Đội ngũquản lý tiếp thịcó thểáp
dụng một trong năm định hướng thị
trường cạnh tranh với nhau. Khái niệm
sản xuấtcho rằng nhiệm vụcủa đội ngũ
quản lý là cải thiện hiệu quảsản xuất và
làm cho giá cảgiảm xuống. Khái niệm
sản phẩm (product concept)cho rằng
người tiêu dùng sẽ ủng hộcác sản phẩm
mang lại nhiều nhất xét vềchất lượng,
hiệu năng, và những đặc điểm có tính đổi
mới; nhưthế đòi hỏi ít nỗlực xúc tiến.
Khái niệm báncho rằng những người
tiêu dùng sẽkhông mua đủcác sản phẩm
của công ty trừkhi công ty thực hiện một
nỗlực xúc tiến và bán hàng qui mô lớn.
Khái niệm tiếp thị(marketing concept)
cho rằng việc đạt được các mục tiêu của
tổchức phụthuộc vào việc xác định
được các nhu cầu và các ước muốn của
các thịtrường mục tiêu và việc đem đến
những sựthỏa mãn được ao ước hữu hiệu
và hiệu quảhơn các đối thủcạnh tranh
đem đến. Khái niệm tiếp thịmang tính xã
hộicho rằng tạo ra sựthỏa mãn của khách
hàng vàphúc lợi xã hội dài hạn là chìa
khóa đểvừa đạt được các mục tiêu của
công ty và hoàn thành các trách nhiệm
của công ty.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2064 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý các mối quan hệ có lợi với khách hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mối quan
hệ với khách hàng. Sự thích thú của khách hàng tạo ra một mối quan hệ về xúc cảm với một
sản phẩm hay dịch vụ, chứ không chỉ là một sự ưa thích hơn dựa trên suy nghĩ hợp lý. Công ty
Bean, được biết đến từ lâu về dịch vụ khách hàng xuất chúng và mức độ trung thành của khách
hàng cao, đã đề cao “qui tắc vàng” sau đây: Bán hàng hóa tốt, xem các khách hàng của bạn là
con người, và họ sẽ luôn luôn quay trở lại mua thêm”. Bám chắc khách hàng “thật là cơ bản,
là sợ hãi” một nhà điều hành tiếp thị khẳng định “Chúng tôi tìm hiểu nhu cầu và ước muốn của
các khách hàng của chúng tôi là gì, và sau đó chúng tôi đem giao vượt quá mức.”24
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
22
Làm tăng Tỷ phần Khách hàng
Ngoài việc chỉ đơn giản giữ chân các khách hàng tốt để thu nhận giá trị cả đời của khách
hàng, việc quản lý mối quan hệ với khách hàng tốt có thể giúp các nhà tiếp thị làm tăng
tỷ phần khách hàng (share of customer) của họ – đó là phần mua sắm của khách hàng
này mà họ nhận được trong các chủng loại sản phẩm của họ. Nhiều nhà tiếp thị hiện
đang bỏ ra ít thời gian hơn để tìm cách thức gia tăng tỷ phần thị trường và nhiều thời
gian hơn để cố gắng làm tăng tỷ phần khách hàng. Theo đó, các ngân hàng muốn gia
tăng “tỷ phần ví tiền”. Các siêu thị và các nhà hàng muốn có được “tỷ phần bao tử”
nhiều hơn. Các công ty xe hơi muốn gia tăng “tỷ phần garage” và các công ty hàng
không muốn “tỷ phần di chuyển” lớn hơn.
Để gia tăng tỷ phần khách hàng, các công ty có thể phát huy các mối quan hệ với khách
hàng bằng cách cung cấp sự đa dạng nhiều hơn cho các khách hàng hiện tại. Hoặc họ có
thể huấn luyện nhiều nhân viên bán chéo (cross-sell) hay bán bổ sung (up-sell) để bán
được nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn cho các khách hàng hiện hữu. Thí dụ Amazon.com
rất thành thạo trong việc phát huy các mối quan hệ với 35 triệu khách hàng của nó để
làm tăng tỷ phần của nó trong những khoản mua sắm của mỗi khách hàng. Ban đầu là
một người bán sách trực tuyến, Amazon hiện cung cấp cho các khách hàng âm nhạc,
videos, quà tặng, đồ chơi, hàng điện tử tiêu dùng, các sản phẩm văn phòng, các mặt hàng
cải thiện nhà cửa, các sản phẩm làm vườn và xén cỏ, hàng may mặc và phụ tùng trang
phục, và cuộc đầu giá trực tuyến. Ngoài ra, dựa trên lịch sử mua sắm của mỗi khách
hàng, công ty khuyến nghị các cuốn sách, CDs, hay videos liên quan mà chúng có thể
được khách hàng quan tâm. Theo cách này, Amazon.com chiếm được một tỷ phần lớn
hơn trong ngân quỹ tiêu khiển và giải trí của mỗi khách hàng.
Tỷ phần
khách hàng
Phần mua
sắm của
khách hàng
mà một công
ty nhận được
trong các
chủng loại
sản phẩm
của công ty.
Giá trị cả đời của
khách hàng
Để làm cho các khách
hàng tiếp tục quay trở
lại, Stew Leonard’s đã
tạo ra “Disneyland của
các cửa hàng bơ sữa.
Qui tắc 1: - khách
hàng luôn luôn đúng.
Qui tắc 2 – Nếu lúc
nào đó khách hàng sai,
hãy đọc qui tắc 1.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
23
Tạo lập Vốn Cổ phần Khách hàng (Building Customer Equity)
Bây giờ chúng ta có thể nhận thấy tầm quan trọng không chỉ của việc kiếm được các
khách hàng, mà còn việc giữ và phát triển họ nữa. Việc quản lý mối quan hệ với khách
hàng có một cách nhìn dài hạn. Các công ty mong muốn không chỉ tạo ra các khách
hàng có lời, mà còn “sở hữu” họ suốt đời, thu nhận giá trị cả đời của khách hàng, và
chiếm được tỷ phần lớn hơn trong các khoản mua sắm của họ.
Vốn Cổ phần Khách hàng là gì?
Mục đích sau cùng của việc quản lý mối quan hệ với khách hàng là tạo ra vốn cổ phần
khách hàng (customer equity) cao.25 Vốn cổ phần khách hàng là các giá trị cả đời của
khách hàng đã chiết khấu và kết hợp lại của tất cả các khách hàng hiện tại và tiềm năng
của công ty. Rõ ràng là các khách hàng có lời của công ty càng trung thành thì vốn cổ
phần khách hàng của công ty càng cao. Vốn cổ phần khách hàng có thể là một thước đo
tốt hơn về kết quả hoạt động của một công ty so với doanh thu hay thị phần hiện tại.
Trong khi doanh thu hay thị phần phản ánh quá khứ, thì vốn cổ phần của khách hàng gợi
ra tương lai.
Xây dựng các Mối Quan hệ Thích hợp với các Khách hàng Thích hợp.
Các công ty phải quản lý vốn cổ phần khách hàng cẩn thận. Họ phải xem khách hàng
như tài sản cần phải được quản lý và tối đa hóa. Nhưng không phải tất cả khách hàng,
thậm chí không phải tất cả khách hàng trung thành, đều là những đầu tư tốt. Thật đáng
ngạc nhiên là một số khách hàng trung thành có thể không có lời, và một số khách hàng
không trung thành có thể có lời. Công ty nên thu nhận và giữ chân những khách hàng
nào? “Ở mức độ nào đó, sự chọn lựa thật là hiển nhiên: Giữ chân những người chi tiêu
Vốn Cổ phần
Khách hàng
Tổng số các
giá trị cả đời
của khách
hàng kết hợp
lại của tất cả
các khách
hàng của
công ty.
