Nhà ở là một tổ hợp về sinh hoạt và văn hoá của cư dân mỗi dân tộc. Nó phản ánh trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời phản ánh chiều hướng phát triển kinh tế, gắn liền với cảnh quan
xung quanh và phương thức sinh hoạt của một tộc người. Nhà của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ
tỉnh Thái Nguyên mang nhiều nét đặc trưng so với các địa phương khác, đặc biệt trong các bước
tiến hành làm nhà
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 395 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quá trình xây dựng nhà của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phan Đình Thuận Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 59 - 64
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Qu¸ tr×nh x©y dùng nhµ cña ng-êi Nïng
ë huyÖn §ång Hû, tØnh Th¸i Nguyªn
Phan Đình Thuận*
Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Nhà ở là một tổ hợp về sinh hoạt và văn hoá của cư dân mỗi dân tộc. Nó phản ánh trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời phản ánh chiều hướng phát triển kinh tế, gắn liền với cảnh quan
xung quanh và phương thức sinh hoạt của một tộc người. Nhà của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ
tỉnh Thái Nguyên mang nhiều nét đặc trưng so với các địa phương khác, đặc biệt trong các bước
tiến hành làm nhà.
Từ khoá: Dân tộc Nùng, Đồng Hỷ, Nhà mới, Văn hoá, Dân tộc
Ngôi nhà được dựng có thể là nhà cũ hay nhà
mới làm song đây là mốc đánh dấu sự kiện
trọng đại của một đời người. Do vậy, việc
dựng nhà, làm nhà luôn được chuẩn bị kỹ
lưỡng và chu đáo trình tự qua nhiều bước
khác nhau.
*
Chọn đất và hướng nhà
Ngôi nhà mới được làm dù sang trọng hay
bình dân cần phải có hệ thống nghi lễ, tập tục
phức tạp và tốn kém. Trước khi tiến hành làm
nhà mới người Nùng chú trọng xem tuổi và
xem hướng nhà. Ngôi nhà mới thường được
đặt ở vị trí đẹp. Để chọn vị trí dựng nhà, lúc
xế chiều của một ngày tốt, chủ nhà đến chỗ
định làm nhà cắm một cộc nứa và dắt vào
chân cọc những lá cỏ gianh, đồng thời đào
một hố bằng cái bát to, nện chặt xung quanh
rồi lấy gạo đặt xuống thành từng chòm. Theo
quan niệm của họ, các chòm tượng trưng
cho người và gia súc quây quần xung quanh
ngôi nhà. Điều này thể hiện ước muốn của
họ về một cuộc sông no đủ, sung túc trong
tương lai.
Mặt khác, để biết được chỗ dự định làm nhà
có tốt hay không, người Nùng rất đề cao giấc
mộng của mình. Họ cho rằng khi chuẩn bị
làm nhà mới, nếu chủ nhà mơ thấy nước, cây
cối xanh tươi là điềm tốt. Ngược lại nếu mơ
thấy màu đỏ là điều không hay. Đặc biệt họ
rất kỵ tiếng kêu của hươu nai... Nếu mọi
*
Tel: 0977040824; Email: Mickeychuyentn@gmail.com
chuyện đều tốt lành thì chủ nhà làm nhà trên
đất đã định sẵn.
Người Nùng tin theo thuyết Phong thuỷ nên
họ thường mời các thầy về xem cho. Ngày
xưa, khi đất đai còn rộng, dân cư thưa thớt,
người ta mới chú ý chọn đất, còn ngày nay,
họ chỉ chọn hướng. Theo thuyết Phong thuỷ,
đất để làm nhà ở, đình chùa, dựng xóm thôn
gọi là dương trạch. Dương trạch phải hài hoà
với thiên nhiên, có môi trường tốt khiến con
người cảm thấy tươi vui, hoà nhã, cơ thể khoẻ
mạnh, tinh thần sảng khoái. Đất làm nhà phải
gần nguồn nước, đất đai màu mỡ nhưng phải
cao ráo, không ẩm thấp, không khí trong lành,
có đường đi thuận tiện. Cũng giống như quan
niệm làm nhà trước đây, ngày nay người
Nùng họ vẫn kiêng làm nhà trên nền giếng cũ
hay ngõ cụt. Những mảnh đất ở nơi gần chùa,
miếu mạo, nơi thờ cúng thường không được
đồng bào chọn để xây dựng nhà ở. Nếu có thì
phải cách phạm vi chùa một khoảng nhất định
bởi họ cho rằng đó là nơi ngự trị của thánh
thần, phạm phải đất đó là bị thánh thần quở
phạt, trách móc. Những nơi có cây cổ thụ hoá
mộc tinh, những tảng đá cuội đã hoá thạch
tinh đều phải tránh xa vì ở đó có nhiều ma
quỷ quấy nhiễu. Nếu làm thì phải lập miếu
thờ trong vườn, hương khói thường xuyên.
