Quản trị tài chính doanh nghiệp - Chương 17 Cổ tức và chính sách chi trả cổ tức

Trong lịch sử, mã số thuế ở mỹ điều chỉnh việc thanh toán cổ tức cho cổ đông như mức thu nhập bình thường. vì vậy, cổ tức bị đánh thuế tại mức thuế suất biên của các nhà đầu tư, lên tới 38,6% năm 2002. Tăng vốn đã được đánh thuế ở mức thuế trên vốn lợi nhuận. áp dụng giống nhau cho hầu hết các nhà đầu tư và giao động quanh năm. Năm 2002, thuế suất vốn tăng đứng yên ở mức 20%, trong một nỗ lực nhằm kích thích nền kinh tế, chủ tịch George W.Bush xem xét lại chính sách thuế bao gồm cả cổ tức và thuế suất vốn tăng. Chính sách thuế mới, thực hiện vào năm 2003, mức thuế suất 15% trên cả cổ tức và vốn tăng cho nhà đầu tư trong nhóm thuế cao hơn. Các nhà đầu tư trong nhóm thuế thấp hơn, thuế suất trên cổ tức và vốn tăng là 5% trong cả năm 2007 và xuống mức 0% năm 2008.

docx37 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 2748 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản trị tài chính doanh nghiệp - Chương 17 Cổ tức và chính sách chi trả cổ tức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c. Chúng ta được phép cung cấp và yêu cầu những gì đơn giản. Tin rằng, 40% nhà đầu tư thích cổ tức cao hơn nhưng chỉ 20% công ty trả cổ tức cao. Công ty có cổ tức cao sẽ rất ít nên giá cổ phần của họ sẽ nâng lên. Vì thế, công ty có cổ tức thấp tìm cách thay đổi chính sách cổ tức cho đến khi đạt được 40% công ty có tỷ lệ chi trả cổ tức cao. Thời điểm này, cổ tức thị trường ở trong trạng thái cân bằng. Hơn nữa, sự thay đổi chính sách cổ tức là vô ích vì tất cả nhóm khách hàng đã được thỏa mãn. Chính sách cổ tức cho cá nhân công ty là không thích đáng. Nếu chúng ta hiểu được hiệu ứng khách hàng, xem xét báo cáo sau đây: Mặc dù lý luận lý thuyết chính sách cổ tức là không thích đáng hoặc công ty không trả cổ tức nhưng nhiều nhà đầu tư vẫn thích cổ tức cao, vì thế trong thực tế một công ty có thể tăng giá cổ phiếu vì có tỷ lệ chi trả cổ tức cao. Đúng hay sai? Câu trả lời là sai nếu nhóm khách hàng không tồn tại. Miễn là có đủ công ty có cổ tức cao để thỏa mãn nhu cầu của nhà đầu tư, các công ty không cần phải tăng giá cổ phiếu để trả cổ tức cao. Câu hỏi: 17.5a. Thị trường tác động như thế nào đến sự thay đổi bất ngờ của cổ tức? Cổ tức là gì? Chính sách cổ tức như thế nào? 17.5b. Nhóm khách hàng cổ tức là gì? Bạn có mong chờ vào một công ty đầy rủi ro nhưng không chắc rằng cổ tức được trả cao hay thấp không? 17.6- MUA LẠI CỔ PHIẾU Một hình thức chi trả cổ tức thay cho tiền mặt: Biểu đồ: 17.3 Chỉ số thanh toán cổ tức đối với thu nhập Trong các chương trước, chúng ta đã xem xét những cách thức chi trả cổ tức. Tuy nhiên, cách thức chi trả cổ tức không chỉ có bằng tiền mặt mà thay vào đó, một công ty có thể mua lại cổ phiếu của chính mình. Mua lại cổ phiếu (Repurchase or buybacks) là một cách thức ngày càng trở nên phổ biến, và số tiền dùng để mua lại cổ phiếu ngày càng lớn. Ví dụ: Theo công bố, chỉ tính riêng trong tháng 1 năm 2011, đã có khoảng hơn 75 tỷ Dollars được dùng để mua lại cổ phiếu, so với số tiền được dùng để mua lại cổ phiếu tính trong cả năm 2010 là 357 tỷ Dollars. Điều này trái ngược hoàn toàn so với năm 2009 khi chỉ có 138 tỷ Dollars được dùng để mua lại cổ phiếu. Đến này mức kỷ lục về số tiền dùng để mua lại cổ phiếu là 538 tỷ Dollars vào năm 2007. Biểu đồ cho thấy tỉ lệ trung bình của mua lại cổ phiếu, chia cổ tức và tổng số thanh toán ( cả mua lại cổ phiếu và chia cổ tức) đến thu nhập của các công ty công nghiệp ở Mỹ trong những năm từ 1984 đến 2004. Biểu đồ cho thấy sự tăng trưởng qua các thời kỳ Một cách khác để thấy rằng mua lại cổ phiếu đang ngày càng trở nên quan trọng như thể nào là cách so sánh với trả cổ tức bằng tiền mặt. (xem biểu đồ 17.3) Biểu đồ này cho chúng ta thấy được tỷ lệ bình quân của việc chi trả cổ tức bằng tiền, mua lại cổ phiếu và tổng số thanh toán cổ tức của các công ty công nghiệp của mỹ so với thu nhập trong những năm từ 1984-2004. Có thể thấy, tỷ lệ của việc mua lại cổ phiếu so với thu nhập thì ít hơn nhiều so với tỷ lệ trả cổ tức so với thu nhập trong những năm đầu. Tuy nhiên, vào năm 1998 tỷ lệ của việc mua lại cổ tức đã vượt qua tỷ lệ trả cổ tức bằng tiền. Nhưng xu hướng này có thiên hướng đào người kể từ sau năm 1999. Đến năm 2004, tỉ lệ mua lại cổ phiếu giảm nhẹ so với tỉ lệ chia cổ tức bẳng tiền. Mua lại cổ phiếu thường được thực hiện theo ba cách: Đâu tiên, công ty chỉ đơn giản là mua lại cổ phần của chính mình, Cũng giống như những người có nhu cầu muốn mua cổ phiếu. Trên thị trường mở, các công ty không tiết lộ mình là người mua. Như vậy người bán không biết được rằng liệu cổ phiếu mình bán lại là cho công ty hay chỉ là một nhà đầu tư khác. Thứ hai, các công ty có thể tiến hành việc chào mua. Ở đây, công ty thông báo cho tất cả các cổ đông rằng nó muốn mua lại một số lượng cổ phiếu nhất định của công ty với một mức giá cụ thể . Ví Dụ: giả sử Arts and Crafts (A&C), Inc., có 1.000.000 cổ phiếu đang lưu hành với giá một cổ phiếu là 50$ cho một cổ phiếu. Công ty thực hiện đấu thầu để mua lại 300.000 cổ phiếu với giá 60$ một cổ phiếu A&C chọn một mức giá trên 50$ nhắm lôi kéo các cổ đông đến bán, đó là đấu thầu cổ phiếu của họ. Trong thực tế, nếu giá đấu thầu được đặt đủ cao, cổ đông có thể muốn bán nhiều hơn thế. Trong trường hợp cực đoan là tất cả các cổ phiếu được đấu thầu, A&C sẽ mua lại 3 trong số 10 cổ phiếu mà cổ đông hiện có. Cuối cùng, các công ty có thể mua lại cổ phần của một cổ đông cụ thể. Quy trình này được gọi là mua lại mua lại mục tiêu. Ví dụ, giả sử công ty cổ phần công nghệ sinh học quốc tế đã mua lại khoảng 10% cổ phiếu của đang lưu hành của công ty the Prime Robotics Company (P-R Co) trong tháng 4 với mức giá khoảng 38$ một cổ phiếu. Tại thời điểm đó, Công Nghệ Sinh Học quốc tế công bố cho Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái rằng cuổi cùng nó có thể kiểm soát P-R Co. Trong tháng 5, P-R Co đã mua lại các cổ phiếu từ Công Nghệ SInh Học Quốc Tế với giá 48$ trên mỗi cổ phiếu , cao hơn giá thị trường tại thời điểm đó. Đề nghị này không được phổ biến với các cổ đông khác. Chi trả cổ tức so với mua lại cổ phiếu: Tưởng tượng rằng, một công ty có toàn bộ vốn cổ phần bằng tiền mặt là 300,000$. Công ty không trả cổ tức và lợi nhuận ròng trong năm vừa kết thúc là 49,000$ . Bảng cân đối giá trị thị trường vào cuối năm nay được thể hiện như sau: Bảng cân đối giá trị thị trường (trước khi trả hết tiền mặt) Tiền mặt: 300,000$ Tài sản khác: 700,000$ TỔNG: 1,000,000$ Nợ phải trả: 0$ VCSH: 1,000,000$ TỔNG: 1,000,000$ Công ty hiện có 100,000 cổ phiếu . Tổng giá trị thị trường là 1 triệu USD, Do đó cổ phiếu được bán với giá 10$/1 cổ phiếu. Thu nhập trên một cổ phiếu (EPS) là 49,000$/100,000 = 0.49$ và tỉ số giá trị thị trường trên thu nhập (PE) là $10/0.49 = 20.4. Một lựa chọn mà công ty đang xem xét là trả cổ tức bằng tiền mặt là 3$ (300,000$/100,000 = 3$) cho mỗi cổ phiếu. Ngoài ra, công ty cũng đang nghĩ đến việc sử dụng tiền để mua lại 30,000 cổ phiếu (300,000$/10$=30,000 ). Nếu hoa hồng, thuế, và các khoản khác được bỏ qua trong ví dụ của chúng tôi, các cổ đông không quan tâm đến lựa chọn nào được chọn. Điều này có bất ngờ? Hoàn toàn không, điều đang diễn ra ở đây là công ty đã chi trả hết 300,000$ tiền mặt. Bảng cân đối mới được trình bày như sau: Bảng cân đối giá trị thị trường (sau khi trả hết tiền mặt) Tiền mặt: 0$ Tài sản khác: 700,000$ TỔNG: 700,000$ Nợ phải trả: 0$ VCSH: 700,000$ TỔNG: 700,000$ Nếu như tiền mặt được dùng để chi trả cổ tức thì vẫn còn 100,000 cổ phiếu. Vì vậy, giá trị mỗi cổ phiếu sẽ là 7$. Thực tế rằng, giá trị của mỗi cổ phiếu đã bị giảm từ 10$ xuống 7$ không phải là nguyên nhân. Hãy xem xét những cổ đông đang nắm giữ 100 cổ phiếu, ở thời điểm 10$/ 1 cổ phiếu trước khi chia cổ tức, tổng giá trị là 1,000$. Sau khi chia cổ tức 3$, những cổ đông nắm giữ 100 cổ phiếu thì giá trị mỗi cổ phiếu chỉ con 7$ và tổng cộng là 700$ công với 300$ tiền mặt (100 x 3$ = 300$) và như thế tổng cộng vẫn là 1,000$. Điều này cho chúng ta thấy những gì chúng ta đã thấy ở trên: chi trả cổ tức sẽ không ảnh hưởng đến cổ phiếu của cổ đông, nếu không có sai sót nào. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu chỉ giảm 3$ so với giá cổ phiếu trước đó. Ngoài ra, bởi vì tổng thu nhập và số lượng cổ phiếu còn lại không thay đổi nên EPS vẫn là 49 cent. Tuy nhiên tỷ lệ PE đã giảm xuống 14.3 (7$/0.49$ = 14.3). Tại sao chúng ta lại nhìn vào lợi nhuận kế toán và tỷ lệ PE để đánh giá trong một thời điểm. Ngoài ra nếu công ty mua lại 30,000 cổ phiếu, còn lại 70,000 cổ phiếu. Bảng cân đối sẽ giống như trên: Bảng cân đối giá trị thị trường (sau khi mua lại cổ phiếu) Tiền mặt: 0$ Tài sản khác: 700,000$ TỔNG: 700,000$ Nợ phải trả: 0$ VCSH: 700,000$ TỔNG: 700,000$ Công ty có giá trị 700,000$. vì vậy mỗi cổ phiếu sẽ có giá trị là 10$ (700,000$/70,000 = 10$). Những cổ đông có 100 cổ phiếu chắc chắn sẽ không bị ảnh hưởng. Ví dụ, với 100 cổ phiếu nếu cổ đông ấy đã sẵn sang, người ấy có thể bán 30 cổ phiếu để thu về 300$ tiền mặt và vẫn còn 700$ giá trị cổ phiếu còn lạ giống như người ấy có nếu công ty trả cổ tức. Đây là một ví dụ khác về cổ tức tự chế. Trong trường hợp thứ 2 này, EPS tăng lên vì tổng thu nhập vẫn như cũ trong khi số cổ phiếu đã giảm. EPS mới là 0.70$ (49,000$ / 70,000 = 70$). Tuy nhiên, điều quan trọng cần chú ý đó là chỉ số PE là 14.3 ($10/0,7 =14.3). Ví dụ này minh họa cho một điểm quan trọng là, nếu không có sai xót hay thiếu xót nào thì về cơ bản chia cổ tức và mua lại cổ phiếu là giống nhau. Điều nay minh họa cho chúng ta thấy rằng chính sách cổ tức không dính dáng đến nhau khi không có thuế hay có bất kỳ sai xót nào. Sự cân nhắc ở thế giới thực trong việc mua lại Ví dụ chúng ta vừa nêu cho thấy việc mua lại và cổ tức tiền mặt là như nhau trong một thế giới không thuế và các phí giao dịch. Ở thế giới thực, có những sự tính toán khác nhau giữa việc mua lại cổ phiếu và cổ tức tiền mặt, nhưng sự khác nhau quan trọng nhất chính là việc xử lý thuế. Dưới luật thuế hiện hành, việc mua lại có một lợi thế đáng kể về thuế hơn là cổ tức tiền mặt. Cổ tức chịu thuế, và người nắm giữ cổ phiếu không còn sự lựa chọn nào khác về việc có nhận được cổ tức hay không. Trong mua lại, cổ đông chỉ phải trả thuế nếu cổ đông chọn bán và nhận lại vốn từ đó. Ví dụ, giả sử cổ tức của $1/cổ phiếu chịu thuế ở mức thuế trần. Các nhà đầu tư ở mức thuế 28% sở hữu 100 cổ phiếu chứng khoán phải trả $100 x 0.28=$28 thuế. Người bán cổ phiếu sẽ trả mức thuế thấp hơn nhiều nếu $100 giá trị của cổ phần được mua lại, bởi vì thuế chỉ được trả dựa trên lợi nhuận từ việc bán cổ phiếu. Do đó, lãi thu được chỉ là $40 nếu cổ phiếu bán với giá $100 được mua ban đầu là $60. Khoản thuế lãi vốn sẽ là 0.28 x $40 = $11.20 Lưu ý rằng sự giảm giá cổ tức gần đây và thuế suất từ lãi vốn không làm thay đổi thực trạng rằng việc mua lại có tiềm năng lớn ở khía cạnh thuế. Cho một vài ví dụ của hoạt động mua lại trong thời gian gần đây, vào khoảng đầu năm 2011, Pfizer tuyên bố kế hoạch mua lại 5 tỉ đô la cổ phần của công ty mình, và Intel tuyên bố mua lại 10 tỉ đô la. Những tuyên bố mua lại khác cùng thời điểm đó,tuy với quy mô không lớn bằng, cũng đã cho thấy sự gia tăng lượng cổ phần của công ty. Ví dụ như, Medco Health Solutions tuyên bố sẽ mua lại 13% số cổ phiếu của công ty; và Gamestop Corporation tuyên bố mua lại khoảng 17% số cổ phiếu của công ty. IBM được biết đến với chính sách mua lại triệt để. Tháng 10/2010, công ty tuyên bố mua lại 10 tỉ đô la cổ phiếu. Từ khi CEO Samuel Palmisano tiếp quản vào năm 2003, công ty đã dành hơn 68 tỉ đô la để mua lại suốt thời gian đó đến giữa năm 2010. Trong thực tế, từ khi bắt đầu năm 2003 đến năm 2010, cổ phiếu của công ty giảm từ 1.72 tỉ còn 1.24 tỉ. Chỉ có ExxonMobil và Microsoft dành nhiều hơn cho việc mua lại, Microsoft đã mua lại khoảng 103 tỉ đô la cổ phiếu của chính công ty từ 2000 đến 2010. Một điều đáng lưu ý là không phải mọi tuyên bố mua lại cổ phần đều được hoàn thành. Dựa trên số liệu bao quát giai đoạn 2004-2007, gần 57% kế hoạch được thực thi. Mua lại cổ phiếu và EPS Bạn có thể đọc trong các báo tài chính phổ biến, mua lại cổ phiếu là có lợi vì nó làm EPS tăng. Như đã thấy, điều này sẽ xảy ra. Lý do đơn giản là việc mua lại cổ phiếu làm giảm lượng cổ phiếu ngoài thị trường, nhưng không làm ảnh hưởng đến tổng doanh thu. Kết quả, EPS tăng. Tuy nhiên, báo tài chính có thể đưa ra tầm quan trọng thái quá trên số liệu EPS trong hợp đồng mua lại. Trong ví dụ trước, chúng ta đã thấy giá trị của cổ phần không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi EPS. Trên thực tế, tỷ số PE là như nhau khi chúng ta so sánh cổ tức tiền mặt với mua lại. 17.7 Những điều biết và chưa biết về chính sách cổ tức Cổ tức và người chi trả cổ tức Như chúng ta đã thảo luận, có nhiều lý do chính đáng ủng hộ chính sách chi trả cổ tức thấp (hoặc không chi trả). Mặc dù vậy, ở Hoa Kỳ, tổng số cổ tức được trả là khá lớn. Ví dụ vào năm 1978, các công ty