HÌNH 1.5
Các nhóm quan hệ
khách hàng
Nguồn: In lại với sự cho
phép của Tạp chí Kinh
doanh Havard. Phỏng
theo “Việc Quản lý Sự
Trung thành của Khách
hàng” của Werner
Relnartz và V. Kumar,
tháng 7/2002, trang 93.
Bản quyền @ của chủ
tịch và thành viên của
Đại học Havard; giữ
nguyên bản quyền,
cấm in ấn lại.
Khả năng
sinh lời cao
Khả năng
Sinh lời
Tiềm năng
Con Bươm Bướm
Sự thích hợp tốt giữa
hàng chào bán của
công ty và nhu cầu của
khách hàng; tiềm năng
lợi nhuận cao
Người bạn Đích thực
Sự thích hợp tốt giữa
hàng chào bán của công
ty và nhu cầu của khách
hàng; tiềm năng lợi
nhuận cao nhất
Khả năng
sinh lời thấp
Người lạ
Sự thích hợp ít giữa
hàng chào bán của
công ty và nhu cầu của
khách hàng; tiềm năng
lợi nhuận thấp nhất
Con Hàu
Sự thích hợp hạn chế
giữa hàng chào bán
của công ty và nhu cầu
của khách hàng; tiềm
năng lợi nhuận thấp
Các khách hàng ngắn hạn Các khách hàng dài hạn
Mức độ trung thành dự phóng
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
24
nhiều tiền đều đặn và bỏ đi những người chi tiêu ít tiền và thất thường”, một chuyên gia
nói. “Nhưng còn những người chi tiêu nhiều tiền thất thường và những người chi tiêu ít
tiền đều đặn thì sao? Thường không rõ liệu có nên thu nhận hoặc giữ chân họ hay
không, và phải trả bằng giá nào?
Công ty có thể phân loại các khách hàng dựa theo khả năng sinh lời tiềm năng của họ và
quản lý các mối quan hệ của công ty với họ một cách phù hợp. Hình 1.5 phân loại các
khách hàng thành một trong bốn nhóm quan hệ, dựa theo khả năng sinh lời và mức độ
trung thành dự phóng.28 Mỗi nhóm đòi hỏi một chiến lược quản lý mối quan hệ riêng
biệt. “Những người lạ” biểu hiện khả năng sinh lời thấp và mức độ trung thành dự
phóng ít.
Có sự thích hợp ít giữa hàng chào bán (offerings) của công ty và nhu cầu của họ. Chiến
lược quản lý mối quan hệ đối với các khách hàng này thật là đơn giản: không đầu tư bất
cứ gì vào họ.
“Những Con Bươm Bướm” là các khách hàng có lời nhưng không trung thành. Có sự
thích hợp tốt giữa hàng chào bán của công ty và nhu cầu của họ. Tuy nhiên, giống như
các con bươm bướm thật, chúng ta có thể thưởng thức vẻ đẹp của chúng trong chỉ một
thời gian ngắn, rồi chúng bay đi mất. Một thí dụ là các nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán mua bán các cổ phiếu nhiều lần với những số lượng lớn, nhưng họ thích tìm cho ra
những doanh vụ tốt nhất mà không xây dựng mối quan hệ thường xuyên với bất cứ công
ty môi giới nào. Những nỗ lực nhằm chuyển đổi những con bươm bướm này thành các
khách hàng trung thành hiếm khi thành công. Thay vào đó, công ty nên thưởng thức các
con bươm bướm tạm thời ngay lúc này. Công ty nên sử dụng những nỗ lực chớp nhoáng
về xúc tiến để thu hút họ, tạo ra những giao dịch có lời và làm họ thỏa mãn, và sau đó
chấm dứt đầu tư vào họ cho đến lần sau.
“Những người bạn đích thực” là vừa có lời vừa trung thành. Có sự thích hợp rất tốt giữa
nhu cầu của họ và hàng chào bán của công ty. Công ty muốn thực hiện những đầu tư xây
dựng mối quan hệ liên tục để làm cho các khách hàng này thích thú và để chăm sóc, giữ
chân, và phát triển họ. Công ty muốn chuyển đổi những người bạn đích thực thành
“những tín đồ đích thực”, những người trở lại đều đặn và nói cho những người khác biết
về những trải nghiệm tốt đẹp của mình với công ty này.
“Những con hàu” là rất trung thành nhưng không có lời lắm. Có sự thích hợp hạn chế
giữa nhu cầu của họ và hàng chào bán của công ty. Một thí dụ là các khách hàng nhỏ
hơn của ngân hàng mà họ gởi tiền vào ngân hàng đều đặn, nhưng không tạo ra đủ lợi
nhuận để trang trải các chi phí duy trì tài khoản của họ. Giống như những con hàu bám
vào thân tàu, họ tạo ra sức cản. Những con hàu có lẽ là các khách hàng gây rắc rối nhất.
Công ty có thể có khả năng cải thiện khả năng sinh lời của họ bằng cách bán cho họ
nhiều hơn, tăng các khoản phí áp dụng cho họ, hay giảm dịch vụ đối với họ. Tuy nhiên,
nếu không thể làm cho họ có lời, thì họ phải bị “sa thải”.
Luận điểm ở đây là một luận điểm quan trọng: Các loại khách hàng khác nhau đòi hỏi
các chiến lược khác nhau về quản lý mối quan hệ. Mục tiêu là xây dựng các mối quan
hệ thích hợp với các khách hàng thích hợp.29
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
25
Quang cảnh Tiếp thị Mới
Khi thế giới tiến vào thập niên đầu tiên của thế kỷ hai mươi mốt, những thay đổi ngoạn
mục đang diễn ra trên thương trường. Richard Love làm việc tại công ty Hewlett-
Packard nhận định, “Nhịp độ thay đổi nhanh đến mức mà khả năng thay đổi hiện đã trở
thành một lợi thế cạnh tranh”. Yogi Berra, người bắt bóng nổi tiếng của New York
Yankees, tóm tắt đon giản hơn khi ông nói. “Tương lai không phải là những gì đã xảy ra
hồi trước.” Khi thương trường thay đổi, thì những người phục vụ nó cũng phải thay đổi”
Trong phần này, chúng ta xem xét các xu hướng và các lực lượng chính đang làm thay đổi
quang cảnh tiếp thị và đang thách thức chiến lược tiếp thị. Chúng ta xem xét bốn sự phát
triển chính: thời đại số mới, toàn cầu hóa nhanh chóng, lời kêu gọi phải có nhiều qui tắc
đạo đức và trách nhiệm xã hội hơn, và sự phát triển của việc tiếp thị không vì lợi nhuận.
Thời đại Số Mới (The New Digital Age)
Sự bùng nổ công nghệ gần đây đã tạo ra một thời đại số mới. Sự tăng trưởng mãnh liệt
trong các công nghệ máy tính, viễn thông, thông tin, giao thông vận tải, và các công nghệ
khác đã có tác động lớn đến những cách thức các công ty đem đến giá trị cho các khách
hàng của họ.
Bây giờ, hơn lúc nào hết, chúng ta đều được nối kết với nhau và với những thứ ở khắp
mọi nơi trên thế giới chung quanh chúng ta. Trong khi trước kia đã từng mất ba tuần hay
ba tháng để di chuyển băng qua Hoa Kỳ, thì bây giờ chúng ta có thể di chuyển vòng
quanh thế giới chỉ trong vài giờ hay vài ngày. Trong khi trước kia đã từng mất vài ngày
hay hàng tuần mới nhận được tin tức về các sự kiện quan trọng trên thế giới, thì bây giờ
chúng ta xem các sự kiện này khi chúng đang diễn ra thông qua các chương trình truyền
hình vệ tinh phát trực tiếp. Trong khi trước kia đã từng mất hàng tuần để trao đổi thư từ
với những người khác ở những nơi xa xôi, thì bây giờ họ chỉ cách nhau trong phút chốc
qua điện thoại hay Internet.