Tuy nhiên, nếu thời kỳ trước năm 1945 quá
trình lựa chọn đất làm nhà có nhiều thuận lợi
hơn nên vị trí của những ngôi nhà này thường
rất đẹp. Còn ngày nay, hướng của các ngôi
nhà của người Nùng rất đa dang. Dù gia chủ
Phan Đình Thuận Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 59 - 64
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
không được hướng đẹp thầy địa lý cũng sẽ
dùng thuật để hoá giải các hướng cho thích
hợp để gia chủ yên tâm.
Sau khi dã lựa chọn được nơi làm nhà, người
ta bắt đầu chọn hướng. Đây là công việc quan
trọng mà không một gia đình nào được phép
bỏ qua. Ông thầy cúng dựa vào tuổi chủ nhà,
la bàn và sách để chọn hướng nhà. Hướng
chính của nhà là hướng của bàn thờ và là
hướng để mở cửa chính. Tuy nhiên, hiện nay
nhiều gia đình hướng bàn thờ không phải là
hướng nhà. Hướng đẹp là hướng không bị núi
che khuất, không có những lùm cây có hình
thù quái đản án ngữ hay nhòm ngó vào nhà,
không có đường, hoặc nóc nhà chính của
người khác lao thẳng vào nhà, là hướng hợp
với tuổi chủ nhà. Nhìn chung, người Nùng
không có quan niệm hướng nào tốt hơn hư-
ớng nào như người Kinh và người Cơ Lao.
Người Kinh cho rằng hướng Nam là hướng
đẹp nhất: "Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng
Nam", với người Cơ Lao thì hướng mở cửa
chính đẹp nhất là hướng Đông, bởi đó là
hướng chào đón ánh nắng mặt trời từ sáng
sớm, là hướng tượng trưng cho sự sống và
phát triển, thu gom của cải vào nhà
[23,tr.185].
Ở hướng nào thì nhà của người Nùng cũng
đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho sản
xuất và sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu của cuộc
sống. Suy cho cùng việc chọn đất, chọn
hướng nhà chỉ là tận dụng tối đa thế mạnh của
môi trường tự nhiên để đối phó với chính nó.
Hướng của các ngôi nhà của người Nùng hiện
nay rất phong phú. Hầu hết các ngôi nhà đều
tập trung chủ yếu ở đường Quốc lộ, đường
liên thôn, liên xóm... Điều này xuất phát từ sự
phát triển của nền kinh thế thị trường và các
nhu cầu xã hội khác.
Chọn vật liệu.
Vật liệu xây dựng đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong xây dựng. Nó không chỉ quyết
định tuổi thọ, quy mô, hình dáng, vẻ đẹp,
phương pháp và tốc độ thi công của công
trình mà còn biểu hiện cả trình độ phát triển
khoa học kỹ thuật của một dân tộc, một quốc
gia [l l,tr.28]. Trước năm 1945 vật liệu tạo lên
những ngôi nhà thường là các loại gỗ quý
(lim, sến, tấu). Mặt khác đường kính của
các loại cột trong nhà thường có đường kính
lớn hơn những ngôi nhà làm giai đoạn sau.
Tuy nhiên, từ năm 1945 đến nay đặc biệt
trong thời gian gần đây việc tìm kiếm vật liệu
làm nhà cổ truyền thống gặp rất nhiều khó
khăn. Diện tích rừng của huyện Đồng Hỷ chủ
yếu là rừng tái sinh. Do vậy, gỗ quý hiếm ít
và kích thước còn nhỏ. Những ngôi nhà làm
theo kiểu truyền thống ngày càng ít đi. Để
khắc phục những hạn chế đó và phù hợp với
xu thế phát triển của nền kinh tế – xã hội địa
phương. Cư dân địa phương đã biết tạo ra và
tìm kiếm những vật liệu thay thế. Mặt khác,
loại hình nhà, quy mô của ngôi nhà cũng
được thay đổi cho phù hợp.