Mỹ đã liệt kê các giao dịch chủ yếu, đã chi trả 31.3 tỉ đôla trên tổng cổ tức. Trước năm 2000, con số đã tăng đến 101.6 tỉ đôla (chưa tính theo lạm phát), tăng hơn 200% (sau khi điều chỉnh theo lạm phát, lượng tăng nhỏ hơn 22.7%, nhưng vẫn đáng kể). Trong khi nhìn chung chúng ta biết lượng cổ tức lớn, chúng ta cũng biết rằng số lượng các công ty chi trả cổ tức đã giảm. So với cùng kỳ 1978 - 2000, số lượng các công ty công nghiệp trả cổ tức giảm từ hơn 2000 xuống dưới 1000, và tỷ lệ phần trăm của những doanh nghiệp trả cổ tức giảm 65% xuống còn 19%. Bảng 17.4 Thực tế là cổ tức gộp lớn trong khi số lượng người chi trả giảm rất mạnh có vẻ hơi nghịch lý, nhưng lời giải thích rất đơn giản: các khoản thanh toán cổ tức chủ yếu tập trung ở một phần tương đối nhỏ của các công ty lớn. Trong năm 2000, ví dụ, khoảng 80% tổng cổ tức được chi trả chỉ bởi 100 công ty. Trong 25 đối tượng chi trả hàng đầu, trong đó bao gồm những người khổng lồ nổi tiếng như ExxonMobil và General Electric, Collectively trả khoảng 55% tất cả cổ tức. Do đó, cổ tức lớn trong khi đối tượng trả cổ tức co lại là do sự suy giảm trong đối tượng chi trả cổ tức gần như hoàn toàn do các công ty nhỏ hơn, có xu hướng trả cổ tức nhỏ hơn ngay từ đầu. Một lý do quan trọng là tỷ lệ phần trăm các công ty chi trả cổ tức đã giảm là vì số lượng các công ty đã thay đổi. Hiện đã có một sự gia tăng lớn về số lượng của các công ty mới niêm yết trong vòng 25 năm gần đây. Doanh nghiệp niêm yết mới có xu hướng trẻ hơn và ít lợi nhuận. Các công ty đó cần tiền mặt trong nội bộ của họ để tài trợ cho sự tăng trưởng và thường không trả cổ tức. Một yếu tố khác là các công ty bắt đầu thực hiện thanh toán bằng việc mua lại cổ phần, phương thức linh hoạt hơn là sử dụng tiền mặt. Một chính sách như vậy có vẻ khá hợp lý cho các cuộc thảo luận trước đó của chúng ta. Tuy nhiên, sau khi kiểm soát sự thay đổi của doanh nghiệp và gia tăng hoạt động mua lại cổ phiếu, người ta vẫn có xu hướng trả cổ tức cho những công ty lâu, thiết lập tốt hơn, mặc dù cần nghiên cứu sâu hơn cho câu hỏi này. Thực tế là số lượng doanh nghiệp chi trả cổ tức giảm rất mạnh là một hiện tượng thú vị. Làm cho vấn đề thậm chí còn thú vị hơn là bằng chứng cho thấy rằng xu hướng này bắt đầu tự dự trữ. Hãy nhìn vào biểu đồ 17. 4, trong đó cho thấy tỷ lệ phần trăm của các công ty trả cổ tức trong giai đoạn 1984-2004. Như đã trình bày, có xu hướng giảm rõ rệt, nhưng xu hướng có vẻ xuống đến mức tận cùng vào năm 2000 và sau đó dự trữ mạnh trong năm 2002. Điều gì đang xảy ra? Một phần của sự phục hồi rõ ràng trong biểu đồ 17,4 có khả năng là đánh lừa. Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán giảm mạnh, từ hơn 5000 đến dưới 4000 trong giai đoạn 2000-2005. Khoảng 2000 công ty hủy niêm yết trong thời gian này, 98% trong số đó không phải là đối tượng chi trả cổ tức. Như vậy, tỷ lệ doanh nghiệp trả cổ tức tăng vì những người không chi trả biến mất với số lượng lớn. Tuy nhiên, một khi chúng ta kiểm soát vấn đề này, số người chi trả cổ tức vấn tăng, nhưng nó xảy ra vào năm 2003. ở biểu đồ 17.5, sự nhích lên tập trung ở các tháng sau tháng 5 năm 2013. Táng này có gì đặc biết? Câu trả lời là vào tháng 5/2013, thuế suất cá nhân trên cổ tức đã được giảm từ 38% còn 15%. Vì vậy, nhất quán với lý lẽ trước, giảm thuế suất cá nhân dẫn đến gia tăng ở cổ tức. Tuy nhiên điều quan trọng là không để ý quá nhiều vào biểu đồ 17.5. Rõ ràng rằng việc giảm thuế suất đã có tác dụng, nhưng sau khi cân nhắc kĩ, những gì chúng ta thấy là một vài trăm công ty bắt đầu chia cổ tức. Hiện vẫn còn có hàng ngàn công ty không bắt đầu chia cổ tức, mặc dù tỷ lệ giảm thuế là rất lớn. các bằng chứng cho thấy rằng thuế suất là vấn đề, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định chính sách cổ tức. Giải thích này là phù hợp với kết quả của một cuộc khảo sát năm 2005 của giám đốc điều hành tài chính, hơn hai phần ba nói rằng cắt giảm thuế suất có thể hoặc chắc chắn không ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của họ. Yêu tố thứ hai là sự trưởng thành của nhưng công ty mới niêm yêt mà chúng ta đã đề cập trước đó. Khi các công ty được hình thành tốt hơn, lợi nhuận của họ tăng lên ( và có thể cơ hội đầu tư đã giảm) , họ bắt đầu chi trả cổ tức. Yêu tố thứ ba có thể góp phần vào sự gia tăng về số lượng những người trả cổ tức là tinh vi hơn một chút. Chỉ số công nghệ nặng NASDAQ giảm mạnh vào mùa xuân năm 2000 (do dot-com phá sản), và thấy rõ rằng nhiều công ty mới niêm yết dường như thất bại. Ngay sau đó, vụ bê bối kế toán lớn tại các công ty như Enron và WorldCom khiến các nhà đầu tư không chắc chắn về độ tin cậy của báo cáo thu nhập. Trong một môi trường như vậy, các công ty có thể lựa chọn bắt đầu chia cổ tức nhằm nỗ lực ra hiệu cho các nhà đầu tư rằng họ có tiền để thanh toán cổ tức hiện tại và trong tương lai. Sự đảo chiều rõ rệt trong việc suy giảm đối tượng nộp cổ tức là một hiện tượng gần đây, vậy nên ý ​​nghĩa của nó vẫn còn nhìn thấy được. Có thể chứng minh đó chỉ là một sự kiện nhất thời giữa sự suy giảm kéo dài. Chúng ta sẽ phải chờ xem. Các công ty đều có cổ tức "đồng nhất". Như chúng ta đã quan sát trước đó, cắt giảm cổ tức thường được xem như là một tin rất xấu bởi những người tham gia thị trường. Kết quả là, các công ty chỉ cắt giảm cổ tức khi có không có chấp nhận khác thay thế được . Đối với những lý do tương tự, các công ty cũng không muốn tăng cổ tức trừ khi chắc chắn mức cổ tức mới có thể được duy trì Trong thực tế, những gì chúng ta quan sát được là các công ty chi trả cổ tức chỉ có xu hướng tăng cổ tức sau khi lợi nhuận đã tăng lên, và họ không tăng hoặc cắt giảm cổ tức để đáp ứng với những biến động doanh thu tạm thời. Nói cách khác, tăng trưởng cổ tức làm chậm tăng trưởng lợi nhuận và tăng trưởng cổ tức sẽ có xu hướng mượt mà hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng thu nhập. Để thấy ổn định cổ tức và tăng trưởng ổn định quan trọng như thế nào, các nhà quản lý tài chính xem xét rằng trong năm 2010, 1.729 công ty ở Hoa Kỳ tăng các khoản thanh toán cổ tức của họ, trong khi chỉ có 145 công ty giảm chi trả cổ tức. Hai công ty có kinh nghiệm lâu năm tăng cổ tức là Procter & Gamble và Colgate-Palmolive. Vào cuối năm 2010, Procter & Gamble đã tăng cổ tức trong 55 năm liên tiếp, và Colgate Palmolive đã tăng cổ tức trong 47 năm liên tiếp. Nhìn chung, 42 công ty trong chỉ số S&P 500 đã tăng cổ tức trong ít nhất 25 năm liên tiếp. ĐẶT TẤT CẢ LẠI CÙNG NHAU Phần lớn những điều chúng ta