Sự bùng nổ công nghệ đã tạo ra những cách thức mới thật lý thú để tìm hiểu và theo dấu
khách hàng, và để làm ra các sản phẩm và dịch vụ được điều chỉnh cho thích hợp với nhu
cầu của từng khách hàng riêng lẻ. Công nghệ cũng đang giúp các công ty phân phối các
sản phẩm hiệu quả và hữu hiệu hơn. Và nó đang giúp các công ty truyền thông với các
khách hàng theo các nhóm lớn hay theo cách một đối một.
Thông qua việc hội nghị qua video, các nhà nghiên cứu tiếp thị tại các trụ sở của một
công ty ở New York có thể ghé thăm các nhóm trọng tâm ở Chicago hay Paris mà không
bước lên máy bay bao giờ. Với chỉ vài cái nhấp chuột, một nhà tiếp thị trực tiếp có thể
sử dụng các dịch vụ dữ liệu trực tuyến để biết được bất cứ điều gì, từ việc bạn lái xe hơi
gì đến việc bạn đọc gì đến việc bạn thích mùi vị gì của kem hơn. Hoặc là, bằng cách sử
dụng các máy tính mạnh của ngày hôm nay, các nhà tiếp thị có thể lập ra các cơ sở dữ
liệu khách hàng chi tiết riêng của mình và sử dụng chúng để nhắm vào các khách hàng
đơn lẻ bằng các chào hàng dành để đáp ứng nhu cầu riêng biệt của các khách hàng này.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
26
Công nghệ cũng đã mang theo một làn sóng mới các công cụ truyền thông và quảng cáo
– từ điện thoại di động, máy fax, bộ nhớ chỉ đọc đĩa compac (CD-ROM), và truyền hình
tương tác đến ki-ốt video ở các sân bay và các trung tâm mua sắm. Các nhà tiếp thị có
thể sử dụng các công cụ này để tập trung vào các khách hàng chọn lọc, với những thông
điệp được định mục tiêu cẩn thận. Thông qua thương mại điện tử, các khách hàng có thể
biết, thiết kế, đặt hàng, và trả tiền các sản phẩm và dịch vụ - mà không ra khỏi nhà bao
giờ. Sau đó, thông qua kết quả tuyệt vời của dịch vụ chuyển phát nhanh, họ có thể nhận
được những thứ đã mua trong vòng 24 giờ. Từ các bộ hiển thị thực tế ảo mà chúng kiểm
nghiệm các sản phẩm mới, đến các cửa hàng ảo trực tuyến bán các sản phẩm mới này, sự
bùng nổ công nghệ đang ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của tiếp thị.
Internet (Liên mạng)
Có lẽ công nghệ mới ngoạn mục nhất chính là Internet. Ngày nay, Internet liên kết các
cá nhân và các doanh nghiệp, thuộc tất cả các loại, với nhau và với thông tin khắp thế
giới. Internet đã được công khai loan báo như là công nghệ đằng sau một Nến Kinh tế
Mới. Nó cho phép kết nối, mọi lúc mọi nơi, đến thông tin, giải trí, và truyền thông. Các
công ty đang sử dụng Internet để xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ hơn với các khách
hàng và các đối tác tiếp thị. Ngoài việc cạnh tranh trên các địa điểm họp chợ (market
places) truyền thống, họ hiện tiếp cận được các không gian họp chợ (market space) mới
thật lý thú.
Mức độ sử dụng internet đã tăng vọt trong thập niên 1990 với việc phát triển World
Wide Web thân thiện với người sử dụng. Bước vào thế kỷ 21, mức thâm nhập của
Internet vào Hoa Kỳ đạt 63 phần trăm, với hơn 186 triệu người truy cập Web trong bất
kỳ tháng nào. Internet thật sự là một hiện tượng toàn cầu – số người sử dụng Internet
trên toàn thế giới đạt 719 triệu trong năm vừa qua và dự kiến đến năm 2007 sẽ đạt gần
Internet
(Internetwor
k: Liên
mạng)
Một mạng
công cộng
rộng lớn của
các mạng
máy tính, kết
nối những
người sử
dụng thuộc
tất cả các
loại trên khắp
thế giới với
nhau và với
một kho
chứa thông
tin lớn đáng
kinh ngạc.
Thời đại Số Mới
Sự bùng nổ công
nghệ gần đây đã có
tác động lớn đến
những cách thức
các nhà tiếp thị nối
kết với khách hàng
và đem đến giá trị
cho khách hàng
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
27
1,5 tỷ.30 Dân số Internet đa dạng và ngày càng tăng này có nghĩa là mọi loại người hiện
đang vào Web side để tìm kiếm thông tin và mua các sản phẩm và dịch vụ.
Những ngày này, thật khó tìm ra một công ty không sử dụng Web trong một chừng mực
đáng kể. Hầu hết các công ty “gạch-và-vữa” (“brick-and-mortar”: doanh nghiệp truyền
thống, không hoạt động trên Internet) bây giờ đều trở thành các công ty (“nhấp chuột-và-
vữa” (“click-and-mortar”: doanh nghiệp hoạt động theo cách thức truyền thống và bằng
việc sử dụng Internet). Chúng đã dám hoạt động trực tuyến để thu hút các khách hàng
mới và xây dựng các mối quan hệ mạnh hơn với các khách hàng hiện hữu. Internet cũng
sản sinh ra một loại công ty hoàn toàn mới, đó là các công ty “chỉ nhấp chuột” (“click-
only”: chỉ kinh doanh trên Internet) – cái gọi là “dot-coms”. Trong suốt thời kỳ cuồng
nhiệt của Web vào cuối thập niên 1990, dot-coms nhanh chóng xuất hiện khắp nơi, bán
qua Internet bất cứ thứ gì, từ sách, đồ chơi và đĩa CD đến đồ đạc trong nhà, hợp đồng thế
chấp nhà, và thực phẩm cho chó đựng trong bao 100 cân Anh. Sự cuồng nhiệt nguội đi
trong thời kỳ “đổ bể dot-com” vào năm 2000, khi nhiều công ty bán hàng trên Internet
(e-tailers) được chuẩn bị và nhận thức kém và các công ty khởi nghiệp trên Web khác
chấm dứt hoạt động kinh doanh. Ngày nay, bất chấp sự khởi đầu hỗn loạn của nó, việc
mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng đang tăng trưởng với tốc độ cao, và nhiều trong
số các công ty dot-com sống sót đối diện với tương lai đầy hứa hẹn. Hơn một nửa các
công ty còn tồn tại sau đợt đổ bể dot-com nói trên hiện có lời.31
Mặc dù thương mại điện tử tiêu dùng (consumer e-commerce) trông có vẻ đầy hứa hẹn,
thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (business-to-business e-
commerce) đúng là đang phát triển mạnh. Các giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp dự phóng đạt 4,3 ngàn tỷ đô la năm nay, so với chỉ có 107 tỷ đô la mua sắm tiêu
dùng. Dường như là hầu hết mọi doanh nghiệp đều đã thiết lập cửa hàng trên Web. Các
công ty khổng lồ như là GE, IBM, Dell, Cisco Systems, Microsoft, và nhiều công ty khác
đã hành động nhanh chóng để khai thác sức mạnh của Internet.32
Như thế, sự bùng nổ công nghệ đang tạo ra những cơ hội mới thật thú vị cho các nhà tiếp
thị. Chúng ta sẽ xem xét kỹ tác động của thời đại số mới chi tiết hơn trong Chương 18.
Toàn Cầu hóa Nhanh chóng
Vì họ đang định rõ lại các mối quan hệ của họ với các khách hàng và các đối tác, nên các
nhà tiếp thị cũng đang có một cái nhìn mới về những phương cách họ nối kết với thế giới
rộng lớn hơn xung quanh họ. Trong một thế giới ngày càng nhỏ lại, nhiều nhà tiếp thị
hiện nối kết toàn cầu với các khách hàng và các đối tác tiếp thị của họ.