Ngày nay, vật liệu làm nên những ngôi nhà
của người Nùng chủ yếu là gỗ tái sinh (thành
ngạnh, xoan). Do vậy khi nhìn vào chất liệu
gỗ và đường kính của cột nhà chúng ta cũng
phần nào biết được thời gian làm ra ngôi nhà.
Bên cạnh những loại gỗ lấy từ tự nhiên, đồng
bào đã biết sử dụng ximăng, sắt thép để thay
thế vật liệu truyền thống khi xây dựng nhà
bếp hay những công trình phụ
Hiện nay, tuy đã có nhiều vật liệu xây dựng
mới thay thế nhưng người Nùng vẫn sử dụng
một số vật liệu: Tre, nứa, mai, vầukhi làm
nhà. Một số gia đình còn sử dụng những cây
gỗ lâu năm trong vườn để làm nhà như xoan,
bạch đàn, keo
Nếu như những ngôi nhà truyền thống của
người Nùng trước đây, vật liệu sử dụng để
buộc các vì kèo và mái thường là cây mây
nước và một số loại dây rừng thì ngày nay
vậy liệu này đã được thay thế bằng nhiều vật
liệu mới phong phú hơn ( sắt, thân cây hóp)
Dùng làm lạt buộc ngoài tre, nứa, giang còn
phải kể đến cây mây nước và một số loại dây
rừng. Những loại vật liệu để lợp nhà chủ yếu
là cỏ tranh, lá hèo, rạ. Đó là loại vật liệu dễ
kiếm, phổ biến và lợp nhà tốt ở vùng trung
Phan Đình Thuận Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 59 - 64
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
du. Những vật liệu để làm tường vách, ngoài
tre, nứa, gỗ, rạ còn có đất đồi. Các loại vật liệu
trên luôn được dùng kết hợp lẫn nhau, chỉ có sự
kết hợp chặt chẽ giữa các loại vật liệu trên thì
sức bền của ngôi nhà mới đảm bảo lâu dài.
Những ngôi nhà được xây dựng trước năm
1945 thường được lợp bằng cỏ tranh, lá hèo,
rạNhững vật liệu phổ biến ở vùng miền núi.
Tuy nhiên, những ngôi nhà được làm sau đó
vật liệu để lợp phong phú hơn: Ngói âm
dương, lá cọ, rạ.
Cũng giống như thời kỳ trước năm 1945
người Nùng thường chọn vật liệu lúc nông
nhàn. Khác với một số dân tộc ở nước ta,
người Nùng không có tập tục giúp đỡ nhau
hay chọn ngày đi lấy vật liệu. Thường thì gia
đình tự chuẩn bị vật liệu, bao giờ đủ thì mới
làm nhà. Người ta lên rừng chọn những cây
tre, cây gỗ vừa ý, chặt xuống và mang về nhà
bằng những chiếc xe quệt do trâu kéo hoặc
bằng sức người. Gỗ thường được họ lấy vào
mùa thu, đầu mùa đông hoặc ngày không có
ánh trăng để tránh mối mọt. Cây gỗ, cây tre
ấy phải thẳng, đều gióng. Có như vậy mới
đảm bảo ý nghĩa khoa học, sức bền của vật
liệu và mỹ quan. Cũng như người Mông, Tày,
Sán Dìu, người Nùng kiêng không lấy cây bị
sét đánh, chết khô, gãy ngọn, bị đổ hay song
ngà, xà leo. Người ta cho rằng đó là những
cây bị thần ma làm hỏng, nếu lấy về không
phát đạt. Tuy nhiên, thời gian tập hợp vật liệu
ngày cành được rút ngắn.