đã thảo luận trong chương này (và phần lớn những gì chúng ta biết về cổ tức trong hàng thập kỷ nghiên cứu) có thể được liên kết lại với nhau và được tóm tắt trong 5 quan sát sau đây:  1. Toàn bộ cổ tức và cổ phiếu mua lại là rất lớn, và chúng đã tăng lên đều đặn trên giá trị danh nghĩa và thực tế trong những năm qua.  2. Cổ tức tập trung chủ yếu trong một số lượng tương đối nhỏ các công ty lớn và trưởng thành  3. Những người quản lý rất miễn cưỡng trong việc cắt giảm cổ tức, thường làm như vậy chỉ vì những vấn đề cụ thể của công ty.  4. Người quản lý chia nhỏ cổ tức, tăng từ từ và tăng dần khi thu nhập tăng. 5. Giá cổ phiếu phản ứng với những thay đổi bất ngờ trong cổ tức. Thách thức hiện nay là sắp xếp năm mảnh thành một bức tranh mạch lạc. Đối với thanh toán nói chung, có nghĩa là sự kết hợp của việc mua lại cổ phiếu và cổ tức bằng tiền mặt, một lý thuyết đơn giản phù hợp với điểm 1 và 2. Đầu tiên, công ty tương đối trẻ và ít lợi nhuận nói chung không nên thực hiện phân phối tiền mặt. Họ cần có tiền mặt để hỗ trợ cho các khoản đầu tư (và chi phí phát hành không khuyến khích việc tăng tiền mặt bên ngoài). Tuy nhiên, khi là một công ty trưởng thành, họ bắt đầu tạo ra dòng tiền tự do (bạn sẽ nhớ lại, là nội bộ tạo ra dòng tiền bên ngoài cần để tài trợ cho các hoạt động đầu tư có lợi nhuận). Dòng tiền tự do đáng kể có thể dẫn đến nhiều vấn đề nếu không được phân phối. Các nhà quản lý có thể bị cám dỗ để theo đuổi xây dựng đế chế hay dành tiền dư thừa trong những cách không vì lợi ích tốt nhất của các cổ đông. Vì vậy, các doanh nghiệp phải chịu áp lực để làm phân phối hơn là tích trữ tiền mặt. Và theo những gì quan sát được, chúng tôi hy vọng các công ty lớn với lịch sử sinh lời sẽ thực hiện những phân phối lớn. Như vậy, lý thuyết vòng đời nói rằng các công ty thương mại giảm chi phí trong việc giữ tiền mặt thặng dư so với chi phí tương lai tiềm năng của tài chính bên ngoài. Một công ty nên bắt đầu phân phối khi tạo ra đủ dòng tiền nội bộ để tài trợ cho nhu cầu đầu tư của mình trong hiện tại và trong tương lai gần. Vấn đề phức tạp hơn liên quan đến các loại hình phân phối, cổ tức bằng tiền mặt so với mua lại. Đối số thuế có lợi cho việc mua lại rất rõ ràng và mạnh mẽ. Hơn nữa, việc mua lại là một lựa chọn linh hoạt hơn (và các nhà quản lý đánh giá tài chính rất linh hoạt), vì vậy câu hỏi là: Tại sao các công ty chọn cổ tức bằng tiền mặt? Nếu chúng ta phải trả lời câu hỏi này, chúng ta phải đặt một câu hỏi khác. Cổ tức bằng tiền mặt có thể làm được điều gì mà việc mua lại cổ phiếu không thể? Câu trả lời là khi một công ty cam kết trả cổ tức bằng tiền mặt hiện tại và trong tương lai, họ sẽ gửi một tín hiệu gồm hai phần với thị trường. Như chúng ta đã thảo luận, tín hiệu đó chỉ ra rằng công ty đang có lợi nhuận, với khả năng thực hiện các khoản thanh toán một cách liên tục. Lưu ý rằng một công ty không thể có lợi ích bằng cách cố gắng đánh lừa thị trường trong vấn đề này bởi vì các công ty cuối cùng sẽ bị trừng phạt khi không thể thực hiện thanh toán cổ tức (hoặc không thể làm mà không cần dựa vào nguồn tài chính bên ngoài). Như vậy, cổ tức bằng tiền mặt có thể cho phép một công ty phân biệt bản thân với các đối thủ ít lợi nhuận. Thứ hai, tinh tế hơn, các tín hiệu đưa chúng ta trở lại vấn đề của dòng tiền tự do. Bằng cam kết trả cổ tức bằng tiền mặt hiện tại và trong tương lai, các tín hiệu công ty chỉ ra rằng họ sẽ không được tích trữ tiền mặt (hoặc ít nhất là không nhiều tiền mặt), do đó làm giảm chi phí và tăng cường cổ đông giàu có. Câu chuyện tín hiệu gồm hai phần này phù hợp với điểm 3-5 ở trên, nhưng sự phản đối rõ ràng vẫn còn. Tại sao các công ty không cam kết một chính sách thiết lập bất cứ cái gì ngoài tiền sẽ được dùng để chi trả cổ tức và sử dụng nó thay tiền để mua lại cổ phần? Tóm lại, một trong hai cách, một công ty được cam kết trả tiền cho cổ đông. Một chiến lược mua lại cố định bị hai nhược điểm. Đầu tiên là kiểm chứng được. Một công ty có thể công bố mua lại một thị trường mở và sau đó chỉ đơn giản là không làm điều đó. Bằng việc làm giả sổ sách, sẽ có một số thời gian trước khi được phát hiện lừa dối. Vì vậy, nó sẽ là cần thiết cho các cổ đông để phát triển một cơ chế giám sát, có nghĩa là một số cách cho cổ đông biết chắc chắn rằng việc mua lại được thực hiện trong thực tế. Cơ chế này sẽ không khó để xây dựng (có thể là một mối quan hệ ủy thác đơn giản như chúng ta thấy trong các thị trường trái phiếu), nhưng hiện tại nó không tồn tại. Tất nhiên, một vụ đấu thầu mua lại nhu cầu thì ít hoặc không xác minh, nhưng đề nghị này có các chi phí liên quan. Vẻ đẹp của cổ tức bằng tiền mặt là nó không cần giám sát. Một công ty buộc phải cắt giảm và kiểm tra bốn lần một năm, năm này qua năm khác. Một phản đối thứ hai đến một chiến lược mua lại cố định gây nhiều tranh cãi. Các nhà quản lý cho rằng,là người trong cuộc, là tốt hơn so với các cổ đông có thể đánh giá xem giá cổ phiếu của họ là quá cao hoặc quá thấp. (Lưu ý rằng ý tưởng này không xung đột với hiệu quả thị trường nếu thông tin bên trong là các lý do). Trong trường hợp này, một lực lượng quản lý mua lại cam kết cố định để mua lại cổ phiếu, ngay cả trong những trường hợp khi các cổ phiếu được định giá quá cao. Nói cách khác, nó buộc quản lý làm cho các khoản đầu tư NPV âm. Nhiều nghiên cứu về cổ tức bằng tiền mặt so với câu hỏi mua lại cổ phần là cần thiết, nhưng xu hướng lịch sử dường như được ưa thích, tiếp tục tăng trưởng mua lại cổ phiếu để chia cổ tức. Tổng số tiền chi trả của công ty dường như là tương đối ổn định qua thời gian ở khoảng 20% tổng thu nhập (xem hình 17.3), nhưng mua lại đang trở thành một phần lớn trong số đó. Sự chia rẽ đạt khoảng 50-50 ở cuối những năm 90, nhưng có vẻ như tổng số mua lại đã vượt qua tổng số cổ tức. Một khía cạnh của cổ tức tiền mặt tổng hợp đã không nhận được nhiều sự chú ý là có thể có một ảnh hưởng mạnh. Trước năm 1982, tình trạng pháp lý của việc mua lại cổ phiếu đã hơi âm u, tạo ra sự không khuyến khích đáng kể. Trong năm 1982, SEC, sau nhiều năm tranh luận, tạo ra một tập hợp các hướng dẫn rõ ràng cho các công ty làm theo, làm cho việc mua lại hấp dẫn hơn nhiều. Ảnh hưởng di sản phát sinh bởi vì rất nhiều các công ty khổng lồ trả một phần lớn tổng cổ tức đã trả cổ tức trước (và có lẽ rất lâu trước đó) năm 1982. Trong phạm vi mà các doanh nghiệp này không muốn cắt giảm cổ tức của họ, cổ tức bằng tiền mặt sẽ lớn. ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA CHI TRẢ CỔ TỨC Pros Cons 1.cổ tức bằng tiền mặt có thể nhấn mạnh những kết quả tốt và cung cấp hỗ trợ cho giá cổ phiếu  1 . cổ tức bị đánh thuế đến người nhận 2 . cổ tức có thể thu hút nhà đầu tư tổ chức những người thích hoàn trả dưới hình thức cổ tức. Sự kết hợp của các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân cho phép một công ty huy động vốn với chi phí thấp để tiếp cận thị trường rộng hơn. 2. cổ tức có thể làm giảm nguồn nội bộ tài chính. Cổ tức có thể buộc các công ty để NPV dự án dương hoặc dựa trên vốn chủ sở hữu từ bên ngoài tốn kém. 3. Giá cổ phiếu thường tăng với thông báo về việc chia cổ tức tăng lên. 3. Khi được thiết lập, việc cắt giảm cổ tức là khó có thể thực hiện nếu không có bất lợi ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của công ty. 4. Cổ tức hấp thụ dòng tiền mặt dư thừa và có thể giảm chi phí cơ quan phát sinh từ mâu thuẫn giữa quản lý và cổ đông. MỘT SỐ ĐIỀU TRA BẰNG CHỨNG VỀ CỔ TỨC Một nghiên cứu gần đây đã khảo sát một số lượng lớn các giám đốc điều hành tài chính liên quan đến chính sách cổ tức. Một trong những câu hỏi nêu ra là, "Liệu các báo cáo mô tả các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chia cổ tức của công ty của bạn?" Bảng 17.1 cho thấy một số kết quả. Như thể hiện trong Bảng 17.1, các nhà quản lý tài chính rất không hứng thú cắt giảm cổ tức. Hơn nữa, họ rất ý thức về cổ tức trước đây của họ và mong muốn duy trì một cổ tức tương đối ổn định. Ngược lại, chi phí vốn bên ngoài và mong muốn thu hút các nhà đầu tư khôn ngoan (những người có nhiệm vụ ủy thác) là ít quan trọng hơn. Chính sách % người đồng ý cố gắng tránh việc giảm giá cổ tức trên mỗi cổ phần 93.8% Cố gắng giữ cổ tức đồng nhất năm này qua năm khác 89.6 Xem xét mức độ cổ tức trên mỗi cổ phần đã trả vào các quý gần đây 88.2 Miễn cưỡng thực hiện việc thay đổi cổ tức để dự trữ cho tương lai 77.9 xem xét thay đổi sự tăng trưởng cổ tức cho mỗi cổ phần 66.7 xem xét chi phí huy động vốn ngoài nhỏ hơn chi phí chia cổ tức. 42.8 Trả cổ tức để thu hút các nhà đầu tư chịu hạn chế đầu tư 41.7 Theo lời của họ ... Fischer Black với Tại sao các công ty phải trả cổ tức Tôi nghĩ rằng các nhà đầu tư đơn giản như cổ tức vậy. Họ tin rằng cổ tức nâng cao giá trị cổ phiếu (được đưa ra triển vọng của công ty), và họ cảm thấy không thoải mái khi dùng vốn của họ. Chúng ta thấy bằng chứng cho điều này ở khắp mọi nơi: các cố vấn và các tổ chức đầu tư đối xử một cổ phiếu có năng suất cao hấp dẫn và an toàn, các nhà phân tích tài chính định giá một cổ phiếu bằng cách dự đoán và chiết khấu cổ tức của nó, các nhà kinh tế tài chính nghiên cứu mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và cổ tức thực tế, và các nhà đầu tư phàn nàn về cắt giảm cổ tức. Điều gì nếu các nhà đầu tư trung lập đối với cổ tức?Tư vấn đầu tư sẽ nói với khách hàng dùng thu nhập và vốn, và nếu chịu thuế, để tránh thu nhập; các nhà phân tích tài chính sẽ bỏ qua cổ tức trong đánh giá cổ phiếu; các nhà kinh tế tài chính sẽ xem với giá cổ phiếu và giá trị chiết khấu cổ tức bằng nhau, ngay cả khi cổ phiếu bị định giá sai; và một công ty sẽ xin lỗi tới các nhà đầu tư chịu thuế khi buộc bởi thuế thu nhập tích lũy để chi trả cổ tức. Đây không phải là những gì chúng tôi quan sát. Hơn nữa, việc thay đổi cổ tức có vẻ như một cách nghèo nàn để nói với các thị trường tài chính về triển vọng của một công ty. Báo cáo công khai có thể tốt hơn chi tiết triển vọng của công ty và có ảnh hưởng lớn hơn trên cả hai, của người nói và danh tiếng của công ty. Tôi dự đoán rằng trong khuôn khổ luật thuế hiện hành, cổ tức sẽ dần dần biến mất. Chính sách % nghĩ điều này quan trọng hoặc rất quan trọng 1. duy trì tính nhất quán với chính sách cổ tức trong lịch sử 84.1% 2. sự ổn định của các khoản thu nhập trong tương lai 71.9 3. sự thay đổi bền vững trong thu nhập 67.1 4. Thu hút các nhà đầu tư tổ chức mua cổ phiếu 52.5 5. Có sẵn các cơ hội đầu tư tốt cho công ty 47.6 6. Thu hút các nhà đầu tư bán lẻ để mua cổ phiếu 44.5 7. đóng thuế thu nhập cá nhân khi nhận được cổ tức 21.1 8. chi phí phát hành để phát hành cổ phiếu mới. 9.3 Bảng 17.2 được rút ra từ cuộc khảo sát này, nhưng ở đây những câu trả lời là cho câu hỏi, "Các nhân tố sau quan trọng thế nào đến quyết định chia cổ tức của công ty bạn?" Không câu trả lời bất ngời nào được đưa vào bảng 17.1 và thảo luận trước đó của chúng tôi, những ưu tiên cao nhất là duy trì một chính sách cổ tức phù hợp. Việc một số dữ kiện sau này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây của chúng tôi. Các quản lý tài chính rất quan tâm đến thu nhập ổn định và mức thu nhập tương lai trong việc đưa ra quyết định chia cổ tức, và họ xem xét sự sẵn có của các cơ hội đầu tư tốt. Người trả lời khảo sát cũng tin rằng việc thu hút cả (bán lẻ) các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân là tương đối quan trọng. Ngược lại với cuộc thảo luận của chúng ta về các loại thuế và chi phí phát hành trong những năm đầu của chương này, các nhà quản lý tài chính trong cuộc khảo sát này đã không nghĩ rằng các loại thuế cá nhân trả cổ tức bằng cổ đông là rất quan trọng. Và thậm chí ít nghĩ rằng chi phí phát hành cổ phần là có liên quan. 17.8 CỔ TỨC CỔ PHIẾU VÀ CHIA TÁCH CỔ TỨC Một cách thức trả cổ tức khác là trả bằng cổ phiếu của chứng khoán. Đây là loại cổ tức được gọi là cổ tức cổ phiếu.(Cổ tức cổ phiếu được chi trả bởi công ty đến các chủ sở hữu dưới hình thức cổ phần, làm giảm đi giá trị của mỗi cổ phiếu lưu hành). Cổ tức cổ phiếu không phải là một cổ tức thực bởi vì nó không được thanh toán bằng tiền mặt. Ảnh hưởng của một cổ tức cổ phiếu là để tăng số lượng cổ phiếu mà mỗi chủ sở hữu nắm giữ. Vì có rất nhiều cổ phiếu lưu hành, mỗi cổ phiếu đó đơn giản là có giá trị thấp. Cổ tức cổ phiếu thường được thể hiện dưới dạng một tỷ lệ phần trăm; Ví dụ, một cổ tức cổ phiếu 20 phần trăm có nghĩa rằng một cổ đông nhận được một cổ phiếu mới chiếm 1/5 giá trị hiện đang sở hữu (tăng 20 phần trăm). Bởi vì mỗi cổ đông nhận được hơn 20 phần trăm cổ phiếu, tổng số cổ phiếu lưu hành tăng 20 phần trăm. Như chúng ta sẽ thấy trong một thời điểm, kết quả là mỗi cổ phần của cổ phiếu trị giá khoảng ít hơn 20 phần trăm. Chia tách cổ phiếu làm tăng lượng cổ phần lưu hành của công ty mà không làm thay đổi vốn chủ sở hữu.Việc chia tách cổ phiếu cơ bản là giống như một cổ tức cổ phiếu, ngoại trừ sự phân chia được thể hiện như là một tỷ lệ thay vì phần trăm. Khi sự phân chia được khai báo, mỗi cổ phần được chia ra để tạo thêm cổ phiếu. Ví dụ, trong 