Ngày nay, hầu hết mọi công ty, dù lớn hay nhỏ, đều chịu ảnh hưởng trong một chừng
mực nào đó của sự cạnh tranh toàn cầu. Người bán hoa kế cận mua hoa từ các vườn
trồng hoa ở Mêhicô, trong khi một nhà sản xuất lớn về sản phẩm điện tử ở Hoa Kỳ cạnh
tranh ngay trên các thị trường trong nước với các đối thủ Nhật Bản. Một người bán lẻ
qua Internet và còn thiếu kinh nghiệm chợt phát hiện mình đang nhận các đơn đặt hàng
từ khắp nơi trên thế giới, đồng thời với việc một nhà sản xuất hàng tiêu dùng Hoa Kỳ
đưa các sản phẩm mới vào các thị trường mới nổi ở nước ngoài.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
28
Các công ty Hoa Kỳ đã và đang bị thách thức tại nước nhà bởi việc tiếp thị thành thạo
của các công ty đa quốc gia châu Á và châu Âu. Các công ty như là Toyota, Siemens,
Nestle, Sony, và Samsung thường hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh Hoa Kỳ trên
các thị trường Hoa Kỳ. Tương tự, các công ty Hoa Kỳ, trong một loạt nhiều ngành công
nghiệp, đã tìm thấy các cơ hội mới ở nước ngoài. General Motors, ExxonMobil, IBM,
General Electric, Microsoft, DuPont, và hàng tá công ty Hoa Kỳ khác đã phát triển các
hoạt động toàn cầu thật sự, sản xuất và bán các sản phẩm của họ trên toàn cầu. Coca-
Cola cung cấp một số khó mà tưởng tượng được là 300 nhãn hiệu khác nhau trong hơn
200 quốc gia. Ngay cả MTV cũng đã gia nhập tầng lớp các nhãn hiệu toàn cầu ưu tú,
đem đến các phiên bản địa phương hóa của sản phẩm pulse thumping fare cho thanh
thiếu niên ở 140 quốc gia khắp thế giới (hãy xem Tiếp thị Thực tế 1.2).
Ngày nay, các công ty không những đang cố gắng bán hàng hóa được sản xuất trong
nước của họ nhiều hơn trên các thị trường quốc tế, mà họ còn đang mua tiếp liệu và linh
kiện từ nước ngoài nhiều hơn. Thí dụ, Bill Blass, một trong những nhà thiết kế thời
trang hàng đầu của Hoa Kỳ, có thể chọn vải được dệt từ len của Úc với các hoa văn được
in ở Ý. Ông sẽ thiết kế một chiếc áo đầm dài và gởi qua thư điện tử bản vẽ cho một đại
diện ở Hồng Kông, người sẽ đặt đơn hàng với một xí nghiệp Trung Quốc. Những chiếc
áo đầm đã hoàn tất sẽ được chuyên chở bằng máy bay sang New York, nơi đây chúng sẽ
được tái phân phối đến các cửa hàng bách hóa và các cửa hàng chuyên về thời trang khắp
đất nước Hoa Kỳ.
Như thế, các nhà quản lý ở các quốc gia khắp thế giới ngày càng có cái nhìn toàn cầu,
chứ không chỉ địa phương, về ngành, các đối thủ cạnh tranh, và các cơ hội của công ty.
Họ đang nêu câu hỏi: Tiếp thị toàn cầu là gì? Nó khác với tiếp thị nội địa như thế nào?
Các đối thủ cạnh tranh và các lực luợng toàn cầu ảnh hưởng đến doanh nghiệp của chúng
tôi như thế nào? Chúng tôi nên “trở thành toàn cầu” đến mức độ nào? chúng ta sẽ thảo
luận về thương trường toàn cầu chi tiết hơn trong Chương 19.
Lời Kêu gọi Phải có Nhiều Qui tắc Đạo đức và Trách nhiệm Xã hội Hơn
Các nhà tiếp thị đang xem xét lại các mối quan hệ của họ với các giá trị xã hội và các
trách nhiệm xã hội, cũng như với chính Trái Đất vốn duy trì sự sống của chúng ta. Bởi
vì các phong trào bảo vệ môi trường và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng trên khắp thế giới
trở nên chín chắn, nên các nhà tiếp thị của ngày hôm nay đang được kêu gọi nhận trách
nhiệm nhiều hơn về tác động xã hội và môi trường của các hành động của họ. Các qui
tắc đạo đức công ty và trách nhiệm xã hội trở thành những đề tài nóng bỏng đối với hầu
như mọi doanh nghiệp. Và không có bao nhiêu công ty có thể bỏ qua phong trào bảo vệ
môi trường với sinh khí mới và đòi hỏi rất cao.
Các phong trào về trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường sẽ đặt ra những yêu cầu thậm
chí còn nghiêm ngặt hơn đối với các công ty trong tương lai. Một số công ty kháng cự
các phong trào này, chỉ chuyển động một ít khi bị ép buộc bởi luật hay những vụ phản
đối kịch liệt của người tiêu dùng có tổ chức. Tuy nhiên, các công ty tiến bộ hơn sẵn sàng
chấp nhận các trách nhiệm của mình đối với thế giới xung quanh mình. Các công ty này
xem những hành động có trách nhiệm về mặt xã hội như là một cơ hội để tiến triển tốt
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
29
bằng cách gây tác động tốt. Họ tìm những phương cách để hưởng lợi bằng việc phục vụ
các lợi ích dài hạn tốt nhất của các khách hàng và các cộng đồng của họ.
Một số công ty – chẳng hạn như Ben & Jerry’s, Saturn, Honest Tea, và các công ty khác
– đang thực hành “chủ nghĩa tư bản biết lo lắng” (“caring capitalism”) và phân biệt bản
thân mình qua việc có tư tưởng công dân hơn và biết lo lắng. Các công ty này đang gắn
trách nhiệm và hành động xã hội vào trong giá trị công ty và lời phát biểu về sứ mệnh
của mình. Thí dụ, hãy xét Ben & Terry’s, một bộ phận của Unilever. Lời phát biểu về
sứ mệnh của nó thách thức tất cả mọi người làm công, từ đội ngũ quản lý cao cấp đến
những nhân viên múc kem trong mỗi cửa hàng, đưa mối quan tâm về phúc lợi của cá
nhân và cộng đồng vào trong các quyết định thường nhật của họ. Chúng ta sẽ thảo luận
lại mối quan hệ giữa tiếp thị và trách nhiệm xã hội chi tiết hơn trong Chương 20.33
Sự Phát triển của Tiếp thị không vì Lợi nhuận
Trong quá khứ, tiếp thị đã được áp dụng rộng rãi nhất trong khu vực kinh doanh vì lợi
nhuận. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tiếp thị cũng đã trở thành một phần quan
trọng trong các chiến lược của nhiều tổ chức không vì lợi nhuận, như là các trường đại
học, bệnh viện, viện bảo tàng, các dàn nhạc giao hưởng, và thậm chí cả các nhà thờ.
