoại tệ (có thể có thời hạn rất dài, từ 12 đến 15 năm trong một số trường hợp – theo một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới12). Mặc dù sự mất cân đối này không thể đánh giá được một cách chính xác do thiếu thông tin, nhưng nhiều khả năng hệ thống tài chính Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thanh khoản bằng ngoại tệ khá cao. Trong mọi hệ thống tài chính được đô la hóa, khả năng của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết nguy cơ thanh khoản bằng ngoại tệ - tức là bảo đảm khả năng thanh toán các khoản nợ bằng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng trong trường hợp các ngân hàng phải nhờ đến Ngân hàng trung ương trên cương vị người cho vay cuối cùng – là hạn chế. Đây không phải là một nguy cơ riêng của Việt Nam mà là một nguy cơ bắt nguồn từ sự ràng buộc của các ngân hàng trung ương hoạt động trong hệ thống tài chính đô la hóa : chỉ có các quan hệ với phần còn lại của thế giới là có thể làm phát sinh đô la ; các ngân hàng trung ương – không kể Cục dự trữ Liên bang Mỹ - đều không có được quyền hạn này. Vì vai trò người cho vay cuối cùng của họ bị suy giảm cho nên các ngân hàng trung ương có thể nhanh chóng không còn khả năng bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính trong trường hợp xuất hiện những căng thẳng đối với các khoản nợ đô la hóa của các ngân hàng hoạt động dưới sự kiểm soát của họ. Hệ quả là khi rủi ro thanh khoản xuất hiện trong khuôn khổ một chế độ hối đoái gắn với đô la Mỹ, khi tiền gửi bằng đô la bị rút ra ồ ạt, thì việc điều chỉnh thường được tiến hành bằng cách phá giá đồng nội tệ và điều này có thể gây ra nhiều hậu quả rất lớn khi nền kinh tế tích tụ nhiều rủi ro hối đoái. Làm thế nào để đánh giá được mức độ rủi ro phát sinh từ sự điều tiết một phần của Ngân hàng trung ương đối với hệ thống tiền tệ bị đô la hóa ? Cách đơn giản nhất là so sánh lượng ngoại tệ mà Ngân hàng trung ương có thể sử dụng ngay được với nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Trong trường hợp của Việt Nam, kết quả của sự so sánh này như sau : ‰ hệ số giữa dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước với lượng tiền gửi bằng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng đã tăng đáng kể trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006, và đạt gần 100% vào năm 2006 (sơ đồ 7). Hệ số như vậy là khá tốt nếu đem so sánh với các nền kinh tế đô la hóa có mức độ rủi ro hệ thống cao (hệ số này ở Ác-hen-ti- na là 0,34 trước khi diễn ra hai cuộc khủng hoảng ngân hàng và hối đoái). Ngoài ra, sự tăng trưởng mạnh của dự trữ ngoại hối được ghi nhận đầu năm 2007 sau khi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng cao (như đã nêu tại mục 2.2) đã làm cho hệ số này đạt gần 150 % ; 12 Ngân hàng Thế giới (2002), Banking sector review : Vietnam, tháng 6. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 14/16 ‰ để đánh giá đầy đủ về khoảng chênh lệch giữa khả năng thanh toán bằng ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước với nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, cần phải tính thêm một mẫu số khác ngoài lượng tiền gửi bằng ngoại tệ, đó là dịch vụ nợ bên ngoài và giá trị nhập khẩu. Nếu xem xét như vậy thì khả năng của Ngân hàng Nhà nước trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế đã không có sự thay đổi đáng kể nào trong giai đoạn từ 2000 đến 2006 do sự tăng trưởng nhập khẩu. Ngược lại, hệ số đó có thể đã tăng đáng kể trong năm 2007 (có thể đạt mức từ 25% đến 30% theo ước tính của chúng tôi). Sơ đồ 7 : Hệ số thanh khoản bằng ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước ( %) 0% 20% 40% 60% 80% 100% 120% 140% 160% 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Ratio réserves en devises