3/1 cổ phiếu chia tách, mỗi cổ phiếu cũ được chia thành ba cổ phiếu mới. MỘT VÀI CHI TIẾT VỀ CHIA TÁCH CỔ PHIẾU VÀ CỔ TỨC CỔ PHIẾU Chia tách cổ phiếu và cổ tức cổ phiếu cùng có tác động cơ bản đối với công ty và các cổ đông: chúng làm tăng số lượng cổ phiếu và làm giảm giá trị mỗi cổ phiếu. Việc hạch toán là không giống nhau, tuy nhiên, và nó phụ thuộc vào hai vấn đề sau: (1) liệu việc phân phối là một chia tách cổ phiếu hoặc cổ tức cổ phiếu và (2) kích thước của cổ tức cổ phiếu nếu nó được gọi là cổ tức. Theo quy ước, lợi tức cổ phần ít hơn 20-25 phần trăm được gọi là lợi tức cổ phần nhỏ. Các thủ tục kế toán cho một cổ tức như được thảo luận tiếp theo. Một cổ tức cổ phiếu lớn hơn giá trị này từ 20 đến 25 phần trăm được gọi là cổ tức cổ phiếu lớn. Cổ tức cổ phiếu lớn không phải là hiếm. Ví dụ, trong tháng 10 năm 2010, nhà sản xuất máy nước nóng AO Smith đã công bố một chia tách cổ phiếu 3/2 trong hình thức 50% cổ tức cổ phiếu. Cùng tháng, nhà cung cấp ô tô Magna International công bố một chia tách cổ phiếu 2/1 trong hình thức 100% cổ tức cổ phiếu.Trừ một số khác biệt tính toán tương đối nhỏ, cổ tức cổ phiếu có tác dụng tương tự như một chia tách cổ phiếu. Ví dụ về cổ tức cổ phiếu nhỏ. Công ty Peterson, một công ty tư vấn chuyên về vấn đề kế toán khó, có 10,000 cổ phần của các cổ phiếu đang lưu hành,giá bán mỗi cổ phiếu là $ 66. Tổng giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu là $ 66x10,000 = $ 660,000. Với cổ tức cổ phiếu 10 phần trăm, mỗi cổ đông nhận được một phần bổ sung vào 10 cổ phần sở hữu , và tổng số cổ phiếu lưu hành sau khi chia cổ tức là 11,000. Trước khi chia cổ tức chứng khoán, phần vốn chủ sở hữu của bảng cân đối của Peterson có thể thấy như thế này: Cổ phiếu thường (mệnh giá $1, 10.000 cổ phiếu hiện hành) $ 10,000 Vốn vượt quá mệnh giá 200,000 Lợi nhuận giữ lại 290,000 Tổng VCSH $500,000 Thủ tục hạch toán dường như tùy ý được sử dụng để điều chỉnh các bảng cân đối sau một cổ tức cổ phiếu nhỏ. Vì 1,000 cổ phiếu mới được ban hành, các tài khoản của cổ phiếu phổ thông được tăng lên $ 1,000 (1,000 cổ phiếu với mệnh giá 1$/cổ phiếu), với tổng số 11,000 $. Giá thị trường của $66 là $65 lớn hơn mệnh giá, do đó, "dư thừa" của $ 65x1,000 cổ phiếu = $ 65,000 được thêm vào tài khoản thặng dư vốn (vốn vượt quá mệnh giá), tổng cộng là $ 265,000. Tổng vốn chủ sở hữu 'là không bị ảnh hưởng bởi các cổ tức cổ phiếu vì không có tiền mặt đã đi vào hoặc ra, nên giữ lại khoản thu nhập được giảm toàn bộ 66,000 $, để lại $ 224,000. Hiệu quả thuần của những chiến lược này là các tài khoản vốn chủ sở hữu của Peterson bây giờ nhìn như thế này: Cổ phiếu thường (mệnh giá $1, 11.000 cổ phiếu hiện hành) $ 11,000 Vốn vượt quá mệnh giá 200,000 Lợi nhuận giữ lại 290,000 Tổng VCSH $500,000 Ví dụ về chia tách cổ phiếu. Việc chia tách cổ phiếu là khái niệm tương tự như một cổ tức cổ phiếu, nhưng nó thường được diễn tả như là một tỷ lệ. Ví dụ, trong chia tách cổ phiếu ba-cho-hai, mỗi cổ đông nhận được ba cổ phiếu cho hai cổ phần mà họ đang sở hữu, do đó, chia tách cổ phiếu ba-cho-hai chia một số tiền để trả cổ tức cổ phiếu 50 phần trăm. Một lần nữa, không có tiền mặt được chi trả, và tỷ lệ phần trăm của toàn bộ công ty mà mỗi cổ đông sở hữu là không bị ảnh hưởng. Việc hạch toán của một phân chia cổ phiếu là một chút khác nhau từ (và đơn giản hơn) của một cổ tức cổ phiếu. Gỉa sử Peterson quyết định tuyên bố phân chia cổ phần hai cho-một. số lượng cổ phiếu lưu hành sẽ tăng gấp đôi lên 20.000, và mệnh giá sẽ được giảm một nửa đến $ 50 cho mỗi cổ phiếu. Vốn chủ sở hữu sau khi chia được biểu diễn như sau: Cổ phiếu thường (mệnh giá $.50, 20,000 cổ phiếu hiện hành) $ 10,000 Vốn vượt quá mệnh giá 200,000 Lợi nhuận giữ lại 290,000 Tổng VCSH $500,000 Lưu ý rằng, đối với cả ba loại, các con số trên bên phải là hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi sự phân chia. Sự thay đổi duy nhất là trong các mệnh giá mỗi cổ phần và số lượng cổ phiếu lưu hành. Vì số lượng cổ phiếu đã tăng gấp đôi, mệnh giá của mỗi cổ phiếu bị giảm đi một nửa. Ví dụ về cổ tức cổ phiếu lớn. Trong ví dụ của chúng ta, nếu 100% cổ tức cổ phiếu đã được công bố, 10,000 cổ phiếu mới sẽ được phân phối, do đó 20,000 cổ phiếu sẽ được lưu hành. Có mệnh giá $1 cho mỗi cổ phiếu, tài khoản của cổ phiếu phổ thông sẽ tăng $ 10,000, với tổng số $20,000. Các tài khoản lợi nhuận giữ lại sẽ được giảm 10,000 $, để lại $ 280,000. Kết quả như sau: Cổ phiếu thường (mệnh giá $1, 20.000 cổ phiếu hiện hành) $ 20,000 Vốn vượt quá mệnh giá 200,000 Lợi nhuận giữ lại 280,000 Tổng VCSH $500,000 GIÁ TRỊ CỦA CỔ TỨC CHIA TÁCH VÀ CỔ TỨC CỔ PHIẾU Định nghĩa của luật nói rằng phân chia cổ phiếu và cổ tức cổ phiếu có thể (1) để giá trị của công ty không bị ảnh hưởng, (2) tăng giá trị của nó, hoặc (3) giảm giá trị của nó. Thật không may, các vấn đề là đủ phức tạp để chúng ta không thể dễ dàng xác định các mối quan hệ giữa 3 điều đó. Các trường hợp chuẩn. Một trường hợp mạnh mẽ có thể khiến cổ tức cổ phiếu và chia tách không thay đổi tài sản của bất kỳ cổ đông hay tài sản của công ty cũng như của toàn bộ. Trong ví dụ trước của chúng tôi, vốn chủ sở hữu có giá trị thị trường tổng cộng $ 660,000. Với cổ tức cổ phiếu nhỏ, số lượng cổ phiếu tăng lên 11,000, có vẻ như rằng mỗi cổ phiếu sẽ có trị giá $ 660,000/11,000 = $60. Ví dụ, một cổ đông có 100 cổ phiếu trị giá mỗi cổ là $ 66 trước khi chia cổ tức, sau khi chia sẽ có 110 cổ phiếu trị giá mỗi cổ là $ 60. Tổng giá trị của các cổ phiếu là $ 6,600 một trong hai cách; do đó, các cổ tức cổ phiếu không thực sự có bất kỳ hiệu quả kinh tế. Sau khi chia tách cổ phiếu, có 20,000 cổ phiếu, vì vậy mỗi nên có giá trị $ 66000/20000 = $33. Nói cách khác, số lượng cổ phiếu tăng gấp đôi và giá còn một nửa. Từ những tính toán, thấy rằng cổ tức cổ phiếu và chia tách chỉ giao dịch giấy. Mặc dù những kết quả này là tương đối rõ ràng, lý do thường được đưa ra cho thấy rằng có thể có một số lợi ích cho những hành động này. Quản lý tài chính điển hình là nhận thức được nhiều phức tạp trong thế giới thực; vì lý do, các cổ phiếu chia tách hoặc quyết định chia cổ tức cổ phiếu không được xem trọng trong thực tế. Biên độ giao dịch phổ biến. Những người ủng hộ cổ tức cổ phiếu và chia tách cổ phiếu thường xuyên cho rằng chứng khoán có một phạm vi giao dịch thích hợp. Khi chứng khoán được định giá trên mức này, nhiều nhà đầu tư không có tiền để mua 100 đơn vị cổ phiếu như thông thường, được gọi là “nguyên lô”. Mặc dù chứng khoán có thể được mua