Thí dụ, các trường đại học tư nhân, đối mặt với những mức ghi danh nhập học sụt giảm
và các chi phí tăng lên, đang sử dụng tiếp thị để cạnh tranh giành sinh viên và các quỹ
tiền. Nhiều nhóm nghệ thuật biểu diễn – ngay cả Công ty Opêra Lyric của Chicago, vốn
có những buổi biểu diễn theo mùa bán hết sạch vé – đối mặt với các khoản thâm hụt
trong hoạt động rất lớn mà họ phải trang trải bằng việc tiếp thị năng nổ với các nhà tài
trợ. Cuối cùng, nhiều tổ chức không vì lợi nhuận có danh tiếng từ lâu – YMCA,
Salvation Army, Girl Scouts – đã sút giảm hội viên và bây giờ đang hiện đại hóa sứ
mệnh và “các sản phẩm” của họ để thu hút thêm hội viên và các nhà tài trợ.35
Các cơ quan chính phủ cũng thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến tiếp thị. Thí dụ, Quân đội
Hoa Kỳ có một kế hoạch tiếp thị để thu hút tân binh, và nhiều cơ quan khác nhau của chính
phủ hiện đang thiết kế một chiến dịch tiếp thị xã hội để khuyến khích bảo toàn năng lượng
và quan tâm đến môi trường hay làm nản lòng việc hút thuốc, uống rượu quá mức, và sử
dụng ma túy. Ngay cả Cục Bưu điện Hoa Kỳ, trước kia ù lì, cũng đã xây dựng chương
trình tiếp thị có tính đổi mới để bán các con tem tưởng niệm, xúc tiến các dịch vụ thư từ,
bưu phẩm ưu tiên của mình để cạnh tranh với các dịch vụ này của các đối thủ; và nâng cao
hình ảnh của mình. Tính chung, chính phủ Hoa Kỳ là một nhà quảng cáo lớn thứ hai mươi
bốn của quốc gia, với ngân sách quảng cáo hàng năm là hơn 1 tỷ đô la.36
Vậy thì, Tiếp thị là Gì?
Kết hợp Tất cả Với nhau
Ở phần đầu của chương này, Hình 1.1 trình bày một mô hình đơn giản về qui trình tiếp thị.
Bởi vì chúng ta đã thảo luận về tất cả các bước trong mô hình này, Hình 1.6 trình bày một
hình mở rộng mà sẽ giúp Anh/Chị kết hợp tất cả với nhau. Tiếp thị là gì? Diễn đạt một
cách đơn giản, tiếp thị là qui trình xây dựng các mối quan hệ có lợi với khách hàng, bằng
cách tạo ra giá trị cho các khách hàng và đổi lại, thu nhận giá trị từ khách hàng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
30
Bốn bước đầu của qui trình tiếp thị tập trung vào việc tạo ra giá trị cho các khách hàng.
Công ty trước hết có được sự hiểu biết đầy đủ về thương trường bằng cách nghiên cứu
các nhu cầu của người tiêu dùng và quản lý thông tin tiếp thị. Sau đó, công ty thiết kế
một chiến lược tiếp thị được thúc đẩy bởi khách hàng, dựa trên các câu trả lời cho hai
câu hỏi đơn giản. Câu hỏi thứ nhất là “Những người tiêu dùng nào chúng ta sẽ phục
vụ?” (sự phân khúc thị trường và định mục tiêu). Các công ty tiếp thị giỏi biết rằng họ
không thể phục vụ tất cả khách hàng về mọi mặt. Thay vào đó, họ cần phải tập trung các
nguồn lực của họ vào các khách hàng họ có thể phục vụ tốt nhất và có lợi nhất. Câu hỏi
thứ hai về chiến lược tiếp thị là “Làm thế nào chúng ta có thể phục vụ tốt nhất các khách
hàng mục tiêu?” (sự phân biệt sản phẩm và xác định vị trí (định vị)); ở đây, nhà tiếp thị
phác thảo một lời xác nhận giá trị nêu rõ công ty sẽ đem đến những giá trị gì để giành
được các khách hàng mục tiêu.
Tạo ra giá trị cho các khách hàng và xây
dựng các mối quan hệ với khách hàng
Đổi lại, thu nhận giá
trị từ các khách hàng
Thiết kế một
chiến lược tiếp
thị được thúc
đẩy bởi khách
hàng
Xây dựng một
chuơng trình tiếp
thị mang đến giá trị
vượt trội cho khách
hàng
Xây dựng các mối
quan hệ có lợi và tạo ra
sự thích thú cho
khách hàng
Thu nhận giá trị
từ các khách
hàng để tạo ra
lợi nhuận và
chất lượng
khách hàng
HÌNH 1.6
Mô hình mở rộng về qui trình tiếp thị
Hiểu biết thị
trường và nhu
cầu cũng như
ước muốn của
khách hàng
Hiểu biết thị
trường và nhu
cầu cũng như
ước muốn của
khách hàng
Chọn lọc các
khách hàng để
phục vụ: sự phân
khúc thị trường và
định mục tiêu
Thiết kế sản phẩm
và dịch vụ: xây dựng
các nhãn hiệu mạnh
Quản lý mối quan
hệ với khách
hàng: xay dựng
các mối quan hệ
mạnh với các
khách hàng được
chọn
Tạo ra các khách
hàng thỏa mãn và
trung thành
Thu nhận giá trị cả
đời của khách
hàng
Gia tăng tỷ phần
thị trường và tỷ
phần khách hàng
Nghiên cứu người
tiêu dùng và
thương trường
Quản lý thông tin
tiếp thị và dữ liệu
về khách hàng
Quyết định về lời
xác nhận giá trị:
sự phân biệt sản
phẩm và xác định
vị trí
Định giá:
tạo ra giá trị thực tế
Phân phối:
quản lý các chuỗi
cung và cầu
Xúc tiến:
truyền thông lời xác
nhận giá trị
Quản lý mối quan
hệ đối tác: xây
dựng các mối
quan hệ mạnh với
các đối tác tiếp thị
Nắm vững và
Điều khiển công
nghệ tiếp thị
Quản lý các thị
trường toàn cầu
Đảm bảo trách
nhiệm xã hội và về
đạo đức
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
31
Với chiến lược tiếp thị đã được quyết định, bây giờ công ty tạo lập một chương trình tiếp
thị - gồm có bốn thành phần của hỗn hợp tiếp thị, hay bốn P – chuyển đổi chiến lược tiếp
thị thành giá trị thực tế cho các khách hàng. Công ty phát triển các sản phẩm chào bán
(product offers) và tạo ra những đặc trưng nhận dạng nhãn hiệu mạnh cho chúng. Công
ty định giá các sản phẩm chào bán (offers) này để tạo ra giá trị thực tế cho khách hàng và
phân phối sản phẩm chào bán này để làm cho chúng có sẵn cho các khách hàng mục tiêu.
Cuối cùng, công ty thiết kế các chương trình xúc tiến, mà chúng truyền thông lời xác
nhận giá trị đến các khách hàng mục tiêu và thuyết phục họ hành động đáp ứng thuận lợi
trước hàng chào tiếp thị (marketing offer).
Có lẽ bước quan trọng nhất trong qui trình tiếp thị liên quan đến việc xây dựng các mối
quan hệ có lợi, mang nhiều giá trị, với các khách hàng mục tiêu. Suốt từ đầu đến cuối
qui trình này, các nhà tiếp thị thực hành việc quản lý mối quan hệ với khách hàng để tạo
ra sự thỏa mãn và sự thích thú của khách hàng. Tuy nhiên, trong việc tạo ra giá trị cho
khách hàng và các mối quan hệ với khách hàng, công ty không thể làm việc đơn thương
độc mã. Công ty phải làm việc chặt chẽ với các đối tác tiếp thị, cả bên trong công ty lẫn
khắp hệ thống tiếp thị. Như thế, ngoài việc thực hành sự quản lý mối quan hệ với khách
hàng thật tốt, các công ty còn phải thực hành sự quản lý mối quan hệ với đối tác thật tốt.
Bốn bước đầu trong qui trình tiếp thị tạo ra giá trị cho các khách hàng. Trong bước cuối
cùng, công ty gặt hái những phần thưởng của các mối quan hệ với khách hàng mạnh của
mình bằng việc thu nhận giá trị từ các khách hàng. Việc đem đến giá trị vượt trội cho
khách hàng tạo ra những khách hàng rất thỏa mãn mà sẽ mua nhiều hơn và sẽ mua lại
nữa. Điều này giúp công ty thu nhận được giá trị cả đời của khách hàng và tỷ phần
khách hàng lớn hơn. Kết quả là công ty nhận được vốn cổ phần khách hàng dài hạn gia
tăng.