Tóm lại, vật liệu để xây dựng là một trong
những yếu tố quyết định đến độ bền và thẩm
mỹ của ngôi nhà. So với những ngôi nhà cổ
truyền thống của người Nùng được làm nên
trước năm 1945 thì vật liệu tạo nên những
ngôi nhà trong giai đoạn hiện nay có một số
điểm khác biệt. Sự khác biệt này, được thể
hiện ở chất lượng, độ bền của vật liệu. Những
vật liệu thay thế hiện nay, tuy không giữ được
những nét truyền thống trong văn hoá của tộc
người song nó vẫn đảm bảo cho một tổ ấm
của đồng bào nơi đây. Có thể nói, dù trình độ
nền kinh tế xã hội có phát triển đến chừng nào
đi chăng nữa thì những giá trị văn hoá truyền
thống của tộc người vẫn là nét đẹp vĩnh cửu.
Qua khảo sát thực tiễn, chúng tôi nhận thấy
rằng để có thể làm được ngôi nhà truyền
thống của người Nùng trong giai đoạn hiện
nay là một vấn đề hết sức khó khăn. Do vậy
vấn đề bảo tồn văn hoá tộc người là trách
nhiệm của toàn xã hội.
Ngay nay, người dân ở Đồng Hỷ đã xây
dựng nhà bằng nguồn vật liệt hiện đại như
gạch, ngói, vôi, vữa, xi măng, sắt thép. Song,
dù cho xã hội có hiện đại đến dâu thì những
vốn kinh nghiệm dân gian quý báu trên vẫn sẽ
được lưu truyền, đó không chỉ là vốn quý của
dân tộc Nùng mà còn là "tài sản'', kinh
nghiệm của dân tộc Việt Nam.
3 - Chọn tuổi làm nhà và ngày khởi công.
Khi chuẩn bị xong nguồn nguyên vật liệu,
đồng bào mới chọn năm làm nhà, chọn ngày
khởi công. Người chủ biện một lễ nhỏ đến
nhờ thầy xem tuổi mình có làm được nhà vào
năm nay không, khởi công hôm nào, dựng
vào ngày nào và ngày nào vào nhà mới là đẹp
nhất. Tất cả những ngày đó đều được ông
thầy xem, dựa vào tuổi của chủ nhà và ngày
sấm ra đầu tiên của năm đó.
Người Nùng kiêng làm nhà vào tuổi Kim lâu
bởi làm vào tuổi đó sẽ gây hoạ cho gia đình.
Kim lâu được chia thành Kim lâu thân, kim
lâu thê, kim lâu tử, kim lâu lục súc. Tuổi kim
lâu chỉ được tính cho đàn ông vì thế làm nhà
thường theo tuổi đàn ông. Các thầy tính tuổi
kim lâu bằng cách lấy cả tuổi mụ của chủ gia
đình chia cho 9, nếu dư 1 là kim lâu thân, dư
3 là kim lâu thê, dư 6 là kim lâu tử, dư 8 là
kim lâu lục súc [11,tr. 626]. Vì vậy, các thầy
có câu "1,3,6,8 thị kim lâu" . Bên cạnh đó, họ
còn kiêng tam tai, hoang ốc, đặc biệt là kiêng
ngày sấm ra đầu tiên trong năm đó. Bởi họ
cho rằng, ông sấm lên trời sẽ lấy hết vận may.
Ví dụ gia đình ông Lý Văn Chân ở Cầu Đất,
ông sinh năm 1939, làm nhà theo hướng
Nam, nếu làm vào năm 1987 phát kỵ ngày
Dần bởi đó là ngày ông sấm lên trời; nếu làm
nhà vào năm 2003 thì phải kỵ ngày Thìn vv...
Phan Đình Thuận Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 59 - 64
62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Sau khi xem xét kỹ lưỡng, thầy mới xem ngày
giờ khởi công và các thủ tục khác có liên
quan. Nếu chủ nhà không được tuổi làm nhà,
người ta có thể mượn người đứng tên chủ nhà
Chủ nhân sắm lễ vật nhỏ, thường là mâm cơm
để cúng tổ tiên và Long thần, Thổ địa. Người
được mượn tuổi làm nhà (thường là người
thân trong họ) đứng ra lấy tên mình để lo
công việc làm nhà cho xong xuôi. Đến khi
vào nhà mới, người ta làm lễ bán nhà. Người
bán nhà sẽ khấn rằng: ... tỉnh, ... phủ, ...
.Huyện, . . . xã. . . .thôn. Con tên là. . . tuổi . .