dưới hình thức lô lẻ (ít hơn 100 cổ phiếu), các hoa hồng lớn hơn. Do đó, các công ty sẽ chia cổ phiếu giữ giá trong phạm vi giao dịch này. Ví dụ, Mirosoft đã chia chín lần kể từ khi công ty ra công chúng vào năm 1986. các cổ phiếu đã phân chia ba-cho-hai hai lần và hai-cho-một tổng cộng bảy lần. Vì vậy đối với mỗi cổ phần của Microsoft bạn sở hữu vào năm 1986 khi công ty lần đầu tiên phát hành ra công chúng, bạn sẽ sở hữu 288 cổ phiếu như cách chia tách cổ phiếu gần đây nhất. Tương tự như vậy, kể từ Walmart ra công chúng vào năm 1970, nó đã chia cổ phần của mình hai-cho-một 11 lần, và Dell đã chia ba cho-hai lần và hai cho-một-sáu lần kể từ khi phát hành công chúng vào năm 1988. Mặc dù lập luận này là một trong những lập luận phổ biến, tính hợp lệ của nó là vấn cho một số lý do. Quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí và các tổ chức khác đã tăng lên đều đặn các hoạt động kinh doanh của họ kể từ Thế chiến II và bây giờ xử lý một tỷ lệ khá lớn trong tổng khối lượng giao dịch (ví dụ nhận 80 phần trăm khối lượng giao dịch NYSE). Bởi vì các tổ chức này mua và bán với số lượng lớn, giá cổ phiếu cá nhân là không đáng kể Hơn nữa, đôi khi chúng ta quan sát rằng giá cổ phiếu khá lớn mà không xuất hiện để gây ra vấn đề.Phân tích một trường hợp nổi tiếng, Berkshire Hathaway, một công ty có uy tín rộng rãi do nhà đầu tư huyền thoại Warren Buffett đứng đầu, bán nhiều nhất có thể $ 151,650 cho mỗi cổ phiếu vào tháng Mười Hai năm 2007. Dĩ nhiên, tháng 3 năm 2011, bạn có thể chọn một phần cho giá rẻ khoảng $ 130,000. Cuối cùng, đó là bằng chứng cho thấy chia tách cổ phiếu thực sự có thể làm giảm tính thanh khoản của cổ phiếu của công ty. Sau một chia tách hai-cho-một, số lượng cổ phiếu được giao dịch nhiều hơn gấp đôi nếu thanh khoản tăng bởi sự chia tách. Điều này dường như chưa xuất hiện, và ngược lại đôi khi quan sát được. CHIA TÁCH NGƯỢC Một cơ động tài chính ít thường xuyên gặp phải là sự phân chia ngược lại. Ví dụ, trong tháng 1 năm 2011, công ty năng lượng mặt trời Solar Evergreen đã trải qua chia tách cổ phiếu ngược cho 1-6, và, vào tháng Hai năm 2011, PremierWest Bancorp đã trải qua một sự chia tách ngược 1-10. Trong chia tách ngược 1-10, mỗi nhà đầu tư trao đổi 10 cổ phiếu cũ cho một cổ phiếu mới. Mệnh giá được tăng lên bởi một nhân tố 10 trong quá trình này. Từ những gì đã qua đây có thể sẽ là một trong những chia tách ngược lớn nhất bao giờ hết (về vốn hóa thị trường), ngân hàng khổng lồ Citigroup công bố tháng 3 năm 2011 rằng nó sẽ làm cho 1-10-đảo ngược, do đó làm giảm số lượng cổ phiếu lưu hành từ 29 tỷ xuống 2,9 tỷ. Như với các phần chia nhỏ cổ phiếu và cổ tức cổ phiếu,trường hợp này có thể khiến việc thực hiện mà tách ngược lại không có tác dụng thực sự. Trong môi trường thực tế không hoàn hảo, ba lý do liên quan được trích dẫn cho các phần chia nhỏ ngược lại. Đầu tiên, chi phí giao dịch cho các cổ đông có thể ít sau khi chia tách ngược. Thứ hai, tính thanh khoản và khả năng tiếp thị của cổ phiếu của một công ty có thể được cải thiện khi giá của nó được nâng lên tầm kinh doanh phổ biến. Thứ ba, cổ phiếu bán với giá thấp hơn một mức nhất định không được đề cao, có nghĩa là các nhà đầu tư đánh giá thấp lợi nhuận các công ty này "thu nhập, dòng tiền, tăng trưởng, và sự ổn định.Một số chuyên gia tài chính cho rằng việc chia tách ngược có thể nhận được sự tôn trọng nhất định. Như là trường hợp với các phần chia nhỏ cổ phiếu, không lý do nào đặc biệt thuyết phục, đặc biệt là không phải là người thứ ba. Có hai lý do khác để chia tách ngược, đầu tiên, thị trường chứng khoán có giá tối thiểu trên mỗi cổ phiếu yêu cầu. Việc tách ngược có thể đưa giá cổ phiếu lên đến mức tối thiểu như vậy. Ví dụ, NASDAQ hủy niêm yết công ty có giá cổ phiếu giảm xuống dưới 1 USD cho mỗi cổ phiếu trong 30 ngày. Sau sự sụp đổ của sự bùng nổ Internet trong năm 2001-2002, một số lượng lớn các công ty liên quan đến Internet thấy mình có nguy cơ bị hủy niêm yết và sử dụng các phần chia nhỏ ngược lại để đẩy giá cổ phiếu của họ. Thứ hai, các công ty đôi khi thực hiện chia tách và cùng thời điểm đó, mua lại từ bất kỳ cổ đông người kết thúc với ít hơn so với một số lượng cổ phiếu nhất định. Ví dụ, vào tháng Giêng năm 2011, Phoenix Footwear Group, Inc., hoàn thành việc chia tách ngược. Trong trường hợp này, công ty này đầu tiên đã chia tách ngược cho 1-200 cổ phiếu và sau đó mua lại tất cả cổ phần của các cổ đông với ít hơn một cổ phần của cổ phiếu, do đó loại bỏ các cổ đông nhỏ hơn (và do đó làm giảm số cổ phần). Mục đích của việc chia ngược lại là cho phép các công ty trở về “phạm vi dễ giao dịch hơn”. Việc tách ngược và mua lại cổ phần làm cho phần còn lại của công ty có ít hơn 300 cổ đông, vì vậy nó sẽ không còn được yêu cầu phải nộp báo cáo định kỳ với SEC. Những gì đã đề nghị đặc biệt là trí tưởng tượng là ngay lập tức sau khi chia ngược lại, các công ty đã làm một phân chia bình thường cho 200-1 để khôi phục lại các cổ phiếu để khôi phục chi phí ban đầu của nó! CÂU HỎI LÝ THUYẾT 17.8a Đâu là ảnh hưởng của việc tách cổ phiếu đến tài sản cổ đông? 17.8b Việc hạch toán của cổ phiếu chia tách có khác gì so với sử dụng cổ tức cổ phiếu nhỏ? 17.9 TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN Trong chương này, chúng ta trước hết thảo luận về các loại cổ tức và cách thức chi trả như thế nào. Sau đó chúng ta tìm hiểu những vấn đề chung quanh các quyết định chính sách cổ tức. Tiếp theo, chúng ta minh họa cách thiết lập chính sách cổ tức bền vững và mô tả phương án thay thế quan trọng đối với cổ tức tiền mặt, cổ tức cổ phần Nhìn chung ở các chủ đề trên, ta thấy các luận điểm chính như sau: Chính sách cổ tức không thích hợp trong trường hợp không có thuế và các điều kiện không hoàn hảo khác bởi vì các cổ đông có thể tác động ngược lên chiến lược cổ tức của công ty.Những cổ đông nhận cổ tức cao hơn so với họ kì vọng có thể tái đầu tư khoản dôi ra. Ngược lại, những cổ đông nhận cổ tức thấp hơn so với kì vọng có thể bán đi cổ phần Thuế thu nhập cổ đông riêng lẻ và chi phí phát hành mới là những cân nhắc thực sự để ưu tiên cổ tức thấp. Với thuế và các chi phí mới phát sinh, công ty nên chi trả cổ tức sau khi dự án có NPV dương được đảm bảo tài chính Có những nhóm trong nền kinh tế có thể ưu tiên chi trả cao. Bao gồm các tổ chức lớn như các quỹ lương hưu. Chúng ta nhận thấy rằng một số tổ chức thích chi trả cao hơn và số khác thích chi trả thấp hơn. Hiệu ứng khách hàng ảnh hưởng đến các ý tưởng được chứng minh hỗ trợ rằng chính sách cổ tức đáp ứng các nhu cầu của cổ đông. Ví dụ, nếu 40% cổ đông thích cổ tức thấp hơn và 60% cổ đông thích cổ tức cao hơn thì tương đương khoảng 40% công ty sẽ chi trả cổ tức thấp và 60% sẽ chi trả cao. Điều đó làm giảm đi đáng kể tầm ảnh hưởng của một số chính sách cổ tức công ty riêng lẻ trên thị trường giá Hành động mua lại cổ phần ví dụ như cổ tức tiền mặt, nhưng có lợi thế đáng kể về thuế. Vì thế những cổ phần được mua lại rất hữu ích đối với chính sách cổ tức tổng thể. Chúng ta thảo luận về nghiên cứu gần đây và xem xét đến chính sách cổ tức. Chúng ta đã thấy rằng chính sách cổ tức tập trung mạnh vào một số lượng tương đối nhỏ các công ty lớn lâu đời và việc sử dụng cổ phiếu mua lại tiếp tục phát triển. Chúng tôi đã giới thiệu về lý thuyết vòng đời của việc phân phối đơn giản nơi các công ty đổi sang lưu giữ tiền mặt dư thừa của chi phí hoạt động để chống lại các chi phí trong tương lai của vốn chủ sở hữu bên ngoài tài chính. Hệ quả ở đây là các công ty non trẻ hơn với cơ hội tăng trưởng đáng kể sẽ không phân phối tiền mặt, nhưng các công ty lâu đời hơn, lợi nhuận công ty với dòng tiền mặt tự do sẽ làm điều đó. Để kết thúc bài thảo luận về cổ tức, chúng tôi muôn nhấn mạnh một lần nữa sự khác biệt giữa cổ tức và chính sách cổ tức. Cổ tức quan trọng bởi vì giá trị phân chia của cổ phần thì được xác định cuối cùng bởi cổ tức sẽ được trả. Đó là các vấn đề ít rõ ràng khi dựa trên các mô hình thời gian cổ tức (bây giờ nhiều hơn so với tương lai). Đây là câu hỏi chính sách cổ tức và không dễ dàng tìm câu trả lời cho nó. ÔN LẠI KHÁI NIỆM VÀ CÂU HỎI SUY LUẬN Điều không thích hợp của chính sách cổ tức [LO2] Chi trả cổ tức có thể là rất quan trọng, nhưng đồng thời, chính sách cổ tức không thích hợp? Mua lại cổ phiếu [LO4] Tác động của việc mua lại cổ phiếu trên tỷ lệ nợ của công ty là gì? Điều này cho thấy sử dụng tiền mặt dư thừa? Cơ chế chi trả cố tức [LO1] Thứ 3, ngày 8/12, ban giám đốc Hometown Power Co tuyên bố chia cổ tức 75 cent trên mỗi cổ phiếu vào thứ Tư, ngày 17/1, khóa sổ vào thứ tư, ngày 3/1. Vậy ngày xác lập quyền hưởng cổ tức là ngày nào? Nếu một cổ đông mua cổ phiếu trước ngày đó, người mua hay người bán sẽ nhận được cổ tức từ cổ phiếu đó? Cổ tức thay thế [LO1] Một số công ty, như một công ty của Anh đã mời cổ đông lớn của nó sử dụng dịch vụ hoả táng miễn phí, trả cổ tức bằng hiện vật (có nghĩa là, họ cung cấp dịch vụ cho các cổ đông với giá thấp hơn thị trường). Quỹ tương hỗ có nên đầu tư vào cổ phiếu chi trả cổ tức bằng hiện vật? (The fund holders không nhận được các dịch vụ này) Cổ tức và giá cả cổ phiếu [LO1] Nếu tăng cổ tức sẽ có xu hướng (ngay lập tức) làm tăng giá cổ phiếu, làm thế nào có thể nói rằng chính sách cổ tức là không liên quan? Cổ tức và giá cả cổ phiếu [LO1] Tháng trước, công ty Central Virginia Power gặp vấn đề về chi phí quá lớn trong kế hoạch năng lượng nguyên tử mà họ đã xây dựng, có thông báo rằng: “ tạm đình chỉ thanh toán do các cuộc khủng hoảng liên quan đến dòng tiền trong kế hoạch đầu tư”. Giá cổ phiếu của công ty giảm từ 28.85 đôla xuống còn 25 đôla. Bạn giải thích như thế nào về hiện tượng này và nguyên nhân là gì? Kế hoạch tái đầu tư cổ tức [LO1] Tập đoàn DRK gần đây đang phát triển một kế hoạch tái đầu tư vào cổ tức. kế hoạch này cho phép nhà đầu tư tái đầu tư vào cổ tức bằng tiền mặt một cách tự động trong DRK để đổi lấy cổ phiếu mới. qua thời gian, nhà đầu tư trong DRK có thể xây dựng tổ chức của họ bằng tái đầu tư cổ tức để mua thêm cổ phiếu của công ty. Hơn 1000 công ty ủng hộ kế hoạch này. Hầu hết các công ty thực hiện kế hoạch này không mất phí môi gới hoặc dịch vụ thu phí. Trên thực tế, cổ phiếu của DRK sẽ được mua với mức chiết khấu 10% so với giá thị trường. Một nhà tư vấn cho DRK ước tính rằng khoảng 75% cổ đông của DRK sẽ tham gia kế hoạch này. Cao hơn một chút so với mức trung bình. Đánh giá kế hoạch này, nó có làm cho các cổ đông giàu hơn không? Nêu những lợi ích và tác hại có liên quan? Chính sách cổ tức [LO1] Về đầu ra của cổ phiếu phổ thông, năm 2010 là một năm tương đối chậm,tăng khoảng 30,7 triệu đô trong cả quá trình. Tương đối ít so với 94 công ty liên quan tới chia cổ tức tiền mặt. tại sao bạn nghĩ rằng hầu hết sẽ không chọn trả cổ tức bằng tiền mặt? Sử dụng những thông tin dưới đây để trả lời những câu tiếp theo: Trong lịch sử, mã số thuế ở mỹ điều chỉnh việc thanh toán cổ tức cho cổ đông như mức thu nhập bình thường. vì vậy, cổ tức bị đánh thuế tại mức thuế suất biên của các nhà đầu tư, lên tới 38,6% năm 2002. Tăng vốn đã được đánh thuế ở mức thuế trên vốn lợi nhuận. áp dụng giống nhau cho hầu hết các nhà đầu tư và giao động quanh năm. Năm 2002, thuế suất vốn tăng đứng yên ở mức 20%, trong một nỗ lực nhằm kích thích nền kinh tế, chủ tịch George W.Bush xem xét lại chính sách thuế bao gồm cả cổ tức và thuế suất vốn tăng. Chính sách thuế mới, thực hiện vào năm 2003, mức thuế suất 15% trên cả cổ tức và vốn tăng cho nhà đầu tư trong nhóm thuế cao hơn. Các nhà đầu tư trong nhóm thuế thấp hơn, thuế suất trên cổ tức và vốn tăng là 5% trong cả năm 2007 và xuống mức 0% năm 2008. Bạn nghĩ gì khi luật thuế này thay đổi ảnh hưởng đến giá cổ phiếu cũ? Bạn nghĩ gì khi luật này thay đổi tạo nên sức hấp dẫn hơn đối với việc mua lại cổ phiếu so với việc thanh toán cổ tức? BẢNG PHÂN CÔNG DANH SÁCH THÀNH VIÊN NỘI DUNG PHỤ TRÁCH Trần Thanh Đạt (Nhóm trưởng) Tổng hợp word hoàn chỉnh, hổ trợ làm powerpoint, thuyết trình phần 17.1 + 17.2 Trần Tố Hân Phụ trách nội dung phần 17.2, tổng hợp word, thuyết trình phần 17.3 +17.4 +17.5 Cao Hồng Tâm Phụ trách nội dung phần 17.4 + 17.6 Trần Thị Như Hiền Phụ trách nội dung phần 17.3 Vũ Minh Thụy Phụ trách nội dung phần 17.6 Trần Xuân Tiến Phụ trách nội dung phần 17.5 Nguyễn Thị Đào Phụ trách nội dung phần 17.1, thuyết trình phần 17.6 + 17.7 Phạm Thúy Hằng Phụ trách nội dung phần 17.7 Huỳnh Phan Ngọc Kim Ánh Phụ trách nội dung phần 17.7 Ngụy Ái Ngọc Phụ trách nội dung phần 17.8, thuyết trình phần 17.8 và 17.9 (Kết Luận) Nguyễn Phương Kỳ Duyên Phụ trách nội dung phần 17.8 Đào Thị Lê Yến Tổng hợp word và 10 câu hỏi review cuối chương Nguyễn Thị Hương Thơm Hiệu chỉnh hình thức và nội dung hoàn chỉnh cho bản word Nguyễn Thị Thu Thảo Phụ trách nội dung 5 câu hỏi review (6-10) Nguyễn Văn Thảnh Phụ trách nội dung 5 câu hỏi review (1-5) Nguyễn Thị Hồng Ngọc Phụ trách làm powerpoint

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxchinh_sach_co_tuc_tai_chinh_doanh_nghiep_2192.docx
Tài liệu liên quan