Cuối cùng, đối mặt với quang cảnh tiếp thị đang thay đổi của ngày hôm nay, các công ty
phải tính đến ba yếu tố bổ sung. Trong việc xây dựng các mối quan hệ với khách hàng
và đối tác, công ty phải nắm vững và điều khiển công nghệ tiếp thị, tận dụng các cơ hội
toàn cầu, và đảm bảo rằng họ hành động theo cách có trách nhiệm về xã hội và đạo đức.
Hình 1.6 cung cấp một bản chỉ dẫn tốt về các chương sắp tới của cuốn sách này. Các
Chương 1 và 2 giới thiệu qui trình tiếp thị, với trọng tâm được đặt vào việc xây dựng các
mối quan hệ với khách hàng và thu nhận giá trị từ các khách hàng. Các Chương 3, 4, 5
và 6 đề cập đến bước thứ nhất của qui trình tiếp thị - hiểu biết môi trường tiếp thị, quản
lý thông tin tiếp thị, và hiểu biết hành vi của khách hàng. Trong Chương 7, chúng ta
xem xét sâu hơn hai quyết định chính yếu trong chiến lược tiếp thị: chọn lọc các khách
hàng nào để phục vụ (sự phân khúc và định mục tiêu) và quyết định về lời xác nhận giá
trị (sự phân biệt sản phẩm và xác định vị trí). Các Chương 8 đến 16 thảo luận về các
biến trong hỗn hợp tiếp thị (marketing mix variables), từng biến một. Chương 17 tóm tắt
về chiến lược tiếp thị được thúc đẩy bởi khách hàng và việc tạo ra lợi thế cạnh tranh trên
thương trường. Sau đó, ba chương cuối cùng xem xét các yếu tố tiếp thị đặc biệt: công
nghệ tiếp thị trong thời đại số mới, tiếp thị toàn cầu, và các qui tắc đạo đức và trách
nhiệm xã hội trong tiếp thị.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
32
> Ôn lại các Khái niệm <
Các công ty thành công ngày nay đều tập
trung mạnh vào khách hàng và cam kết với
tiếp thị ở mức độ cao. Mục tiêu của tiếp
thị là xây dựng và quản lý các mối quan hệ
có lợi với khách hàng.
1. Định nghĩa tiếp thị (marketing) và phác
thảo các bước trong qui trình tiếp thị.
Tiếp thị (marketing) là một qui trình qua
đó các công ty tạo ra giá trị cho khách
hàng và xây dựng các mối quan hệ mạnh
với khách hàng nhằm thu nhận giá trị từ
khách hàng để đổi lại.
Qui trình tiếp thị bao gồm năm bước.
Bốn bước đầu tạo ra giá trị cho các khách
hàng. Đầu tiên các nhà tiếp thị cần phải
hiểu biết thương trường cũng như nhu
cầu và ước muốn của khách hàng. Kế
đến, các nhà tiếp thị thiết kế một chiến
lược tiếp thị được thúc đẩy bởi khách
hàng với mục tiêu là kiếm được, giữ
chân và phát triển các khách hàng mục
tiêu. Trong bước thứ ba, các nhà tiếp thị
tạo lập một chương trình tiếp thị thật sự
đem đến giá trị vượt trội. Tất cả các
bước này làm cơ sở cho bước thứ tư, xây
dựng các mối quan hệ có lợi với khách
hàng và tạo ra sự thích thú của khách
hàng. Trong bước cuối cùng, công ty gặt
hái những phần thưởng của các mối quan
hệ mạnh với khách hàng bằng cách thu
nhận giá trị từ các khách hàng.
2. Giải thích tầm quan trọng của việc
hiểu biết khách hàng và thương
trường, và xác định năm khái niệm cốt
lõi về thương truờng.
Các công ty tiếp thị xuất chúng cố
gắng nhiều để nhận biết và hiểu được nhu
cầu, ước muốn và cầu của khách hàng
của mình. Sự hiểu biết này giúp họ thiết
kế được những hàng chào tiếp thị thỏa
mãn ước muốn của khách hàng và xây
dựng được các mối quan hệ mang nhiều
giá trị với khách hàng, qua đó họ có thể
thu nhận được giá trị cả đời của khách
hàng và tỷ phần khách hàng lớn hơn. Kết
quả là công ty nhận được vốn cổ phần
khách hàng dài hạn gia tăng.
Các khái niệm cốt lõi về thương
trường là nhu cầu, ước muốn và cầu;
hàng chào tiếp thị (các sản phẩm, các
dịch vụ, và kinh nghiệm); giá trị và sự
thỏa mãn; các giao dịch (trao đổi) và
các mối quan hệ; và các thị trường. Các
ước muốn là hình thức mà các nhu cầu
của con người thể hiện ra như chúng
được định hình bởi văn hóa và cá tính
của cá nhân. Khi được hỗ trợ bởi sức
mua, ước muốn trở thành cầu (demands).
Các công ty giải quyết các nhu cầu bằng
cách đưa ra một lời xác nhận giá trị, đó
là một tập hợp các lợi ích họ hứa hẹn
đem đến cho khách hàng để thỏa mãn
các nhu cầu của khách hàng. Lời xác
nhận giá trị được thực hiện thông qua
một hàng chào tiếp thị (marketing offer)
đem đến giá trị và sự thỏa mãn cho
khách hàng, dẫn đến các mối quan hệ
trao đổi dài hạn với các khách hàng.
3. Xác định các thành phần then chốt
của một chiến lược tiếp thị được thúc
đẩy bởi khách hàng và thảo luận về
những định hướng quản lý tiếp thị
hướng dẫn chiến lược tiếp thị.
Để thiết kế được một chiến lược tiếp
thị thành công, công ty trước hết phải
quyết định mình sẽ phục vụ ai. Công ty
làm điều này bằng cách phân chia thị
trường thành những phân khúc khách
hàng (sự phân khúc thị trường) và chọn
lọc các phân khúc nào mình sẽ tìm cách
chiếm lĩnh (định mục tiêu tiếp thị). Kế
đến công ty phải quyết định sẽ phục vụ
các khách hàng mục tiêu bằng cách nào
(nó sẽ phân biệt và xác định vị trí bản
thân mình ra sao trên thương trường).
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
33
Đội ngũ quản lý tiếp thị có thể áp
dụng một trong năm định hướng thị
trường cạnh tranh với nhau. Khái niệm
sản xuất cho rằng nhiệm vụ của đội ngũ
quản lý là cải thiện hiệu quả sản xuất và
làm cho giá cả giảm xuống. Khái niệm
sản phẩm (product concept) cho rằng
người tiêu dùng sẽ ủng hộ các sản phẩm
mang lại nhiều nhất xét về chất lượng,
hiệu năng, và những đặc điểm có tính đổi
mới; như thế đòi hỏi ít nỗ lực xúc tiến.
Khái niệm bán cho rằng những người
tiêu dùng sẽ không mua đủ các sản phẩm
của công ty trừ khi công ty thực hiện một
nỗ lực xúc tiến và bán hàng qui mô lớn.
Khái niệm tiếp thị (marketing concept)
cho rằng việc đạt được các mục tiêu của
tổ chức phụ thuộc vào việc xác định
được các nhu cầu và các ước muốn của
các thị trường mục tiêu và việc đem đến
những sự thỏa mãn được ao ước hữu hiệu
và hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh
đem đến. Khái niệm tiếp thị mang tính xã
hội cho rằng tạo ra sự thỏa mãn của khách
hàng và phúc lợi xã hội dài hạn là chìa
khóa để vừa đạt được các mục tiêu của
công ty và hoàn thành các trách nhiệm
của công ty.