.được Long thần, thổ địa cùng Tổ tiên chứng
giám, nay con đã làm xong ngôi nhà, có chút
lễ mọn, thắp nén hương tạ ơn Long thần, Thổ
địa và Tổ tiên. Nay em (cháu, anh...) là. . . ,
tuổi . . chưa có chỗ ở nên con bán lại cho chú
bác, cháu. . . ) ấy với giá. . . Mong Long thần,
Thổ địa cùng tổ tiên chứng giám phù hộ cho
gia đình chú (cháu, bác . . .) ấy mạnh khoẻ,
làm ăn phát dạt. Sau đó, người chủ đưa cho
người đứng tên một khoản tiền mang tính
tượng trưng và nói: "Em giao cho anh đủ. . ."
rồi thắp hương khấn nhận nhà.
Khi đã xem được tuổi làm nhà và các ngày
quan trọng thì chủ nhân ra về chuẩn bị làm lễ
"Khởi móng" (người Kinh gọi là động thổ).
Có thể nói, đây là một trong những nghi lễ
quan trọng để xin phép Thổ thần và Tổ tiên
phù hộ cho việc làm nhà. Cũng như người
Việt, người Nùng thường làm mâm cỗ mặn,
bao giờ cũng có con gà nhưng phải là gà sống
thiến. Nghi lễ này do chủ nhân tiến hành,
cũng có thể được thực hiện bởi thầy địa lý.
Sau khi khấn xong, người được tuổi làm nhà
sẽ cầm cuốc, cuốc bốn góc từ Đông, Nam,
Tây, Bắc và ở giữa trung cung hoàng thổ).
Thường thì ngày khởi công là ngày đặt móng
luôn. Ông thầy sẽ thắp hương ở cả bốn góc và
ở giữa mảnh đất, sau đó vừa khấn, vừa làm
phép đi vòng quanh nhà để xua đuổi tà ma,
quỷ quái, cô hồn, quả tú. Nhất là gia đình có
phụ nữ mang thai thì công việc này được làm
cẩn thận hơn. Sau khi hành lễ xong, chủ nhân
sẽ đổ đất vào bốn góc tường cũng theo chiều
Đông, Bắc, Tây, Nam và ở giữa, và lấy chày
giã mạnh. Chỉ khi nào chủ nhà làm xong tin
bà con làng xóm mới bắt tay vào giúp.
Trong cả quá trình làm nhà mới, không ai
được phép nói bậy sợ động chạm đến thần
linh, sau này gia chủ sẽ gặp những điều
không tốt.
Đối với những gia đình có con cái ra ở riêng
mà chưa có điều kiện thì chỉ chọn đất, chọn
hướng nhà rồi dựng nhà phụ để ở tạm. Ngôi
nhà phụ ấy không cần xem tuổi, ngày giờ
khởi công, ngày dựng, ngày vào nhà mới bởi
đó chỉ là ngôi nhà tạm làm trong 1 - 2 ngày là
xong. Ngôi nhà này sẽ được giữ đến khi vợ
chồng chủ nhà có đủ điều kiện để cất ngôi nhà
mới khang trang hơn. Đó cũng là cách để thử
đất có lành hay không. Nếu sau khi ở một thời
gian thấy không tốt, họ sẽ chuyển đi nơi khác,
coi đó như một cách thử đất làm nhà.
Ngày dựng và cách thức dựng
Để làm một ngôi nhà mới người Nùng coi
trọng việc dựng cột chính là việc quan trọng
nhất. Thông thường để chọn cột nhất là cột
cái đồng bào chuẩn bị những cây gỗ tốt,
thẳng, không cụt ngọn, không có dây leo,
không bị sét đánh, cháy ngọn hay bị đổ ngã.
Mặt khác ngôi nhà phải được làm từ nhiều
loại gỗ, mỗi cột được làm bằng những chất
liệu gỗ riêng.
Trên cơ sở chuẩn bị chu đáo, đầy đủ nguyên
vật liệu, để tiến hành dựng nhà, người Nùng
coi trọng thời gian dựng nhà. Tuy nhiên, mấy
thời điểm họ đặc biệt coi trọng đó là:
- Trước hết cột chính của ngôi nhà phải được
dựng phải đúng vào giờ tốt. Thời gian dựng
cột có thể là nửa đêm hay có thể là thời gian
khác nếu là giờ đẹp. Sau khi cột chính được
dựng lên, chủ nhà ôm lấy cột chính đặt vào hố
đã được đào sẵn.
- Bên cạnh đó làm nhà mới người Nùng chú ý
đến thời điểm làm nhà bếp và lợp nóc. Khi
lợp nhà chính gần xong thì ngôi nhà bếp được
dựng lên. Ngôi nhà bếp thường do các cụ
nhiều tuổi tiến hành làm, trước khi dựng nhà
bếp người ta chôn vào bốn góc bếp, bốn ống
Phan Đình Thuận Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 59 - 64
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nứa, sau đó đổ đất lên. Khi làm xong nhà bếp,
nóc của ngôi nhà chính mới được hoàn thành.
Đặt nóc được coi là một trong những nghi lễ
quan trọng, ảnh hưởng đến đời sống tâm lý
của cả gia đình. Có nhiều nhà cẩn thận còn
dán giấy đỏ vào hai đầu ngôi nhà để xua tà
ma định quấy nhiễu gia đình. Những cây nóc
được làm sau này còn được viết chữ lên, ghi
rõ ngày tháng năm đặt nóc, coi đó như sự xác
định chủ quyền. Nếu ngày tốt không kịp dựng
xong thì nhất định phải đặt nóc trước rồi hôm
sau dựng tiếp. Sau khi dựng xong, người ta
bắt đầu lợp nhà, lợp hai mái phụ trước rồi đến
hai mái chính.
Lễ vào nhà mới
Sau khi đã làm nhà xong, chủ nhà phải chọn
ngày lành tháng tốt. Đồng thời để thuận lợi
trong việc tiến hành nghi lễ vào nhà mới, chủ
nhà nhờ một bà cụ hiền lành, phúc hậu, có
con cháu đông đúc, kinh tế khá giả, bà cụ sẽ
thực hiện nghi lễ bằng cách, bà cụ mang một
bó đuốc lên nhà sau đó mang xuống bếp và
nhóm lửa. Người Nùng quan niệm làm như
vậy sẽ xua đuổi tà ma, vía độc ra khỏi nhà ...
Sau đó chủ nhà gọi cả gia đình lên nhà mới
bắt đầu cuộc sống mới.
Sau khi làm xong nhà mới, để báo cho Tổ
tiên, Thổ địa và Ma xó, chủ nhà phải tiến
hành nghi lễ thờ cúng. Lễ vật thờ cúng bao
gồm: Gà, xôi, rượu... Nghi lễ này được thực
hiện, chủ nhà cầu mong tổ tiên và Thần linh
phù hộ cho gia đình làm ăn phát đạt, cuộc
sống hoà thuận hạnh phúc. Đây cũng chính là
ngày vui của gia đình, họ hàng và làng xóm.
Mọi người chia sẻ niềm vui với chủ nhà và
chúc những lời chúc tốt đẹp.
Lễ vào nhà mới là một trong những nghi thức
không thể thiếu được khi làm xong ngôi nhà.
Trước hết, người ta cần tiến hành một số công
việc tại nhà vừa dựng xong, như là làm ống
hương đặt ở các nơi thờ cúng. Ngoài ra, còn
phải ấn định nơi đặt bếp nấu nướng, kiếm củi
sẵn để đó. Bàn thờ được đóng mới hoặc nếu
dùng bàn thờ cũ phải lau chùi sạch sẽ, kể cả
các đồ thờ. Nhà phải được tẩy rửa sạch vôi
vữa, kể cả bếp, xoong nồi, kiềng đều được rửa
sạch sẽ với ý niệm là vứt bỏ những điều xấu
xa để đón lấy những điều tốt đẹp khi vào nhà
mới. Đến ngày giờ đẹp đã được chọn trước,
người ta mới khiêng bàn thờ vào trong nhà, từ
đó phải thắp hương liên tục, trong thời gian
03 tháng cứ hết một tuần hương lại rót thêm
một tuần trà, rượu. Sau khi chuẩn bị xong
mâm cơm cúng đặt lên bàn thờ, gia chủ (hay
người được tuổi làm nhà) thắp nén hương
khấn tạ báo cáo Tổ tiên, Long thần, Thổ địa,
ông Táo đã hoàn tất ngôi nhà, mời các thần,
Tổ tiên về an toạ. Sau đó người ta mang
muối, gạo rồi đến các thứ khác vào nhà.