de la BC/dépôts en devises du secteur bancaire Ratio réserves en devises de la BC/dépôts en devises + service dette externe Ratio réserves en devises de la BC/dépôts en devises + importations + service dette externe Chú thích các đồ thị từ trên xuống dưới : - Hệ số dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng trung ương/lượng tiền gửi bằng ngoại tệ của lĩnh vực ngân hàng - Hệ số dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng trung ương/lượng tiền gửi bằng ngoại tệ + dịch vụ nợ bên ngoài - Hệ số dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng trung ương/lượng tiền gửi bằng ngoại tệ + dịch vụ nợ bên ngoài + nhập khẩu Nguồn : IMF, Statistical Appendix, tính toán của tác giả (dữ liệu sử dụng cho năm 2007 là dữ liệu thu thập vào tháng 3) Nhìn chung, trong giới hạn đánh giá dựa trên những thông tin thu thập được, có thể nói rằng hiện tại nguy cơ khủng hoảng khả năng thanh toán bằng đô la do một cú sốc đối với các cơ cấu tài chính đô la hóa gây ra là tương đối thấp. Bên cạnh đó, mặc dù tình trạng đô la hóa của hệ thống tài chính vẫn là một yếu tố góp phần vào rủi ro hệ thống ở Việt Nam, nhưng nhiều chỉ số cho thấy rằng tình trạng đó không phát triển thêm mà thậm chí còn có xu hướng giảm nhẹ dần trong một vài năm qua. 3. Những diễn biến có thể dự đoán Căn cứ vào những phân tích trên đây, có thể hình dung ba kịch bản tương ứng với các khả năng hiện khá khác biệt nhau: ‰ Kịch bản thứ nhất : Việt Nam tiếp tục các cuộc cải cách hiện nay nhằm từng bước đưa hệ thống ngân hàng phát triển theo các mục tiêu nêu trong lộ trình (road map). Trong khuôn khổ này, sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của các ngân hàng quốc tế vào thị trường Việt Nam sẽ cho phép thực hiện chuyển giao kinh nghiệm và kiến thức, tạo điều kiện hình thành các phương pháp quản lý hiệu quả hơn và một nền tảng vốn vững chãi hơn, đặc biệt là sau quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Đây là một kịch bản gần tương tự như những gì đang diễn ra ở Trung Quốc trong một vài năm qua. Động lực cho kịch bản này chính là sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam cũng như chính sách hội nhập quốc tế tích cực của Việt nam sau khi gia nhập WTO. Chất lượng giám sát được cải thiện và văn hóa rủi ro đang dần phổ biến tại các tổ chức tín dụng. Về mặt kinh tế chính trị, kịch bản thứ nhất này muốn thực hiện được thì đòi hỏi Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 15/16 rằng Việt Nam phải thúc đẩy cải cách để xóa bỏ hẳn cơ chế quản lý hành chính đối với hoạt động cấp tín dụng, cho dù điều này có thể làm cho các doanh nghiệp nhà nước bị suy yếu phần nào trong tương quan lực lượng với các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra, kịch bản này còn đòi hỏi phải phát triển các cơ chế pháp lý điều chỉnh quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường, tức là sự minh bạch tài chính của doanh nghiệp, pháp luật về tín dụng và pháp luật về phá sản. Nhìn chung, đây là kịch bản có nhiều khả năng xảy ra nhất bởi vì chính sách của Chính phủ Việt Nam và những chuyển biến thực tế trong tổ chức của lĩnh vực ngân hàng đều thể hiện khả năng này. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, cuộc khủng hoảng tài chính của các hệ thống ngân hàng Mỹ và Châu Âu có thể gây khó khăn cho việc thực hiện kịch bản này. Sở dĩ như vậy là vì sự cảnh giác trước nguy cơ rủi ro có thể sẽ khiến các ngân hàng Châu Âu chậm lại đà mở rộng quy mô quốc tế và chững lại việc thâm nhập thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực ngân hàng cũng có thể cản trở những hiệu ứng tích cực của kịch bản, đặc biệt là về thủ tục kiểm soát và văn hóa rủi ro trong các cơ sở tín dụng; ‰ Kịch bản thứ hai : quá trình cải cách diễn ra chậm