4. Thảo luận về việc quản lý mối quan hệ
với khách hàng, và xác định các chiến
lược tạo ra giá trị cho khách hàng và
đổi lại nắm bắt giá trị từ khách hàng.
Theo nghĩa rộng, quản lý mối quan
hệ với khách hàng là toàn bộ quá trình
xây dựng và duy trì các mối quan hệ có
lợi với khách hàng bằng cách đem đến
giá trị và sự thỏa mãn vượt trội cho
khách hàng. Mục đích của việc quản lý
mối quan hệ với khách hàng là tạo ra vốn
cổ phần khách hàng (customer equity)
cao. Vốn cổ phần khách hàng là tổng số
các giá trị cả đời của khách hàng kết hợp
lại của tất cả các khách hàng của công ty.
Điều then chốt để xây dựng các mối quan
hệ lâu dài với khách hàng là tạo ra giá trị
và sự thỏa mãn vượt trội cho khách hàng.
Các công ty mong muốn không chỉ
kiếm được các khách hàng có lời, mà còn
xây dựng các mối quan hệ mà sẽ giữ
chân được khách hàng và làm tăng “tỷ
phần khách hàng.” Các loại khách hàng
khác nhau đòi hỏi các chiến lược khác
nhau về quản lý mối quan hệ với khách
hàng. Mục đich của nhà tiếp thị là xây
dựng các mối quan hệ thích hợp với các
khách hàng thích hợp. Để đền đáp lại
việc tạo ra giá trị cho các khách hàng
mục tiêu, công ty thu nhận được giá trị từ
các khách hàng dưới hình thức lợi nhuận
và vốn cổ phần khách hàng.
Trong việc xây dựng các mối quan hệ
với khách hàng, các nhà tiếp thị giỏi nhận
ra rằng họ không thể làm việc đơn thân
độc mã. Họ phải làm việc chặt chẽ với
các đối tác tiếp thị bên trong lẫn bên
ngoài công ty. Ngoài việc thực hiện tốt
việc quản lý mối quan hệ với khách hàng,
họ còn phải thực hiện tốt việc quản lý
mối quan hệ đối tác.
5. Mô tả những xu hướng và lực lượng
chính đang làm thay đổi quang cảnh
tiếp thị trong thời đại này của các mối
quan hệ.
Khi thế giới tiến vào thế kỷ hai mươi
mốt, những thay đổi ngoạn mục đang
diễn ra trên vũ đài tiếp thị. Sự tăng
trưởng mãnh liệt trong các công nghệ
máy tính, viễn thông, thông tin, giao
thông vận tải, và các công nghệ khác đã
tạo ra những cách thức mới thật lý thú để
tìm hiểu và theo dấu khách hàng, và để
làm ra các sản phẩm và dịch vụ được
điều chỉnh cho thích hợp với nhu cầu của
từng khách hàng riêng lẻ. Trong một thế
giới ngày càng nhỏ lại, nhiều nhà tiếp thị
hiện nối kết toàn cầu với các khách hàng
và các đối tác tiếp thị của họ. Ngày nay,
hầu hết mọi công ty, dù lớn hay nhỏ, đều
chịu ảnh hưởng trong một chừng mực
nào đó của sự cạnh tranh toàn cầu. Các
nhà tiếp thị của ngày hôm nay cũng đang
xem xét lại các trách nhiệm về mặt đạo
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
34
đức và xã hội của họ. Các nhà tiếp thị
đang được kêu gọi nhận trách nhiệm
nhiều hơn về tác động xã hội và môi
trường của các hành động của họ. Cuối
cùng, trong quá khứ, tiếp thị đã được áp
dụng rộng rãi nhất trong khu vực kinh
doanh vì lợi nhuận. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, tiếp thị cũng đã trở
thành một phần quan trọng trong các
chiến lược của nhiều tổ chức không vì lợi
nhuận, như là các trường đại học, bệnh
viện, viện bảo tàng, các dàn nhạc giao
hưởng, và thậm chí cả các nhà thờ.
Như đã thảo luận từ đầu đến cuối
chương này, những phát triển mới và
quan trọng trong tiếp thị có thể được tóm
gọn trong cụm từ: các mối quan hệ (trong
tiếng Anh, chỉ một từ duy nhất:
relationships). Ngày nay, các nhà tiếp
thị thuộc mọi loại đang tận dụng các cơ
hội mới để xây dựng các mối quan hệ với
các khách hàng của họ, với các đối tác
tiếp thị của họ và thế giới xung quanh họ.
> Ôn lại Các Thuật ngữ Then chốt <
Vốn cổ phần khách hàng (Customer
equity) 21
Giá trị cả đời của khách hàng (Customer
lifetime value) 19
Giá trị được khách hàng cảm nhận
(Customer perceived value) 13
Quản lý mối quan hệ với khách hàng
(Customer relationship management) 13
Sự thỏa mãn của khách hàng (Customer
satisfaction) 13
Cầu (demands) 6
Phản tiếp thị (Demarketing) 8
Sự trao đổi hay Giao dịch (Exchange) 7
Liên mạng (Internet) 24
Thị trường (Market) 7
Tiếp thị (Marketing) 5
Khái niệm tiếp thị (Marketing concept) 10
Quản lý tiếp thị (Marketing management) 8
Hàng chào tiếp thị (Marketing offer) 6
Nhu cầu (needs) 6
Quản lý mối quan hệ đối tác (Partner
relationship management) 18
Khái niệm sản phẩm (Product concept) 10
Khái niệm sản xuất (Product concept) 9
Khái niệm bán (Selling concept) 10
Tỷ phần khách hàng (Share of Customer) 20
Khái niệm tiếp thị mang tính xã hội
(Societal marketing concept) 11
Ước muốn (wants) 6
> Thảo luận về các Khái niệm <
1. “Giá trị cho khách hàng và sự thỏa mãn
của khách hàng” là một khái niệm trong
năm khái niệm cốt lõi về thương trường
được sử dụng trong việc hiểu biết thương
trường và các nhu cầu của khách hàng.
Bốn khái niệm cốt lõi khác về thương
trường là gì? Trong năm khái niệm cốt
lõi này, có một khái niệm nổi bật như là
quan trọng hơn bất cứ khái niệm nào
trong số còn lại phải không? Hãy biện
minh cho câu trả lời của Anh/Chị.
2. Hãy đối chiếu hai định hướng tiếp thị
sau đây:
“Khái niệm Bán” và “Khái niệm Tiếp
thị” Anh/Chị có thể cho biết một thị
trường hay loại thị trường ở đó “Khái
niệm Bán” vẫn còn là định hướng quản
lý tiếp thị thông dụng nhất hay không?
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
35
3. Các chương trình về giữ chân khách
hàng và sự trung thành của khách hàng là
quan trọng trong việc xây dựng các mối
quan hệ với khách hàng và vốn cổ phần
khách hàng. Hãy thảo luận tại sao một
chuỗi cửa hàng tạp hóa toàn quốc như là
Von’s hay Kroger’s sẽ chọn một chương
trình “câu lạc bộ” hơn là một chương
trình “tần suất”.
4. “Ngày nay, hầu hết các nhà tiếp thị nhận
ra rằng họ không muốn có quan hệ bừa
với bất cứ khách hàng nào”. Anh/Chị có
đồng ý với lời phát biểu này không? Tại
sao? Công ty nào sẽ có nhiều khả năng
theo đường lối này hơn, Wal-Mart hay
Porsche?
5. Có hợp lý hay không khi nói rằng làm
việc với các phòng ban khác trong một tổ
chức có thể đem đến giá trị nhiều hơn
cho các khách hàng? Hãy trình bày ngắn
gọn làm thế nào việc làm việc với phòng
phụ trách nguồn nhân lực của Anh/Chị
có thể tạo ra giá trị cho khách hàng nhiều
hơn.