Cùng ngày hôm đó, họ làm lễ chuyển lửa vào
nhà. Bếp được coi là nơi rất linh thiêng nên
mọi việc phải được làm cẩn thận. Bà chủ nhà
chuẩn bị thau nước sạch bê vào nơi có ý định
đun nấu, lau rửa sạch sẽ chỗ đó và đặt chiếc
kiềng sạch lên. Nghi lễ này mang ý nghĩa tẩy
uế cho bếp, làm sạch nơi ở của Ông Táo. Sau
đó, người ta mang lửa hoặc tro bếp từ nhà bố
mẹ hoặc từ nhà cũ sang với ý niệm rước ông
Táo về để ông không đi lạc hướng. Tiếp dó,
người phụ nữ đặt siêu nước (nồi nước) đầy
lên kiềng sau đó nhóm củi cho bếp cháy đến
khi sôi thì thôi. Nếu để bếp tắt ngang chừng
hoặc lên lửa ít, gia đình sẽ gặp nhiều trắc trở,
làm ăn không suôn sẻ.
Như vậy so với các tập tục khác, nghi lễ vào
nhà mới của người Nùng tuy không tốn kém
nhiều về vật chất, song việc làm nhà mất rất
nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên, nghi
lễ làm nhà mới một phần thể hiện văn hoá
riêng của tộc người trong cộng đồng văn hóa
các vùng miền Việt Nam.
Cũng như ở nhiều dân tộc khác, ngôi nhà của
người Nùng đã trải qua những chặng đường
lịch sử với nhiều biến đổi nhất định theo điều
kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế và xã hội. Dù
ở thời kỳ nào, ngôi nhà ấy cũng mang những
đặc điểm dân tộc và những nét đặc trưng tộc
người riêng biệt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Đình Thuận Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 59 - 64
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
[1]. Ănghen(1958), Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và Nhà nước.
[2]. Ănghen, (1960) Chống Duy Rinh, Nxb Sự thật.
[3]. N.N. Siêpôsalôp và I.A. Siêpốalôva(1960), Về
sự phân loại nhà theo dân tộc học lịch sử (trong
cuốn "Dân tộc học là gì ?"- Nxb Sử học, HN.
[4]. Nguyễn Khắc Tụng (1977), Nhà cửa của nông
dân người Việt ở Trung du Bắc Bộ, Tạp chí Dân
tộc học số 3.
[5]. Nguyễn Khắc Tụng (1978), Nhà cửa các dân
tộc ở trung du Bắc Bộ Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội Việt Nam.
[6]. Lê Duẩn (1980), CM XHCN Việt Nam, Nxb
Sự thật - Hà Nội, tập 3.
[7]. Sổ tay về các dân tộc Việt Nam (1983), Nxb
Khoa học xã hội - Hà Nội.
[8]. Bộ đội cần biết về các dân tộc ở biên giới phía
Bắc (1983), Nxb Quân đội nhân dân - Hà Nội.
[9]. Hà Văn Thư, Lã Văn Lô (1984), Văn hoá Tày
- Nùng, Nxb Văn hoá - Hà Nội
[10]. Ngô Huy Quỳnh (1986), Tìm hiểu lịch sử
kiến trúc Việt Nam, Nxb Xây dựng - Hà Nội.
[11]. Trần Văn Tam (1990), Xây dựng nhà theo
thuyết phong thuỷ, Nxb Văn hóa Thông tin, HN.
SUMMARY
HOUSE CONSTRUCTION PROGRESS OF TAY-NUNG ETHNIC
IN DONG HY THAI NGUYEN
Phan Dinh Thuan
*
College of Education - TNU
Housing is a complex of living and culture activities of each ethnic population. It reflects the level
of social - economic development, and reflects the trend of economic development, associated
with the surrounding landscape and way of living of a minority group. House of the Nung people
in Dong Hy district, Thai Nguyen province offers many features compared to other places,
especially in the steps to build the house.
Keywords: Nung ethnic, Dong Hy, New house, Culture, Ethnic
*
Tel: 0977040824; Email: Mickeychuyentn@gmail.com
Phan Đình Thuận Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 59 - 64
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32424_35884_7820129634quatrinhxaydungnhacuanguoinubng_84_2052792.pdf