chạp, mang lại ít hiệu quả trong khi tình hình kinh tế vĩ mô của đất nước xấu đi. Sự sút giảm sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam trước tình hình gia tăng lạm phát và tăng lương do thiếu nhân lực có chất lượng là một giả thiết có nhiều khả năng xảy ra. Theo hướng này, có thể dự báo rằng tài khoản vãng lai sẽ dần xấu đi, dẫn đến những căng thẳng về khả năng thanh toán bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước vẫn có đủ khả năng làm giảm căng thẳng nhờ có được mức dự trữ ngoại tệ khá lớn, nhưng Ngân hàng Nhà nước sẽ phải điều chỉnh chính sách tiền tệ của mình để khắc phục những mất cân đối của cán cân thanh toán mà không gây ảnh hưởng xấu đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng; ‰ Kịch bản cuối cùng : quá trình tự do hóa tài chính làm cho tín dụng tăng trưởng rất mạnh, gây ra tình trạng lạm phát về giá tài sản không thể điều tiết được và kết quả là tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng lên mức không thể chấp nhận. Đây là một kịch bản hoàn toàn có khả năng xảy ra. Nó tương ứng với một số giai đoạn đã được xác định rõ trong lịch sử của các nước mới nổi chỉ chú tâm tự do hóa hệ thống tài chính mà không đồng thời nâng cao năng lực giám sát và văn hóa rủi ro. Trên bình diện này, sự xuất hiện gần đây của một số ngân hàng thương mại dựa lưng vào các tập đoàn công nghiệp có thể cần phải được theo dõi chặt chẽ. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ] 16/16 TÀI LIỆU THAM KHẢO B. Aitken (2004), “Can Vietnam outgrows its banking sector problems ?”, in IMF Selected Issues, SM/04/379. M. Aglietta (2005), Macroéconomie financière, Repères, La découverte. P. Alvarez-Plata et A. Garcia-Herrero (2007), « To dollarize or to de-dollarize : Consequences for monetary policy », Papier préparé pour la Banque Asiatique de Développement, septembre. P. Artus (2000), Crises de pays émergents. Faits et modèles explicatifs, Economica, Paris. Banque mondiale (2002), Banking sector review : Vietnam, juin. FX Bellocq et JR Chaponnière (2006), “Vietnam : Les vulnérabilités macro-financières associées au processus d’émergence », Document de Travail de l’AFD, n°11, janvier. FX Bellocq (2008), « Dix ans après la crise asiatique : Où sont passées les zones de vulnérabilités macro-financières dans les pays émergents », in La Lettre des Economistes de l’AFD, n°18, janvier. U. Calmen (2005), « Monetary policy in Vietnam : the case of a transition country », in BIS Papers, n°31. C. Diaz-Alejandro (1985), “Good-bye financial repression, hello financial crash”, in Journal of Development Economics, 19. FMI (2007), Vietnam – Staff Report for the 2007 article IV consultation, août. FMI (2007), Global Financial Stability Report, septembre. P. Krugman (2001), « Crisis : the next generation ? », Razin Conference, Tel Aviv University, 25-26 mars. F. Mishkin (1998), «Lessons from the Asian crisis », in Journal of International Money and Finance, 18 (4). P. Pesenti et C. Tille (2000), « The economics of currency crises and contagion : An introduction », in Federal Reserve Bank of New York Economic Policy Review, septembre. Silve (2007), Rapport sur le risque pays du Vietnam, Document interne du Groupe AFD. TAC (2007), “Analyse et diagnostic du système bancaire vietnamien”, Rapport pour l’Agence Française de Développement, octobre. Tan et P. Tebbutt (2006), “The Vietnam banking system”, in Fitch Country Report, 24 mars. V. Thanh, S. Chea S. Ouk et L. Xuan Sang (2007), “How have the CLV economies been exposed to financial vulnerabilities ?”, in IDS Bulletin, Vol. 38, N°4. Shared by [ Click ]hared by http:// lubtaichinh.net [ lick ]

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnc_bl_systemic_risks_afd_vn_4314.pdf