6. Bước thứ năm và là bước cuối cùng
trong qui trình tiếp thị là thu nhận giá trị
và tạo ra lợi nhuận và vốn cổ phần khách
hàng cho tổ chức. Kể tên bốn bước tạo
ra giá trị cho khách hàng trong qui trình
tiếp thị này mà dẫn đến việc tạo ra giá trị
cho tổ chức Qui trình tiếp thị này có tính
lặp đi lặp lại không?
> Áp dụng các Khái niệm <
1. Chương này thảo luận về các khái niệm
giá trị cho khách hàng và sự thỏa mãn
của khách hàng. Dựa trên sự hiểu bỉết
nói trên, có phải là hợp lý khi cho rằng
nếu Anh/Chị gia tăng giá trị được khách
hàng cảm nhận thì có sự gia tăng tương
ứng trong sự thỏa mãn của khách hàng?
Trong các điều kiện nào điều này có thể
không xảy ra?
2. Một công ty điện thoại di động tốn chi
phí tổng cộng là 148,50 đô la để kiếm
được một người sử dụng mới. Tính
trung bình, người sử dụng mới này chi
tiếu 60 đô la mỗi tháng cho việc gọi điện
thoại và các dịch vụ liên quan, và công ty
điện thoại di động này kiếm được mức
biên lợi nhuận (profit margin) là 18 phần
trăm trong mỗi tháng trong số 25 tháng
mà người sử dụng này được kỳ vọng sẽ
tiếp tục sử dụng dịch vụ. Giá trị cả đời
của khách hàng từ người sử dụng này đối
với công ty điện thoại di động nói trên là
bao nhiêu?
> Tập trung vào Công nghệ <
Một bài viết trên CFO.com của John
Berry, eCFO (Giám đốc Tài chính), thảo
luận về khái niệm Giá trị Cả đời của Khách
hàng (Customer Lifetime Value) (mặc dù
trong bài viết này nó được gọi là Giá trị từ
Khách hàng Cả đời (Lifetime Customer
Value)). Berry mô tả làm thế nào
Convergys, một nhà cung cấp các giải
pháp chăm sóc người làm công và khách
hàng và lập hóa đơn, đã phát triển công
nghệ giúp cho một công ty có doanh thu
2,1 tỷ đô la đạt được mức gia tăng 16% về
thu nhập từ hoạt động kinh doanh từ Nhóm
Quản lý Khách hàng của nó. Một phần lớn
của sự gia tăng này xuất phát từ “thành
công trong việc kiếm được hoạt động kinh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
36
doanh mới từ những khách hàng cũ” và có
liên quan trực tiếp đến công nghệ “chỉ số
mô hình hóa giá trị cả đời” mà Convergys
đã tạo ra. Bob Lento, VP về Bán hàng của
Convergys đã nói, “Chỉ số mô hình hóa giá
trị cả đời là một sự chứng thực giá trị thực
nghiệm về điều tin tưởng dựa vào trực giác
của chúng tôi rằng có tiềm năng phát triển
một cách đáng kể các mối quan hệ với
khách hàng hiện hữu”. Bảng bên đây cho
thấy chỉ số Convergys xây dựng cho khách
hàng của họ.
1. CLV (Giá trị Cả đời của Khách hàng)
dựa trên tiền đề cơ bản gì?
2. Hãy trình bày ý kiến của Anh/Chị về trị
số của CLV.
3. Thí dụ này bao gồm các thước đo phi
hoạt động. Điều này có hợp lý không?
Tại sao?
HỆ THỐNG XẾP HẠNG CLV ĐƯỢC XÂY
DỰNG BỞI CONVERGYS
Chỉ số
(Index)
Thước đo
(Measures)
Trọng số
(Weight)
Điểm số doanh
thu trung bình
Chi tiêu hiện tại
và dự phóng
15%
Điểm số thay đổi
doanh thu
Chi tiêu thực sự
từ năm trước
sang năm sau
15%
Điểm số khả năng
sinh lời
Biên đóng góp
(Hiệu số gộp) của
khách hàng
20%
Mối quan hệ hiện
tại
Khoảng thời gian
hợp đồng đã ký
kết, tổng số năm
như là khách
hàng
10%
Sự vướng mắc về
công nghệ
Sự tích hợp các
hệ thống, việc
báo cáo, dịch vụ
có sự hỗ trợ của
Covergys Web,
thư điện tử
20%
Tỷ phần khách
hàng
Tiếm năng Thuê
ngoài (outsource
potential)
10%
Quan hệ đối tác Mức độ tiếp xúc,
giá trị tương lai
có thể tham khảo
10%
* Xem “Giá trị từ khách hàng cả đời”, CFO.com,
15/9/2001, www.cfo.com/Article?article-4899.
> Tập trung vào các Quy tắc Đạo đức <
Là một người anh, chị, cô, dì, cậu, chú bác
vv, Anh/Chị biết rằng một lượng đáng kể
quảng cáo về thực phẩm nhắm đến trẻ em
từ 6 đến 11 tuổi. Một báo cáo gần đây của
Quỹ Kaiser đã xem xét lại các kết quả tìm
thấy của 40 nghiên cứu về vai trò của các
phương tiện truyền thông đại chúng trong
việc thúc đẩy sự gia tăng nhanh chóng
bệnh béo phì của tuổi thơ ấu ở Hoa Kỳ.
Báo cáo này kết luận rằng đa số nghiên
cứu tìm thấy mối liên kết trực tiếp giữa
lượng thời gian trẻ con dùng vào việc
tương tác với các phương tiện truyền thông
đại chúng và trọng lượng cơ thể của chúng.
“Báo cáo này dẫn chứng các nghiên cứu
cho thấy rằng một đứa trẻ Hoa Kỳ tiêu biểu
nhìn thấy vào khoảng 40.000 mẩu quảng
cáo mỗi năm trên vô tuyến truyền hình, và
rằng đa số các mẩu quảng cáo nhắm vào
trẻ con là quảng cáo các loại kẹo, món ăn
ngũ cốc, soda và thực phẩm ăn nhanh”*
Hãy đặt mình vào vai trò một giám đốc
thương hiệu của một sản phẩm về thực
phẩm (snack ngọt) với thị trường mục tiêu
chủ yếu là trẻ con tuổi từ 6 đến 11. Trong
một cuộc phỏng vấn qua điện thoại,
Anh/Chị được hỏi những câu hỏi sau đây
bởi một phóng viên từ Tạp chí Phố Wall để
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Tiếp thị Địa phương
Bài đọc
Chương 1:
Tiếp thị: Quản lý các mối quan hệ có lợi
với khách hàng
Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
37
đáp ứng báo cáo của Qũy Kaiser. Anh/Chị
sẽ trả lời như thế nào?
1. Các quảng cáo về thực phẩm mà trẻ con
được cho xem trên TV có khiến chúng
chọn những thực phẩm không lành mạnh
hay không?
2. Có phải các chương trình xúc tiến chéo
giữa sản phẩm của Anh/Chị và các nhân
vật được hâm mộ trong ngành điện ảnh
và trên TV khuyến khích trẻ con mua và
ăn những thực phẩm nhiều calo?
3. Có phải Anh/Chị sẽ ủng hộ qui định của
chính phủ nhắm đến việc kiểm soát các
quảng cáo về thực phẩm đối với trẻ con
tuổi từ 6 đến 11?
* Hãy xem “Making a Meal of Couch
Potatoes and Doughnuls”, Tuần lễ Tiếp
thị, 25 tháng 3, 2004, trang 28; và
www.kff.org/entmedia/7030cfm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiếp thị- Quản lý các Mối Quan hệ Có lợi với Khách hàng.pdf